---o0o---
Các vị giới tử,
Hôm nay quý vị đến đây để lãnh đạo giáo pháp của Phật. Đó là một việc làm
có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ sự thọ giới mà chúng ta trở thành một Phật
tử chân chính, lợi mình, lợi người, lợi tất cả chúng sinh, và làm cho Phật
giáo miên trường giữa thế gian. Vì lẽ đó quý vị nên lắng hết tâm thành để
lãnh thọ những lời Phật dạy qua sự giáo giới của Chư tăng.
Ngày nay, Phật tử đến với giáo pháp của Phật là cốt tìm một phương pháp
giải thoát an lạc, cũng như ngày xưa khi Phật còn tại thế, các vị cư sĩ
cũng đi đến với Ngài để cầu mong sự chỉ giáo nơi Ngài, hầu đem lại cho họ
một cuộc sống hạnh phúc an vui. Kinh Tăng Chi Bộ IIIA ghi lại rằng, một
hôm, một cư sĩ tại gia đệ tử tên là Dighajanu (đầu gối dài) đi đến Thế
Tôn, đảnh lễ và bạch rằng :
--
Bạch đức Thế Tôn, chúng con là những người gia chủ, còn hưởng thọ các dục,
sống hệ phược với vợ con, dùng các thứ hương hoa, phấn sáp, thọ lãnh vàng
bạc. Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng
con, thuyết như thế nào để những pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc
an lạc ngay trong hiện tại và hạnh phúc an lạc trong tương lai.
Ngày nay, các Phật tử tại gia đến đây, dù không nói rõ trong tâm tư nhưng
có lẽ cũng ôm ấp một hoài bảo tương tự, ấy là làm thế nào để, với tư cách
một tại gia cư sĩ còn thọ hưởng dục lạc, có được một đời sống hạnh phúc an
lạc ngay trong hiện tại và cả về tương lai.
Mặc dù vị thương gia nầy sống với dục lạc thế gian, ông nhận thấy những
tài sản vật chất chỉ giúp cho ông sống chứ không giúp cho ông an lạc. Ở
giữa quyến thuộc vợ con đầy đủ, danh vọng tràn trề, tài sản sung túc,
nhưng nếu tâm tư còn trĩu nặng âu lo, sợ hãi, tham lam, thù hận, thèm
khát, thì dĩ nhiên sự sống đó chưa phải là sự sống an lạc. Cầu mong Phật
ban cho một phương pháp đem lại cho ông hạnh phúc lâu dài. Ông cư sĩ ấy
còn nhấn mạnh, trong khi vẫn thụ hưởng dục lạc chứ không phải cạo tóc xuất
gia sống đời thoát tục như những vị Tỳ-kheo. Đó là một lời hỏi rất chân
thành tha thiết, đồng thời, cũng là một viên đá thử vàng. Đạo Phật, dù sao
siêu vị diệu thật nhưng liệu có ích lợi gì cho cái tuyệt đại đa số người
còn lăn lóc trong thế gian hay không? Hay muốn theo Phật thì phải ly gia
cát ái? Câu trả lời của Phật đặc biệt chú trọng đến đời sống của tại gia
cư sĩ biết là dường nào.
Phật dạy người ấy rằng :
--
Này cư sĩ, có bốn pháp này đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho
thiện nam tử. Thế nào là bốn? Đó là:
1.
Đầy đủ sự tháo vác.
2.
Đầy đủ sự phòng hộ.
3.
Làm bạn với thiện.
4.
Sống thăng bằng điều hòa.
1.
Thế nào là đầy đủ sự tháo vác?
"Đầy đủ sự tháo vác" nghĩa là, tại gia cư sĩ dù làm nghề nghiệp gì, cũng
cần phải tinh xảo, siêng năng không biết mỏi mệt, biết suy tư, hiểu phương
tiện, vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm.
2.
Thế nào là đầy đủ sự phòng hộ?
"Đầy đủ sự phòng hộ" nghĩa là, những tài sản đã do tháo vác siêng năng mà
thu hoạch được, do mồ hôi đổ ra đúng pháp kiếm được, phải khéo giữ gìn
phòng hộ, để cho khỏi bị vua mang đi, bị trộm cướp mang đi, bị lửa đốt, bị
nước trôi, bị con hư hỏng phá tan. Đây là những lời dạy rất thiết thực. Vì
hàng tại gia không như xuất gia khất thực để sống mà còn phải có nhiều bổn
phận đối với cha mẹ, vợ con quyến thuộc, cho nên cần phải có một nghề
nghiệp chánh đáng để làm ra của cải. Muốn thế cần phải siêng năng, tinh
xảo trong công việc, nghề nghiệp của mình. Nếu không siêng năng tháo vác,
thì đã bị lôi cuốn vào những việc bất chính để kiếm tiền. Một khi mạng
sống không chính đáng như vậy, của cải làm được do nghề nghiệp bất lương
sẽ bị vua chúa tịch thâu. Vậy cách giữ gìn của cải khỏi bị vua mang đi là
phải có nghề nghiệp chính đáng. Nhưng tài sản đã do mồ hôi kiếm được một
cách khó khăn như thế cần phải đề phòng các tai nạn nước, lửa, trộm và
nhất là con hư phá tán. Đây là lời dạy rất thiết thực. Có nhiều nhà giàu
có, vì quá thương con mà để chúng xài phí của cải không tiếc vào những
cuộc cờ bạc rượu chè say sưa như vậy là dung dưỡng những kẻ bất lương phá
của, hại cho gia đình, xã hội và quốc gia. Vì khi nó đã phá của cha mẹ hết
rồi sẽ đi phá làng xóm láng giềng hại cả mọi người. Bởi thế, Phật dạy có
tiền cần phải phòng hộ, đừng để lọt vào tay những đứa con hư hỏng. Nghĩa
là ngoài việc làm giàu cần nên giáo dục con cái cho cẩn thận nữa.
3.
Thế nào là làm bạn với thiện?
"Làm bạn với thiện" nghĩa là, tại nơi mình sống, hay thị trấn, mà có những
người gia chủ hay con trai chủ có giới đức đầy đủ lòng tin, bố thí, trí
tuệ, thì nên làm quen nói chuyện, thảo luận với họ. Từ những người đầy đủ
lòng tin hãy học tập lòng tin. Từ những người đầy đủ giới đức học tập giới
đức. Từ những người đầy đủ bố thí, học tập bố thí. Từ những người đầy đủ
trí tuệ, học tập trí tuệ. Đây là làm bạn với thiện. Hai lời dạy đầu là dạy
làm ra của cải vật chất và giữ gìn nó. Đến điều thứ ba này là dạy về Pháp
tài tức của cải tinh thần, tâm linh, để thế gian khỏi chê cười là nhà giàu
có của mà vô lương tâm. Vậy, người tại gia phải trau dồi Phật pháp để có
những ngôn ngữ hành động, ý nghĩ phù hợp với giáo lý, để trở thành một
nhân cách cao thượng.
4.
Thế nào là sống thăng bằng điều hòa?
"Sống thăng bằng điều hòa": Sau khi làm ra của cải cần phải chi dùng một
cách thích ứng, nghĩa là không quá phung phí mà cũng không quá bỏn xẻn.
Nếu số xuất quá số nhập là người tiêu pha quá rộng rãi, thì dễ bị phá sản
và còn hỏng mất cả tâm tư. Ngược lại, quá bỏn xẻn không dám tiêu tiền thì
trở thành nô lệ cho của cải. Người làm chủ của cải vật chất thì sống an
lạc, mà bị vật chất làm chủ thì đó là người nô lệ, khổ sở. Làm chủ vật
chất là cần phải tiêu dùng thì cứ tiêu dùng, không cần tiêu dùng thì giữ
lại. Người bị của cải làm chủ thì có tiền cứ giữ bo bo, tiêu dùng cho bản
thân cũng không dám nói gì đến gia quyến vợ con và bố thí cho người ngoài.
Như vậy, sống thăng bằng có nghĩa là, không phung phí cũng không hà tiện.
Phật dạy đến bốn nguyên tắc để sống điều hòa là phải đóng bốn cửa ngõ cho
tài sản khỏi đi ra: Một là đam mê sắc dục, hai là đam mê rượu chè, ba là
đam mê cờ bạc, và bốn là giao du kẻ ác. Nếu đóng bốn cửa ấy lại thì tài
sản không bị thất thoát vô ích, gia chủ sẽ được sống hạnh phúc an lạc.
Khi Phật dạy làm bạn với thiện để trau dồi lòng tin, giới đức, bố thí và
trí tuệ, chính là bốn điều để sống an lạc trong tương lai. Phật tử quy y
Tam Bảo là thực hiện đầy đủ lòng tin. Hôm nay quý Phật tử đến thọ giới
chính là thực hiện điều thứ hai: Đầy đủ giới đức. Là Phật tử mà không giữ
gìn giới hạnh, hành động tà vạy không xứng đáng lời dạy của đức Thế Tôn,
thì dù có xưng là Phật tử cũng không phải Phật tử. Cho nên có đầy đủ giới
đức mới xứng đáng là con Phật. Thứ ba, đầy đủ bố thí. Bố thí là hạnh đầu
tiên mà đức Phật dạy cho tất cả những ai đến với ngài, vì lòng tham ô đứng
đầu mọi tệ ác cần phải được điều phục bằng hạnh bố thí. Bố thí là san sẻ
vật chất, khả năng, công lực, hiểu biết, tình cảm, giáo lý v.v... tất cả
những gì mình có mà người khác không có. Một nụ cười với người đang sợ hãi
cũng là sự bố thí, đôi khi có tác dụng rất lớn lao. (Có người lắm khi chỉ
một nụ cười, mà người ta cũng ngăn lại không cho nó mở ra!) Bố thí cao
nhất là mở rộng lòng mở rộng tâm tư. Nếu chỉ biết thu mà không biết xuất
thì người ấy là một người bỏn xẻn, ích kỷ. Xã hội mà gồm những người như
vậy, thì không hạnh phúc. Một gia đình ai cũng chỉ nghĩ cho bản thân thì
gia đình ấy không hạnh phúc. Bố thí trước hết là để dứt lòng tham, dứt
tính bỏn xẻn và dứt lòng ganh tị. Có của, có quyền, có danh, đều nên bố
thí san sẻ. Bố thí, san sẻ danh dự như thế nào? Khi được người trân trọng,
mà mình đối lại bằng khiêm cung thì đó chính là bố thí danh dự của mình,
như vậy chẳng những tạo được hạnh phúc cho mình, mà còn đem lại an vui
hạnh phúc cho người. Bởi thế, nên không phải chỉ có tiền của mới bố thí,
mà hễ có thân, có tâm là có thể bố thí được cả. Nếu trong tâm mọi người
đều luôn luôn nghĩ đến bố thí, thì sự đua tranh, ganh tị sẽ giảm bớt rất
nhiều.
Điều thứ tư là đầy đủ trí tuệ. Người Phật tử là con đấng Đại giác. Ngài đã
chứng ngộ được tất cả vũ trụ, tâm tánh chúng sinh, nên dạy giáo pháp phù
hợp với căn cơ trình độ để chúng sinh nhờ đó nuôi lớn tâm hồn. Là con Đấng
giác ngộ mà u mê thì thật không xứng, nên cần phải trau dồi trí tuệ. Phật
dạy: "Mọi sự tuần hoàn trong nhân duyên nhân quả". Nghe như vậy, chúng ta
cần phải suy xét ra như thế nào? Nghe là văn tuệ, suy xét là tư tuệ. Nhưng
nghe cho đúng, có đầu có đuôi rõ ràng mới là văn tuệ. Có người đi nghe
pháp về, có ai hỏi chỉ biết trả lời: "Hay lắm, mà không nhớ gì cả". Vậy,
cần phải ghi nhớ mỗi khi một ít, để tư duy rồi tu tập theo đó, tức là tu
tuệ. Có thực hành giáo lý bằng kinh nghiệm bản thân thì mới hiểu thấu lời
Phật dạy.
Như ngày xưa, có lần Phật đi giữa đồng ruộng. Có Tôn-giả A-nan theo hầu.
Bỗng Ngài đưa tay chỉ vào một bụi rậm bảo: "Độc xà, A-nan!" Tôn-giả A-nan
nhìn vào, cũng nói: "Đại độc xà, Thế tôn!" Tình cờ một nông phu đi sau
lưng nghe lén, bèn vào xem là cái gì, anh ta khám phá một hủ đầy vàng
ròng, vô cùng mừng rỡ, bảo thầm: "Nghe đồn Thế Tôn là bậc nhất thiết trí,
cái gì cũng biết, vậy mà vàng đây, "Ồng" lại bảo là rắn độc! Anh liền
khiêng vàng về, tạo mãi nhà cửa, ruộng đất, xe ngựa... Xóm giềng thấy anh
lâu nay nghèo kiết xác, ăn bữa hôm lo bữa mai, nay bỗng dưng phát phú, thì
không khỏi nghi ngờ, lên trình quan. Quan gọi lên tra hỏi và về nhà lục
xét, lấy hết vàng bạc châu báu và bắt anh bỏ tù. Ngồi trong ngục tối, anh
mới thấm thía lời Phật dạy. Anh tưởng là từ nay sẽ được ăn cao lương mỹ
vị, thì ngược lại bị giam đói. Anh tưởng từ nay được ở nhà cao cửa lớn,
hóa ra lại nằm trong ngực. Cảm khích anh ta kêu to: "Độc xà, A-nan! Đại
độc xà, Thế Tôn!" Quan giữ ngục nghe, hỏi lý do, anh ta kể đầu đuôi câu
chuyện rồi kết luận: "Giờ phút này ở trong tù, con mới tỉnh ngộ, tin hiểu
lời Phật dạy thật sâu xa vô cùng".
Không dễ gì ngày nay, Phật tử chúng ta đã tỉnh ngộ, tin theo lời dạy của
Thế Tôn. Giả sử một sớm mai đẹp trời, đi giữa đường gặp thỏi vàng như vậy,
chúng ta có mang về không? Chắc cũng mang về. Cho nên lắm lúc người ta bảo
Phật dạy không thực tế, viễn vông. Nhưng hàng Phật tử cần nhận thức cho rõ
có phải lời Phật là chí lý hay không? Chẳng qua, vì lòng tham của chúng ta
còn quá nặng, nên không làm ngơ được. Nhưng khi chưa nghe lời Phật dạy thì
chúng ta sử dụng vàng một cách khác. Khi đã nghe, sử dụng cách khác. Nghĩa
là, phải biết bắt rắn thế nào cho nó khỏi cắn. Ở đây, là đừng vị kỷ, vì
tất cả việc làm vị kỷ đều xấu, vị tha đều tốt. Nếu đem vàng về mà làm việc
lợi tha thì đó là biết cách bắt rắn, không bị rắn cắn. Không những vàng,
mà mọi chuyện khác đều như vậy. Nếu thiếu trí tuệ, thì chúng ta làm sao
hiểu rõ lời dạy thâm thúy và hạnh phúc mà lời dạy ấy sẽ mang lại cho ta?
Vàng mà bảo là rắn độc, thì cũng không khác gì nói "Đời là đau khổ". Nếu
không có trí tuệ, chúng ta cũng sẽ bảo, như anh nông phu kia, rằng: "Thật
là viễn vông! Nào xi-nê, nào hát bội, nào cải lương... bao nhiêu chuyện
vui như vậy mà lại nói là đau khổ! Có trí tuệ là có nhận thức, biết được
sự việc trước khi nó xảy đến chứ không phải chờ nó xảy ra rồi mới biết.
Trí tự giác là một ngọn lửa sáng từ trong tâm khiến cho chư Phật và
Bồ-tát, Tổ sư thấy ngay được chân lý không cần thầy dạy, đó cũng là vô sư
trí, vô sư tự ngộ hay tự giác thánh trí. Nhưng đó cũng là do công phu lâu
đời lâu kiếp mới có được.
Nếu là Phật tử mà lấy tà làm chánh, không biết phân biệt phải trái hay dở
thì không phải có trí tuệ, và dễ trở thành mê tín, dị đoan, tin theo tà sư
tà đạo. Do đó, điều thứ tư Phật dạy cho các Phật tử tại gia là phải trau
dồi trí tuệ để được hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.
Tóm lại, Phật dạy cho người tại gia bốn pháp an lạc cho hiện tại là: Tháo
vác, phòng hộ của cải đã kiếm được bằng nghề chân chính, làm bạn với thiện
và sống điều hòa thăng bằng. Và bốn pháp tạo hạnh phúc cho tương lai, đời
sau là: lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ. Có đủ tám điều như vậy, thì
giờ phút nào, ở đâu, chúng ta cũng xứng đáng là Phật tử, không những lợi
ích cho chính mình mà còn cho nhiều người khác. Nếu không có trí tuệ hiểu
rõ chánh pháp chúng ta sẽ đi lạc vào đường tà. Như một Phật giáo, mà không
biết bao nhiêu là hình thức, nếu Phật tử không nhận thức, thiếu trí tuệ
thì không thể biết được chân giả. Cho nên, có trí tuệ là điều cần thiết để
hộ trì chánh pháp.
Xưa, hiền triết Socrate đã hỏi và đã được một thanh niên trả lời rành rọt
các nơi dạy may áo, đóng giày, làm mũ nón, nhưng đến khi nhà hiền triết
hỏi anh có biết ở đâu dạy làm người không, thì anh ta ngơ ngác. Áo, giày,
mũ nón thật sang trọng nhưng nó không phải là người! Nếu không biết cách
làm người thì dù có mang đầy các thứ đó cũng không thể làm người được. Nếu
chúng ta học được đạo làm người thì giày ấy, mũ nón ấy, y phục ấy mới gọi
là của người.
Hôm nay quý vị đến thọ giới cũng là để học cái đạo làm người, căn bản của
tất cả thánh vị, đạo ấy gồm trong ba đức Bi, Trí, Dũng, nên đức Phật được
tôn xưng là đấng Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi.
Mong rằng quý vị sẽ đem hết tâm thành để lãnh thọ giáo pháp. Cuối cùng xin
nhắc lại câu của đạo hữu Tâm Minh, một vị cư sĩ có công lớn đối với sự
phục hưng Phật giáo Việt Nam để quý vị tinh tiến theo đó tu học:
"Vui theo tham dục vui là khổ
Khổ để tu hành khổ hóa vui"
Chùa Già Lam 10-1982 - PL 2526
HT. Thích Thiện Siêu
(Trích "Cương Yếu Giới Luật", Sài Gòn, 1996)
---o0o---
Source:
BuddhaSasana
Trình
bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
05-10-2001
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục