.
Chánh Giác Tông
(Buddhavamsa)
Hòa thượng
Bửu Chơn
Tam Bảo Tự,
Đà Nẵng
In lần thứ nhất: 1954
In lần thứ hai: 1966
--- o0o
---
[01]
CHÁNH GIÁC TÔNG
NAMATTHU RATANA TAYASSA
Xin nghiêm Thân, Khẩu, Ý trong sạch để làm lễ Tam Bảo.
NAMO
TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMÀSAMBUDDHASSA (3 lần)
Tôi xin thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A-la-hán Vô thượng,
đã đắc quả Chánh Biến Tri, Tam-miệu Tam-bồ-đề.
PHẬT NGÔN
DHAMMO HAVE RAKKHATI
DHAMACÀRIM
DHAMMO SUCINNO SUKHAMÀ VAHATI ESÀNISAMSO
DHAMMESUCINNE NA SUGGATIM GACCHATI DHAMMACÀRÌ
Người thực hành theo
Pháp Bảo, thì Pháp Bảo hộ trì.
Người hằng tích trử Pháp lành thì được đến sự an vui và lợi ích .
Người thực hành theo Pháp Bảo, thì không sanh vào cảnh khổ.
--- o0o
---
THẬP
ĐỘ BA-LA-MẬT
Trước khi giải về pháp Chánh giác tông
tôi xin giải tóm tắt về pháp Thập Độ tín dụng (DASAPÀRAMÌ) là pháp của
chư Bồ-tát (chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh; BODHISATTA) quá
khứ, vị lai và hiện tại nguyện thành một bậc Chánh Biến Tri (SAMMÀ
SAMBUDDHA) đều phải thực hành theo cho tròn đủ và cho đúng thời kỳ
nhất định mới chứng quả vị được.
DASAPARÀMÌ: Mười pháp Ba-la-mật hay
Thập Độ là:
1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí Ba-la-mật
(Đáo bỉ ngạn tới bờ bên kia Niết Bàn).
2. SÌLA PÀRAMÌ: Trì giới Ba-la-mật.
3. NEKKHAMMA PÀRAMÌ: Xuất gia
Ba-la-mật
4. PANNÀ PÀRAMÌ: Trí tuệ Ba-la-mật
5. KHANTÌ PÀRAMÌ: Nhẫn nhục
Ba-la-mật
6. VIRIYA PÀRAMÌ: Tinh tấn Ba-la-mật
7. SACCA PÀRAMÌ: Chân chánh
Ba-la-mật
8. ADHITTHÀNA PÀRAMÌ: Nguyện vọng
Ba-la-mật
9. METTA PÀRAMÌ: Bác ái Ba-la-mật.
10. UPEKKHÀ PÀRAMÌ: Xả Ba-la-mật
Trong mỗi pháp trên đây đều chia làm 3
bực là: hạ, trung, thượng, thành ra 30 pháp. Mỗi pháp chia làm 3 bực
là:
1. DÀNA PÀRAMÌ: Bố thí bực hạ.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ PUTTA
DÀRASSA PARICÀGO DÀNA PÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh
phát sanh vì lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí của cải,
vợ, con, gọi là bố thí Ba-la-mật bậc hạ.
2. DÀNA UPPA PÀRAMÌ: Bố thí bậc trung.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ ANGA
PARICÀGO DÀNA UPPAPÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh
phát sanh vì lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí tay,
chân, thịt, mắt, mũi, mình gọi là bố thí Ba-la-mật bậc trung.
3. DÀNA PARAMATTHA PÀRAMI: Bố thí bậc
thượng.
KARUNOPÀYA KOSALLA PARITAHITÀ JIVITA
PÀRICÀGO DÀNA PARAMATTHA PÀRAMÌ NÀMA.
Người rành mạch trong lúc tâm minh
phát sanh lòng bi mẫn thương xót đến kẻ khác rồi bố thí mạng sống
(là cắt đầu hoặc mỗ lấy tim mình mà cho kẻ khác) gọi là bố thí
Ba-la-mật bậc thượng.
Còn 9 pháp kia khi thực hành cũng
mường tượng như trên.
Chỗ nói đúng thời kỳ nhất định là:
Phải biết chư Bồ-tát (là chúng sanh mà giác ngộ hơn chúng sanh, chớ
không ai gọi là Phật Bồ-tát bao giờ), chia làm 3 bậc:
1- PANNÀDHIKA BODHISATTA: Chư Bồ-tát
thuộc về huệ lực, phải tu trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả
địa cầu.
2- SADDHÀDHIKA BODHISATTA: Chư
Bồ-tát thuộc về tín lực là có nhiều đức tin, phải tu trong 8
A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
3- VIRIYÀDHIKA BODHISATTA: Chư
Bồ-tát thuộc về tấn lực và nhiều sự tinh tấn, phải tu trong 16
A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp quả địa cầu.
Nói về sự nguyện vọng của mỗi vị
Bồ-tát chia ra làm 3 thời kỳ:
1. Chư Bồ-tát thuộc về Huệ lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm không
nói ra lời, là 7 A-tăng-kỳ.
b. Thời kỳ phát nguyện ra lời mà chưa gặp Phật nào thọ ký là 9
A-tăng-kỳ .
c. Thời kỳ gặp một vi Phật thọ ký cho tới khi thành tròn đủ 30 pháp
Ba-la-mật và thành đạo là 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
2. Chư Bồ-tát thuộc về Tín lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 14
A-tăng-kỳ
b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp Đức Phật thọ ký là 8
A-tăng-kỳ.
c. Thời kỳ gặp một vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày thành đạo quả là 8
A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
3. Chư Bồ-tát thuộc về Tấn lực:
a. Thời kỳ nguyện trong tâm là 28
A-tăng-kỳ.
b. Thời kỳ phát nguyện bằng lời nói mà chưa gặp một vi Phật thọ ký
là 36 A-tăng-kỳ .
c. Thời kỳ gặp 1 vị Phật tổ thọ ký cho tới ngày thành đạo quả là 16
A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp.
-oOo-
Tất cả chư Bồ-tát trên đây nếu nói tóm
lại thì chỉ còn có hai bậc là:
1/ ANIYATA BODHISATTA: Bất Thường
Bồ-tát là chư Bồ-tát chưa thành tựu được nguyện vọng, là chư Bồ-tát
nào đã nguyện trong tâm hoặc nói ra nhưng mà chưa gặp được một vị
Phật tổ nào thọ ký cho thì chưa chắc sẽ thành một bậc Chánh giác
được.
2 / NIYATA BODHISATTA: Thường trụ
Bồ-tát là chư Bồ-tát đã thành tựu được nguyện vọng là Bồ-tát đã được
truyền hoặc một vị Phật tổ thọ ký, chắc chắn sẽ thành Chánh giác
trong ngày vị lai.
-oOo-
SAMODHÀNA
DHAMMA: 8 pháp tròn đủ.
Chư Bồ-tát phải có tròn đủ 8 pháp:
1- MANUSSATTAM: Phải là loài người
chớ không phải trời hay thú.
2- LINGA SAMPATTI: Phải là nam nhơn
chớ không phải là phụ nữ hay là bán nam bán nữ.
3- HETU: Có đủ duyên lành để đắc quả
Alahán trong kiếp ấy (ví dụ như đạo sĩ Sumedha là Bồ-tát tiền thân
Phật tổ Thích Ca)
4- SATTHÀRA DASSANAM: Gặp được Đức
Phật ra đời và được làm một điều phước thiện nào tới Đức Phật ấy.
5- PABBAJJÀ: Phải là người xuất gia.
6- GUNA SAMPATTI: Phải đầy đủ những
pháp của bậc cao nhơn là có ngũ thông và bát thiền.
7- ADHIKARO: Đã được làm phước báu
cao thượng là bố thí mạng sống mình và vợ con mình do tâm nguyện cho
thành Chánh giác.
8- CHANDATÀ: Phải có ý nguyện đầy đủ
quyết cho thành một bậc Chánh giác dầu cho khó khăn, khổ sở thế nào
cũng không nao núng và thối chuyển.
Chư Bồ-tát nào có tròn đủ 8 pháp trên
đây, thì mới được chư Phật thọ ký cho và từ ấy mới gọi là NIYATA
BODHISATTA, là Bồ-tát chắc chắn sẽ thành Chánh giác không sai.
-oOo-
BUDDHA BHÙMI:
4 Pháp căn cứ của chư Bồ-tát đã được thọ ký.
1) USSÀHA: Rất siêng năng dõng mãnh
trong sự làm điều thiện.
2) UMMAGGA: Có trí tuệ phân biệt
thiện ác, để xa lánh điều dữ và hành theo điều lành.
3) AVATTHANA: Có chí quả quyết và
cứng rắn là khi đã làm một điều thiện nào không hề thối chuyển và
ráng làm cho tới thành tựu.
4) HITACARIYÀ: Khi làm một việc nào
toàn là việc hữu ích cho mình và cho kẻ khác.
Chư Bồ-tát đã được thọ ký một khi
làm một việc chi đều lấy 4 pháp trên để làm căn cứ cho tâm mình.
-oOo-
AJJHÀSAYA:
6 khuynh huớng của Bồ-tát
Chư Bồ-tát đã được thọ ký đều có 6
khuynh hướng.
1) ALOBHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng
không tham, và luôn luôn có tác ý muốn dứt bỏ của cải mình để làm
việc hữu ích cho kẻ khác.
2) ADOSAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng
không sân, và luôn luôn có tâm từ bi đối với kẻ khác.
3) AMOHAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng
không si, và có trí tuệ suy xét rõ rệt rồi mới tin.
4) NEKKHAMMAJJHÀSAYA: Có khuynh
hướng muốn xuất gia, và có ý dứt bỏ các sự quyến luyến.
5) PAVIVEKAJJHÀSAYA: Có khuynh hướng
ở nơi thanh vắng, và có ý muốn xa lánh các bè bạn và nơi hội hợp
đông đảo.
6) NISSARANAJJHÀSAYA: Có khuynh
hướng muốn giải thoát khỏi ái dục, phiền não và sự khổ não của cõi
thế gian.
Chư Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì luôn
luôn có những tư cách và nết hạnh đã kể trên.
-oOo-
ACCHARIYA
DHAMMA: 7 pháp xuất chúng của
chư Bồ-tát đã được thọ ký.
1) PÀPPATIKUTHA CITTO: Có tâm gớm
ghê điều xất xa tội lỗi, là tâm của Bồ-tát đã được thọ ký rồi thì hổ
thenï và ghê sợ điều tội lỗi cũng như người bị phỏng lửa thấy lửa
ghê sợ vậy.
2) PASÀRANA CITTO: Có tâm vui thích
theo điều thiện, là tâm của Bồ-tát lúc nào cũng vui tươi thỏa thích
đến điều lành việc phải, một khi đã làm điều thiện nào thì sốt sắng
vui vẻ làm cho đến khi được thành tựu không bao giờ bỏ dỡ.
3) ADHIMUTTA KÀLAKIRIYÀ: Tâm nguyện
ngưng tuổi thọ đã nhứt định, là khi Bồ-tát sanh về cõi trời làm cho
ngưng trệ sự tạo pháp Ba-la-mật để độ chúng sanh ở thế gian, ngài
bèn nguyện cho tuổi thọ ở cõi trời ấy cho giảm đi để sanh xuống trần
gian độ đời, liền khi ấy tuổi thọ giảm bớt và sanh liền xuống cõi
thế gian.
4) VISESAJANATTAM: Là một bậc khác
thường hơn tất cả chúng sanh khi ở trong bụng mẹ, vì tất cả chúng
sanh khi ở trong bụng mẹ thì ngồi chồm hổm, hai tay nằm lại đở càm,
mặt day vào lưng mẹ, đầu đội đồ mẹ mới ăn vào, mình ngồi trên vật
thực cũ dơ dáy gớm ghê, còn Bồ-tát thì ở trong bụng mẹ rất sạch sẽ,
mặt day ra phiá trước ngồi xếp bằng như vị pháp sư.
5) TIKÀLANNÙ: Có sự nghi nhớ và biết
rõ 3 thời kỳ, khi kiếp chót sẽ thành đạo thì: khi đầu thai vào lòng
mẹ, biết rõ ta đầu thai vào lòng mẹ, khi ở trong bụng mẹ cũng biết
rõ đương ở trong bụng mẹ, lúc sanh ra khỏi lòng biết rõ đương sanh
ra khỏi lòng. Còn chư Phật Độc Giác và hai Thượng Thinh văn thì chỉ
biết trong hai thời kỳ, trừ lúc ra khỏi lòng mẹ thì không biết, còn
80 vị đại A-la-hán thì chỉ biết có một thời kỳ là lúc vào thai bào
mà thôi.
6) PASÙTIKÀLO: Khi sanh ra thì Phật
mẫu đứng sanh. Lúc ấy Bồ-tát xuôi hai tay xuống và tuột ra, cũng như
vị pháp sư từ trên pháp tọa đi xuống vậy.
7) MASSUNA JATIYO: sanh ra trong
loài người là tất cả chư Bồ-tát khi kiếp cuối cùng sẽ thành Chánh
Giác thì sanh ra làm người, chớ không phải trời hoặc là súc sanh.
Nếu sanh làm trời mà thành đạo thì loài người lại thối thoát kiếm cớ
cho là trời mới tu thành Phật được, còn nếu sanh làm súc sanh thì
loài người cho thấp hèn hơn mình cũng không chịu tu theo, nên chư
Bồ-tát mới sanh ra làm người để độ chư thiên, loài người và súc sanh
cũng được. Hơn nữa khi làm người lúc nhập Niết Bàn mới có Xá Lợi lại
cho chư thiên và nhân loại lễ bái cúng dường.
7 pháp trên đây là xuất chúng (lạ
thường) của chư Bồ-tát đã được thọ ký.
Tất cả chư Bồ-tát đã giải trên đây đều
phải thực hành theo 10 pháp Ba-la-mật đúng theo khuôn khổ nhất định
của thời kỳ và đã được một vị Phật tổ thọ ký, tiên tri cho biết trước
rằng còn bao nhiêu năm, tháng, ngày v..v... sẽ thành môt vị Phật tổ,
chừng ấy mới gọi là "Thường trụ Bồ-tát" và thế nào cũng đắc quả Chánh
Biến Tri "A-nậu-la tam-miệu tam-bồ-đề" không sai vậy.
-oOo-
GIẢI VỀ
A-TĂNG-KỲ: ASANKHÀYA
Một hôm có vị Tỳ khưu bạch với Đức
Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, 1 A-tăng-kỳ là bao lâu? Phật giải rằng:
Không thể nói là bao nhiêu năm được, chỉ ví dụ cho hiểu thôi.
Theo trong Tam tạng (quyển 32 chương
86): Ví dụ như có 1 khối đá vuông vức 1 do tuần (16 cây số) trong 1
trăm năm có 1 vị Chư thiên xuống, lấy tấm lụa thật mõng quét khối đá
ấy, rồi cách một trăm năm sau cũng quét như thế, cho tới khi nào khối
đá ấy bằng mặt đất thì mới gọi là 1 A-tăng-kỳ. Hoặc ví dụ như 1 cái
thùng vuông vức 1 do tuần đầy hột cải, trong 1 trăm năm mới có 1 vị
Chư thiên tới lấy ra 1 hột, rồi cách 1 trăm năm sau lấy ra 1 hột nữa,
lần lượt như thế cho đến khi lấy hết những hột cải trong thùng ấy mới
gọi là A-tăng-kỳ.
Hay là viết 1 con số 1 rồi thêm 140
con số không (zéros) nữa cũng gọi là 1 A-tăng-kỳ, đây là A-tăng-kỳ của
kiếp trái đất chớ không phải làm năm.
KIẾP (KAPPA):
1 thời gian
Chổ nói kiếp có 4 là : Thành, Trụ,
Hoại, Không
1) Bắt đầu từ khi quả địa cầu cấu
tạo đầu tiên như bọt nước rồi dần dần đặc lại như bột và cứng như
đất thật lâu, không thể kể là bao nhiêu năm tháng nhưng chưa có ai ở
(sanh) trên mặt địa cầu gọi là kiếp Thành.
2) Bắt đầu từ khi có 1 người đầu
tiên sanh vào quả địa cầu cho tới khi người ta sanh ra vô số như
hiện nay gọi là kiếp Trụ.
3) Bắt đầu từ khi trên mặt địa cầu
không còn ai ở (sanh) nữa cho tới khi nước bể cả khô khan vì sức
nóng của ánh thái dương rồi cháy luôn quả địa cầu đi gọi là kiếp
Hoại.
4) Bắt đầu từ khi quả địa cầu đã
tiêu hoại chỉ còn khí hư, u u, minh minh, không không vô cùng vô tận
tạo nên quả địa cầu khác gọi là kiếp Không.
4 kiếp kể trên đây nhập lại thành 1
đại kiếp, mà chư Bồ-tát phải thực hành pháp Ba-la-mật cho đúng thời kỳ
nhất định của những đại kiếp ấy.
--- o0o
---
Mục Lục | 1
| 2 |
3 |
--- o0o
---
Chân thành
cảm ơn Ðạo hữu Bình An Son đã gởi tặng phiên bản này.
Trình bày :
Nhị Tường
Cập
nhật ngày: 1-2-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục