TINH VÂN HOÀ THƯỢNG
LỜI GIẢI
ĐÁP CHO CON NGƯỜI
TẤT CẢ ĐỀU LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
一切都是當然的
Hạnh Huệ soạn dịch từ
Tinh Vân Bách Ngữ
---o0o---
Mục Lục
"Nhân", phải trải qua sự
từng trải việc người mới có thể trưởng thành.
"Nhân", phải nghĩ đến sự
tồn tại của người khác mới có thể rộng mở.
"Vô duyên đại từ – đồng
thể đại bi", ắt là cảnh giới tối cao giữa "người" và "người".
Tháng 11 năm 1994, tại đạo trường Phật Quang
Sơn Đài Bắc cử hành hội nghị học thuật của hai bờ eo biển, tôi đáp lời mời
cùng các nhà học giả toạ đàm. Trong bàn có một vị giáo sư nói, trước mắt,
Trung Quốc Đại Lục có một nhóm học giả chuyên môn nghiên cứu "Nhân
học".Ông ta là một người trong đó.Thì ra, Người – mới là học vấn tối trọng
yếu của thế gian. Tôi bảo với các nhân sĩ, nếu chỉ nghiên cứu "người" trên
bề mặt thì chưa đủ, cần phải nên nghiên cứu "tâm", bởi vì người là sắc
và tâm hoà hợp mà thành, ắt đem vật chất và tinh thần điều hoà, mới
có thể triệt để đem "người" làm tốt, trọng yếu của nhân học, mới thật
chẳng hư rỗng.
Nhớ lúc còn bé, bà ngoại đưa tôi đi học tại
trường tư thục. Ngày đầu tiên thầy giáo chỉ dạy tôi một chữ "người" (人:
Nhân). Sau này đem "người" làm tốt trở thành mục tiêu của đời
tôi. Do đó, trước hết tôi theo sự hiếu thuận với bậc trưởng thượng
mà làm, vì muốn giúp người mẹ cô quả khổ cực, tôi đem số tiền dành dụm
hằng ngày, tiền mừng tuổi năm mới đưa mẹ mua điểm tâm về nhà, để cho tiếng
cười thích thú của bọn con cái làm nhạt nhoà sự thảm não trong lòng mẹ.
Tuổi quá sáu mươi, tôi và người mẹ đã xa cách
bốn mươi năm gặp gỡ nhau, tôi liền nghĩ cách rước mẹ về nuôi dưỡng hiếu
kính, thần hôn định tĩnh, và bắt chước tinh thần của Lão Lai Tử mặc áo hoa
làm vui cho mẹ, nương vui dưới gối. Thậm chí tôi yêu nhà, yêu luôn quạ đậu
trên nhà, hết sức vì cậu, anh chị em giải quyết vấn đề khiến cả nhà vui vẻ
an lạc, làm mẹ được an tâm.
Năm mười hai tuổi, tôi xuất gia.Sư phụ là
Thượng nhân Chí Khai đưa tôi đến Phật Học Viện để học.Tôi tiến một bước
học đến tâm là nguồn vạn pháp. Học làm "người" trước phải điều tâm, trong
tâm có "người", vì "người" mà để tâm đến, là điều kiện tiên quyết làm
"người". Vì để Sư phụ hoan hỉ, khỏi lo, tôi tinh tấn phấn phát, cố sức
vươn lên. Vì muốn cho sư huynh đảm nhiệm trụ trì tại chùa chuyên tâm quản
lí việc chùa, tôi thường xuống núi chạy hơn trăm dặm đường dài lo kinh sám
Phật sự, qua lại giữa thôn làng mà thổ phỉ thường ẩn hiện, và cũng tự
nguyện tối ba mươi Tết gõ cửa từng nhà để quyên góp lương thực.
Lúc nội chiến bùng nổ, tôi cùng bạn đồng học
một mặt hoằng pháp, một mặt lánh nạn. Sự thiếu thốn vật dụng khiến tôi
nghĩ đến nhu yếu của người khác, do đó khi tiết đông lạnh giá tôi đem
chiếc áo bông duy nhất tặng bạn đồng song là Hoành Độ, lại đem chiếc áo
tràng khó được cho người bạn tốt Chữ Vân. Tôi cảm nhận sâu xa giữa "người"
và "người", nếu có thể tương thân tương ái, vũ trụ rộng mở biết bao!
Đến Đài Loan, tín đồ ngày càng tăng, và lo
nhu yếu cho người khác, có thể nói là tôi ngày ngày vì người cực khổ, ngày
ngày vì người bận rộn. Bằng hữu vừa báo điện thoại sẽ đến thăm, tôi tựa
cửa ngóng trông, quét giường để đợi. Tín đồ có Phật sự tống táng, tôi vội
vàng đi xe siêu tốc để kịp thời dự lễ, niêm hương, thuyết pháp. Hứa làm lễ
hỉ sự kết hôn, dù ở mãi tận cuối làng xa xôi hẻo lánh, trời mưa tầm tã,
tôi cũng len lỏi trên đường nhỏ quanh co giữa sấm chớp vang rền, kiếm cách
đến nơi để chúc phúc chứng minh, thậm chí sau này còn quan tâm đến vấn đề
họ sanh con nuôi cái. Như nhà cư sĩ Thái Cố Nghi ba đời đều là tôi đặt tên
cho, năm người con của Quách Bổn Vân, ba cậu bé của Lí Nhất Bình, tôi thay
họ nuôi nấng nhiều năm. Về sau, dứt khoát mở rộng, đổi thành Dục Ấu Viện,
chuyên thâu nhận nuôi dưỡng luôn một loạt.Trong đám đông nhân quần, vì
người khác bôn ba cực nhọc, tôi chẳng chút nào cho rằng khổ, nhân vì tôi
từ thân "người" học tập được đức tính tốt đẹp khiêm hoà nhẫn nhục, từ bi
bao dung.
Một đệ tử trẻ tuổi từng nói với tôi:
— Người ta đến lúc già thường giống như trái
banh chuyền, con cái đẩy qua đẩy lại, chẳng chịu chiếu cố, nhưng Sư phụ
lại giống quả bóng chày, con cái trong thiên hạ đều hoan hỉ qua lại ôm
chầm Thầy.
Tôi nghĩ đây nhân vì tôi rất chú trọng sự tôn
trọng hài hoà giữa con người với nhau. Bình thường chúng ta đều biết lúc
trời lạnh cần chuẩn bị dù đi mưa, lúc xuân hạ cần tích cốc phòng
đông."Người" cũng không thể chỉ thấy lợi gần ngắn ngủi mà phải ở hằng ngày
bồi dưỡng duyên lành, vì vị lai vĩnh hằng mà lưu tâm.
Tôi suốt đời giữ nguyên tắc xử thế đãi
"người": "Anh lớn tôi nhỏ, anh tốt tôi xấu, anh có tôi không, anh vui tôi
khổ", có bị thua thiệt thế nào đi nữa cũng không dễ dàng phá hoại "tình
người". Kết quả tôi làm người khác hoan hỉ, người khác cũng dang rộng hai
tay, biểu thị hoan nghinh tôi.
Có lúc, tín đồ cho rằng tôi biết xem phong
thuỷ địa lí, đến hỏi tôi miếng đất này tốt hay xấu. Tôi hoàn toàn đề xướng
"nơi nơi đều là đất tốt", nhân đây đều nói "Tốt", chúc phúc họ được cát
tường như ý, đợi họ được bình an thuận lợi, mới đem cục đá trong tâm buông
xuống. Có tín đồ hỏi tôi ngày này tốt hay xấu. Tôi luôn chủ trương "ngày
ngày đều là ngày tốt, do đó đều nói "tốt", chúc phúc họ tháng tốt ngày
lành, chỉ vẫn đợi đến khi họ cảm tình hoà mục, tự mình cũng mới an tâm.
"Người" là điều trọng yếu.Tánh của "người", tại có sở đắc. Tuy nói đưa ra
chút quan tâm, nhưng có thể bảo trì tình nghĩa nặng sâu, tự biết như thế
là thu hoạch nhiều tốt đẹp.
Đối với hơn ngàn đệ tử xuất gia, từ trên thực
chất cho đến sự khải phát về tinh thần, từ sự kiến thiết cứng cỏi đến nghị
định chế độ, từ giáo dục sinh hoạt đến khai thác tư tưởng, từ khai đạo cá
biệt đến phổ tham đại chúng…, tôi đều đem hết khả năng, đắng miệng mềm
lòng… Nhưng mưa thì nhuần khắp mặt đất mà cây thì có lớn nhỏ khác nhau,
trình độ thấm nhuần bất đồng. Pháp thì đồng dạng, một vị bình đẳng, nhân
nơi trí hay ngu của "người" có phân biệt hơn kém, sự tiếp thọ nhiều ít
cũng có sai biệt. Giống như có một ít đệ tử không hề muốn tôi quan hoài,
một lòng chỉ nghĩ việc phụng hiến thường trụ, phục vụ nhân quần, bọn họ
tạm dùng thời giờ, sẽ thành long tượng trong cửa Phật, lương đống trong
giáo giới. Nhưng có một ít đệ tử đã không muốn người khác quan tâm, mà tự
mình chẳng giúp đỡ "người khác" chút nào, chỉ nghĩ cho mình, bình tĩnh an
nhàn qua một đời. Có một số đệ tử chỉ hi vọng "người khác" đối xử tốt với
mình, chính mình lại không chịu đáp trả.Lại có số chỉ biết chê gièm "người
khác", dù đối với họ tốt, họ cũng chẳng biết đủ, vừa lòng.Bọn họ cứ việc
lo tài năng cho ưu việt, nhưng do cá tánh sai sử, không cách gì làm cho
nhân hoà, nghĩ đến tiền đồ của họ cũng chịu nhiều hạn chế.
Hơn mười năm trước, vì mở mang chùa Tây Lai
làm cơ sở hoằng pháp tại Âu Mĩ, một nhóm đồ chúng trẻ tuổi mạnh mẽ, có đủ
tiềm lực lục tục đến Mĩ quốc làm công tác khai sơn, đâu dè có một ít đệ tử
lại nói sau lưng:
— Sư phụ đem đồ đệ ưa thích nhất đưa đi Mĩ.
Về sau chùa Tây Lai khánh thành, thường trụ
lại phái một nhóm đệ tử lão thành cẩn thận, tu dưỡng thâm hậu đến trước để
độ chúng, chẳng dè mấy người này lại nói:
— Hiện tại Sư phụ đem đệ tử không ưa nhất
phái đi Mĩ.
Vừa nghe như thế, thật chẳng biết làm sao.
Lòng bàn tay hay lưng bàn tay cũng đều là thịt, rốt cuộc ai là người tôi
thích nhất? Ai là người tôi ghét nhất?Theo thời gian đưa đẩy, đến nay,
tiếng bất bình đã mất tăm mất tích. Té ra thích hay không thích đều là vấn
đề "người" mà thôi. Tâm có cao thấp, "người" bèn có tầng lớp bất đồng.Chỉ
cần việc làm công chính, công bình, qua một thời gian, tự nhiên khiến
người nể phục, hà tất suy bì cái thấy ngắn ngủi một thời của người sao?
Nhớ mấy năm trước, vào một sáng quang đãng,
tôi đưa mẹ đi tản bộ. Lúc đến dốc phía dưới bên trái chùa Tây Lai, tôi rút
chìa khoá mở cửa sắt, giải thích cho mẹ:
— Cái cửa hông này là đường ngắn thông tới
chùa Tây Lai.
Mẹ tôi nói:
— Cửa chính? Cửa hông? "Người bậc thượng" thì
rước cửa trên, "Người bậc trung" thì "người" đãi "người", "Người bậc hạ"
thì cầu chẳng thành. Đâu có con đường ngắn nào?
Đích xác, đầy đủ từ bi trí huệ, chịu chủ động
phục vụ cho "người", tự nhiên được mọi người công kênh làm "người ở trên
người". Tâm ôm phân biệt, chỉ tính lợi trước mắt, đã không từ bi lại không
trí huệ, đương nhiên chỉ quanh quẩn làm "người ở dưới người".
Lại có một lần, tôi tuyên giảng kinh Kim
Cang, lúc xuống toà, tôi hỏi mẹ hay hay không? Mẹ tôi đáp: "Ông nói không
ngã tướng, tôi có thể lí giải được, nhưng làm người nếu như không
nhân tướng, tôi không rõ lắm. Trong tâm một con người mà không có
người khác, thì làm sao an thân lập mạng trên xã hội?"
Mẹ tôi không biết chữ mà nói ra lời khiếp
người, khiến đệ tử của tôi đều thán phục quá chừng. Tôi nghĩ đây là vì bà
bình thường thích gỡ rối, dẹp khó cho bà con lối xóm, do đó, có thể thông
đạt nhân tình thế cố như thế! Mà tôi từ bé ở chỗ thấy nghe lựa chọn, cũng
tập lo lắng cho người là việc thường. Thẳng đến ngày nay, vì để giữ thanh
tịnh cho người, đêm khuya, tiết mục truyền hình đáng xem lại tôi cũng
không xem.Vì muốn tín đồ không thất vọng, tôi nhất định giữ đúng lời hứa,
dù bịnh đau nặng nề, cũng chưa hề huỷ bỏ ước hẹn. Lúc bình thường, tôi ra
vào đóng cửa, mở cửa nhất định nhẹ tay nhẹ chân, không cho ra tiếng, để
khỏi kinh động người khác. Lúc dùng nước, tôi chẳng dám mở mạnh cho nước
chảy ào ào, sợ ồn náo người khác.Nói chuyện cốt người nghe vui vẻ; làm
việc cốt cho người ta biết rồi đồng ý.
Vì muốn người già có chỗ dưỡng, bé thơ có chỗ
yên, tôi xếp đặt sự nghiệp từ thiện, dưỡng lão, dục ấu… Vì muốn trợ giúp
người Trung Hoa ở hải ngoại được an trú mỗi miền, tôi thành lập Trung Hoa
Học Hiệu, Tùng Hạc Học Uyển. Để có phương tiện cho tín đồ thế giới thăm
viếng, tôi giao phó mỗi phân viện tăng gia thêm xe đón, xe đưa phục vụ.
Thậm chí để nâng cao tầng lớp tín đồ, ở mỗi nơi trên toàn cầu, tôi đều
thành lập Phật Quang Hội, để mọi người có thêm nhiều cơ hội học tập. Phật
dạy: "Tất cả đều vì chúng sanh, do đó, chúng ta chẳng phải là vì "người",
lại có Phật sự nào để làm ư?"
Năm 1992, tôi đến chủ trì Đại hội do Đan Phật
Phật Quang Hiệp Hội thành lập. Tiên sinh Tạ Điển Phong nhậm chức Hội
trưởng lúc từ giã ra về nói:
— Quá khứ tôi là một Công trình sư mỗi ngày
làm bạn với cốt sắt, xi măng, cơ khí, mô-tơ. Chẳng những sinh hoạt khô
khan vô vị, mà ngày qua ngày lại vì "công việc" mà bận rộn, trên tư tưởng
cũng không được thông cảm, khiến tôi thường cảm thấy cô đơn trống vắng. Từ
khi tổ chức Đan Phật Phật Quang Hiệp Hội rồi, tôi ngày ngày vì "người" mà
bận rộn. Tuy trong quá trình có hỉ, nộ, ai, lạc, có thuận nghịch, chê
khen, nhưng trong sinh hoạt có thanh âm, có tiếng vang, trên sự tu hành có
phản tỉnh, có tiến bộ, khiến tôi biến đổi có từ bi, có trí huệ, làm việc
càng an ổn mạnh mẽ, thành thục thêm. Hiện tại tôi cảm thấy đời người sung
mãn vô hạn.
Một lời nói này, có thể nói hết cái "Trọng
yếu của nhân học".
Hơn hai mươi năm trước, lúc tôi đảm nhận chức
Viện trưởng Phật Quang Sơn Phật Giáo Học Viện, mắt thấy thiểu số học sinh
vừa mới đến, nhất thời tục tình chưa hết, muốn xuống núi xem đoàn trượt
băng Bạch Tuyết, lại ngại nội quy của viện không cho phép, trong tâm thấp
tha thấp thỏm. Tôi vì muốn thành toàn cho họ, bèn lấy cớ của mình, phái họ
đến chợ mua văn phòng phẩm, thả họ nửa ngày rảnh rỗi. Học sinh này đi rồi,
sau bèn có thể an trụ trên học nghiệp, tinh tấn phấn chí, không còn nghĩ
đến việc xuống núi nữa.
Những chú bé của Sa-di Học Viện tuổi nhỏ
thích chơi, lão sư kiểm soát thường thường y theo phương pháp của tùng lâm
ở Đại Lục, phạt họ quỳ hương lạy Phật, tôi vội vàng ngăn lại, bảo lão sư
phạt Sa-di quấy rối phải ngủ, chẳng cho họ theo chúng tham gia khoá tụng
sớm chiều. Biện pháp này được thực thi nửa năm, bọn Sa-di quấy rối thấy
bạn đồng học khác có thể lên điện theo khoá tụng, còn mình lại không thể
tham gia, rõ ra đi ngủ là một loại xử phạt, lễ Phật là một việc vinh
quang, dần dần sanh tâm hổ thẹn, mỗi người đều tự động tự phát biến đổi,
nhận chân việc siêng năng, tấn tới. Về sau, các lão sư đều bội phục phương
pháp giáo dục của tôi, kì thực tôi chẳng có học qua trường sư phạm nào,
cũng chẳng hề tu học qua về giáo dục, chỉ là biết được một điểm nhân
tính mà thôi.
Tôi biết được chẳng kể là dạy người hay xử
người, đều phải trước hết duy trì sự tôn nghiêm của đối phương, chỗ nói
"người biết tánh mới ở chung", "người" sống trong sự tôn trọng. Đối với
người tham dục sâu, chúng ta để họ nhiều vật chất một chút.Đối với người
lòng giận dữ nặng, chúng ta cần cho họ lời khen tặng nhiều một chút. Đối
với người ngu si, chúng ta cần tha thứ về sự chẳng rành sự lí của họ. Đối
với người kiêu mạn, chúng ta cần khiêm hư thêm để tiếp đãi. Đối với người
nhiều nghi ngờ, chúng ta cần giảng rõ ràng, nói minh bạch, để họ tăng gia
tín tâm.
Trong nhóm đệ tử của tôi, không những bao
quát đủ mọi nghề sĩ, nông, công, thương, mà còn trùm hết các nhân chủng
đen, trắng, vàng, nâu đủ màu. Một hôm nọ, có một số đệ tử da đen đến
Congo
nói với tôi:
— Chúng con rất lo lắng vì tâm người da đen
so ra không nhu nhuyến, không dễ dàng tiếp thọ Phật pháp, chúng con phải
làm sao để cải biến tâm này?
Tôi đáp họ:
— Cải biến màu da thì khó, cải biến nội tâm
thì dễ hơn, hơn nữa cải biến nhan sắc cũng chẳng tất yếu, chỉ cần đổi tâm
là tốt rồi. Kì thật, chẳng những người da đen cần đổi tâm, mà ai ai cũng
đều phải cần đổi tâm.Tâm của người da đen thực sự rất hiền lương, có lúc
người da trắng, người da vàng cũng không bằng. Hi vọng các con hôm nay
xuất gia, cần phát nguyện hoằng dương lòng từ bi trong Phật pháp, giải
quyết vấn đề bất bình đẳng ở Phi Châu, đem nhân dân từ trong khổ nạn bởi
chiến tranh giải thoát ra, qua sinh hoạt hạnh phúc hoà bình của Phật pháp.
Bọn họ nghe rồi, vui mừng chắp tay. Như nay ở
Nam Phi lại có nhiều vị da đen do nhân tính Phật pháp của các pháp
sư Huệ Lễ, Huệ Cơ chiêu cảm mà phát tâm xuất gia, tôi tin rằng ánh sáng
trong nhân tính một mặt nhất định có thể chiếu phá đám mây mù đen
tối.
Mạnh Tử nói: "Nhân
chi sơ tính bản thiện". Phật giáo
thì cho rằng: "Người người đều có Phật tánh, chỉ do vọng tưởng chấp trước,
do đó luân hồi lưu chuyển trong năm đường". Lại nói: "Một tâm chia hai
môn, tâm chân như môn và tâm sanh diệt môn". Nếu như chúng ta để tâm tĩnh
lặng lại, phản quán tự chiếu trở về nguồn cội, sẽ phát hiện: Sự thiện ác
của "người" là tự trong bản tánh phát sanh. Mừng giận của "người" là từ
tâm phân biệt mà đến.Buồn vui của "người" là từ trong cảm quan tiếp
nhận.Chân giả của "người" là từ trong cảnh giới mà dẫn phát.
Mười năm trước, một vị trẻ tuổi vừa tốt
nghiệp Đại học đến núi học Phật. Lúc đó khí thế của Đại Chuyên Thanh Niên
Học Phật lại không thịnh lắm. Do đó, mọi người đối với anh ta hết sức
trọng vọng, nhưng vì anh ta chủ quan quá mạnh, duyên với người ngày càng
nhạt nhẽo. Có một hôm, anh ta tìm tôi, đầy miệng toàn là: "Tôi nhận là…
Tôi biết được… Ý của tôi là… Cách nhìn của tôi cho rằng…" Tôi bảo anh ta:
— Thế giới không phải có một mình anh, chỉ có
buông hết thành kiến, dẹp bỏ ngã chấp, nghĩ đến người khác, mới có thể có
toàn bộ thế giới.
Nghĩ lại mình lúc còn trẻ, cũng từng cao ngạo
tự phụ, nhưng theo tuổi tác tăng trưởng, biết "ngoài người có người",
"ngoài trời có trời". Triết Tây nói: "Vũ trụ chỉ cao năm thước, thân con
người sáu thước, phải cúi đầu mới có thể sinh tồn". Do đó, từ từ học được
khiêm hư, nhường nhịn, đồng thể cộng sanh, không lúc nào không nghĩ cha mẹ
của ta là người, anh em của ta là người, thầy của ta là người, bạn bè ta
là người, cùng ta qua lại đều là người. Nghĩ đến lại có nhiều người cần
ta, ta cũng cần nhiều người. Tôi thầm thầm cảm được: "Người", ắt phải trải
qua sự từng trải "nhân sự" mới có thể trưởng thành. "Người", ắt phải nghĩ
đến sự tồn tại của "người khác" mới có thể rộng mở. "Vô duyên đại từ, đồng
thể đại bi", đây là cảnh giới tối cao giữa người và người.
Phật Quang Sơn từ lúc khai sơn đến nay, mọi
việc lớn nhỏ đều phải mở hội quyết nghị. Đệ tử thường nói:
— Sư phụ, Thầy đến quyết định nhé! Thầy nói
làm gì, chúng con sẽ làm thế.
Tôi lại kiên trì mở hội để bàn luận, nhân vì
Phật Quang Sơn là của chung mọi người. Ba mươi năm nay, Phật Quang Sơn ở
trong ổn định mạnh mẽ trưởng thành, "nhân hoà" là nhân tố trọng yếu nhất.
Tiên sinh Trần Trúc là bậc nhân sĩ có công
năng đặc dị nổi tiếng ở Đại Lục, một hôm nói chuyện với tôi về vấn đề "con
người", ông nói: Người sách hoạch bộ phim Hà Thương, lúc mới đầu vì việc
mở đầu phim mà nhức đầu nhức óc, có một hôm vô tình xem thấy bản đồ treo
trên tường, chỗ hai sông Trường Giang và Hoàng Hà chia nhánh, giống hệt
chữ ? (người), khiến ông ta "phước đến tâm linh", lấy đây
làm đầu phim, nhiều người xem xong rất khen ngợi sự thiết kế trí huệ của
ông ta. Tục ngữ nói: "Đất có nước mới có người ở". Trường Giang và Hoàng
Hà đã gầy dựng "nhân văn" của Trung Hoa thật vĩ đại. Kì thực, không những
người trong nước như thế, nhiều năm nay, tôi đi thăm các nơi trên thế
giới, phát giác ra hễ quốc gia nào giảng giải nghiên cứu "nhân ngã tôn
trọng" nhất định gặp được đường khang trang hạnh phúc, ngược lại thì hoạ
loạn không dứt.
Người Trung Quốc khổ nạn liên miên, nhưng chữ
Trung Quốc lại phong phú triết lí, ví dụ như 人 (người), 也 (ấy) hợp thành 他
(người khác) nghĩa là người khác cũng là "người". 人 (người) và 尒 (anh) là
你 (bạn), ý nói bạn cũng là người. 人 (người) và 二 (hai) là 仁 (nhân từ) ý
nói nghĩ nhớ đến hai người đây và kia, mới là biểu hiện nhân từ. 人 (người)
và 一 (một) là 大 (to lớn) ý là thêm một người nữa mới có thể cộng sự với
người, đoàn kết hợp tác, mới có thể thành tựu sự nghiệp vĩ đại. 人 (người)
và 二 (hai) là天 (trời), ý nói thêm hai người, có thể đủ hoà bình đối xử
với nhau, mới là thiên hạ làm việc công chạy theo đường chân lí. Ngoài ra
như 人 (người) với 言 (lời nói) thành 信 (tin cậy), 人 (người) với 立 (đứng)
thành 位 (ngôi vị), 人 (người) với 建 (kiến lập) thành 健 (mạnh), 人(người) với
桀 (tài giỏi) thành 傑 (hơn người), phàm những chữ này đều nói với chúng ta:
Một cá nhân nghĩ muốn đặt chân trên xã hội ắt phải tự mình kiện toàn, giữ
vững cương vị, chuyên cần làm hết trách vụ của mình, tạo phước cho nhân
quần.
Có người nói: "Người, rốt cuộc vì ai cay
đắng, vì ai bận rộn?" Tôi nói: "Người, là vì người cay đắng, vì
người bận rộn". Nhân vì "người" vì "người", người người là một thể, vì
người khác đáp trả, kì thực thu hoạch lớn nhất lại là chính mình. Cũng có
người nói: "Làm người khó, người khó làm, khó làm người". Tôi cho rằng:
"Làm người khó, người khó làm", đều là do chính mình không biết "làm
người" mà nhân chính là "khó làm người". Do đó chúng ta cần phải học tập
"làm người".
Lúc còn nhỏ, biết được có người tốt, người
xấu, người trí, người ngu… Xuất gia học Phật rồi, trong tâm chỉ có "người
cần giúp đỡ".Tuổi trẻ biết được người có người nghèo, người giàu, vĩ nhân,
phàm nhân…, hôm nay qua mấy mươi năm, trong tâm chỉ có "người cần báo
đáp". Cổ đức nói: "Sau bảy mươi tuổi, chỗ muốn trong tâm không vượt quy
củ". Tôi lại biết được: Tuổi đến bảy mươi vẫn cảm thấy chẳng đủ, tôi vẫn
tiếp tục không ngừng học tập làm sao để "làm người".
Đại sư Thái Hư nói: "Người thành tức Phật
thành, đó gọi là Chân hiện thực". Kinh Phật thì nói: "Chư Phật mười phương
đều chứng ngộ Phật quả tại trong nhân đạo".
Tất cả đạo lí trên thế gian đều lấy "nhân
học" làm gốc, "người" làm không tốt, cái gì cũng đều chẳng thông.
Cảnh giới tối cao của học tập làm người là
thành Phật. Một chữ Phật 佛 (đức Phật), là 人 (người) và 弗 (phủi) nghĩa là
"người" trước tiên phải quét sạch chấp trước riêng tư, "dẹp" vô minh phiền
não mình có, trừ bỏ vật không nên có của người, đó là Phật vậy.
Bí quyết của quản lí – Ở chỗ nên đem trái tim
của chính mình quản lí trước đã.
Điều rất trọng yếu là để trong tâm của mình
có sự tồn tại của kẻ khác, có lợi ích của đại chúng, có một trái tim từ bi
nhu hoà.
Diệu Mục sau khi tốt nghiệp Phật Học Viện ra,
bị thường trụ phái tới chùa Tây Lai ở Lạc-sam-cơ (Mĩ) làm tri khách. Một
hôm, tôi khoản đãi khách ở Tây Lai Tự, có một chút ý kiến đối với quá
trình…, tôi hỏi cô:
— Cô được giáo dục ở đâu?
Cô nói:
— Trước khi con học ở Tùng Lâm Học Viện Phật
Quang Sơn, con học ngành Quản lí ở Hương Cảng.
Tôi nghe xong, bảo cô ta:
— Quản lí học mà con đã học ở quá khứ đều là
học để quản việc, quản người. Điều đó không đủ, nay con cuối cùng nên cần
học tập đem mình ra quản lí, mới là quản lí học tối cao.
Hôm nay chính là lúc mà môn Quản lí học phổ
cập khắp nơi, luận về chủng loại thật không kể xiết. Có Xí nghiệp quản lí,
Nhân tánh quản lí, Dân chủ quản lí, Phân tầng quản lí cho đến Quản lí tiệm
ăn, Quản lí bệnh viện, Quản lí hành chánh, Quản lí thương khố… Nhưng đối
với việc quản lí chính mình thế nào, quản lí nội tâm ra sao, thì rất ít
khoá trình thiết lập như thế!
Năm 1996, tôi lập ra Học Viện Quản Lí Nam
Hoa, cùng các Đại học ở Đài Loan cùng lúc tham gia chiêu sinh liên hợp.
Sau khi nghiên cứu, tôi thầm thầm cảm nhận Phật giáo kì thực là một môn
Quản lí học rộng lớn tinh thâm.
Như một cuốn kinh A-Di-Đà, chính là "Quản lí
học" của Phật A-di-đà, ở trong thế giới Tây phương Cực lạc của Ngài, không
những hưởng hoàn cảnh tự nhiên ưu mĩ, đền đài lầu các tráng lệ, vui chơi
nhàn nhã thanh tịnh, sinh hoạt quần sanh dung hoà, mà chẳng có bị chính
trị bức hại, chẳng có sự quấy nhiễu của người ác, không có cảnh kinh tế
khốn cùng, không có sự chiếm hữu nam nữ, không có sự cố giao thông, không
có ô nhiễm sinh thái, không có chuyện cơm áo phiền người, không có già
bệnh làm chướng ngại, không có giới hạn chủng tộc, không có đối địch oan
gia. Phật A-di-đà đem cư dân của thế giới Cực lạc quản lí thành "Chư
thượng thiện nhân câu hội nhất xứ". Có thể nói Phật A-di-đà là một chuyên
gia Quản lí tối cao, vì Ngài có thể cung cấp an toàn cho người, an tâm cho
người và an thích cho người.
Một cuốn Phổ Môn Phẩm là Quản lí học rất hay
của Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm vì muốn đem chúng sanh trong
thế giới của Ngài quản lí cho tốt, do đó trước hết cứu khổ cứu nạn, để
chúng sanh được không lo không sợ. Ví dụ như anh có cái ham muốn, Ngài bố
thí hỉ xả giúp đỡ anh. Anh có sân giận, Ngài đem từ bi đến giáo hoá anh.
Anh ngu si, Ngài dùng trí huệ đến dẫn dắt anh. Anh nghi ngờ tật đố, Ngài
ban lòng tin đến nhiếp thọ anh. Người cầu sanh con trai, Ngài giúp cho
sanh con trai phước đức trí huệ. Người cầu sanh con gái, Ngài có thể giúp
được con gái đoan chánh đẹp đẽ. Nếu như anh là quân nhân, Ngài nói về pháp
quân nhân cho anh. Nếu anh là nhân sĩ công thương, Ngài giảng quản lí công
thương với anh. Ngay dù anh là đồng nam hay đồng nữ, Ngài cũng biết đem
giáo dục đồng nam đồng nữ bố thí cho anh… Vì Bồ Tát Quán Thế Âm khéo tùy
loài ứng hoá, xem căn cơ mà thuyết pháp, do đó Ngài đi thẳng vào trong tâm
từng người, mà người tin Ngài cũng đem chỗ đẹp nhất trong gia đình mình để
dâng lên Ngài, với lòng vui vẻ chân thành kính phục mà tiếp nhận tín
ngưỡng và lãnh đạo của Ngài.
Do đây mà xét, chúng ta có thể biết được, các
loại Quản lí học của Phật A-di-đà và Bồ Tát Quán Thế Âm, đúng là hợp với
Quản lí chính mình, Quản lí tự tánh, Quản lí tự giác, Quản lí tự tri.
Do Phật A-di-đà và Bồ Tát Quán Thế Âm cấp cho
chúng ta cách thức quản lí cho nên Phật giáo được phát triển cách quản lí
của các loại tông phái, cách quản lí của tòng lâm tự viện, cách quản lí
của giới luật Tăng đoàn, cách quản lí của Tổ sư đại đức… có thể nói là nội
dung rất nhiều, thật là tốt đẹp, thậm chí việc "quản lí chính mình"… Vì
thế, Phật giáo đối với xã hội ngày nay đều có cống hiến rất lớn.
Ba mươi năm trước, lúc tôi thăm viếng Nhật
Bản thấy đoàn thể xí nghiệp công thương của Nhật Bản, từng đội từng đội,
từng đoàn từng đoàn, đều đến các đại Tự viện tập họp thụ huấn, nghe gọi là
"huấn luyện trước khi nhận chức", là vì công ty hàng hiệu muốn giáo dục
công nhân có tư tưởng và tập quán sinh hoạt tốt đẹp. Do đó trước khi chính
thức công tác, họ được đưa đến tự viện để tiếp nhận huấn luyện "Quản lí
của Phật giáo". Đương thời trong tự viện của Nhật Bản, Pháp sư xuất gia
phụ trách hành chánh đều dùng phương thức "Quản lí làm người", "Quản lí
công tác" dốc túi truyền trao. Lúc ấy tôi nhận ra phương diện quản lí tại
xã hội, Phật giáo nên đưa ra một ít cống hiến.
Trên thế gian, quản lí vật phẩm tương đối dễ
dàng, vì vật phẩm chẳng biết nêu ý kiến, cũng không biết chống đối kháng
cự anh. Anh xếp đặt thế nào, nó phát huy công dụng thế ấy. Nói đến quản lí
sự tình, sự tình lại cũng quản lí được rất tốt, vì sự tình có nguyên tắc
nhất định. Nếu như có thể đem sự nặng nhẹ, hoãn gấp của sự tình nắm bắt
thoả đáng, sự tốt xấu, được mất của sự tình cân nhắc rõ ràng thì quản lí
cũng chẳng khó.
Quản lí khó nhất là người, vì tính người là
cái riêng tư. Người có rất nhiều phiền não, rất nhiều ý kiến, điều trọng
yếu nhất là đối diện với tư tưởng bất đồng, thói quen bất đồng, cách nhìn
bất đồng, học lực bất đồng, tư cách bất đồng, nơi chốn bất đồng, tuổi tác
bất đồng… Làm sao ở trong sai biệt nhiều như thế mà thống nhiếp họ lại
được, trên sự thực rất khó khăn.
Người, rất khó quản lí; kì thật, cái khó quản
lí hơn chính là cặp mắt của chính mình. Anh muốn quản lí nó không phải lễ
thì chớ nhìn, có lúc nó vẫn chẳng nghe lời. Hai lỗ tai, anh muốn quản lí
nó phi lễ thì chớ nghe, nó vẫn ưa nghe trộm điều riêng tư của người khác.
Một cái miệng, anh muốn quản lí nó không được nói bậy, nó khăng khăng
hoạ tùng khẩu xuất, gây bao phiền phức. Một cái tay, anh muốn quản lí
nó, chẳng phải vật của mình thì không được lấy, nhưng người ham thích một
ít tiện nghi đều chẳng kể đến hậu quả… Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều chẳng
thể nghe theo mệnh lệnh của chính mình, lại làm sao quản lí người khác,
quản lí sự tình nào khác ư?
Kì thực, quản lí mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là
cái có hình có tướng, tính ra lại quản lí tốt, nếu như quản lí nội tâm của
chính mình, đây là khó lại càng khó hơn. Trong tâm có vô minh riêng của
mình, phiền não tà kiến, như kiêu mạn, tật đố, phẫn hận, chấp trước… như
sóng mòi đánh vỗ không dừng. Nếu như chính mình thiếu sót đại nguyện, đại
lực, đại trí, đại bi thì làm sao có thể quản lí được nội tâm của chính
mình?
Phiền não chiếm ngự trong tâm tuy khó quản
lí, ngay một niệm tình chấp trong tâm cũng chẳng dễ quản lí, có người bỏ
thân để thành tựu nhân, liều chết để thủ nghĩa. Có thể nói là đem tâm ý
tình chấp của chính mình phát huy đến cực điểm. Có người yêu nước yêu dân,
yêu nhà, yêu người, dù cho thế nào cũng chấp chặt chẳng bỏ, cũng lại có
thể được xã hội tiếp nhận. Nhưng, lại có một số người, tâm họ giống như
khỉ cứng đầu, ngựa trở chứng xâm phạm lúa mạ của người. Rốt cuộc, chính
mình bị hại rất sâu.
Một cá nhân định đem chính mình quản lí cho
tốt, thì phải quản lí sự tình hiện tại thật nhiều. Ví dụ như tư tưởng của
mình muốn quản lí tốt, tâm niệm của mình muốn quản lí tốt, oai nghi của
mình muốn quản lí tốt, lời nói của mình muốn quản lí tốt; bất cứ chỗ nào
quản lí chẳng tốt, đều đem đến cho chúng ta ít nhiều tai ương, vô nghĩa.
Bình thường có người khen ngợi tôi, bảo tôi
đồ chúng môn hạ đông, tự viện nhiều chẳng biết làm sao quản lí? Kì thực
tôi biết chính mình chẳng có phép tắc "quản lí"ù gì. Giống như tôi quản lí
tự viện, cửa nẻo chẳng đóng, như Đại Hùng Bảo Điện, Đại Bi Điện, Hội Nghị
Thất, Khách Đường, Giáo Thất… đều mở toang cả ngày để đại chúng tùy lúc
đều có thể đến chiêm ngưỡng, sử dụng. Tôi quản lí vật chất, chẳng thích
xây nhà kho, tôi biết vật phẩm là làm ra để cấp cho mọi người dùng, tốt
nhất có thể dùng cho hết, đồ vật một khi chất vào kho, không có người xem
đến, thường thường bỏ quên nhiều năm, đợi đến lúc muốn dùng đã lên meo lên
mốc, không đáng tiếc sao!
Tôi quản lí tiền, cũng chẳng thích cất chỗ bí
mật. Ba mươi năm trước khi ở chùa Thọ Sơn, tôi đem tiền để nơi cố định, để
học sinh đồ chúng ai cần bao nhiêu thì lấy, tôi nhận ra đây mới là đạo
công bình. Tôi quản lí "người" đề xướng pháp trị, nhân trị cho đến lấy vô
vi mà trị. Tôi biết được quản lí tốt nhất, kì thực là quản lí nội
tâm của chính mình. Tâm trị thì thân trị, thân trị thì tất cả đều
trị.
Có một đoạn nói líu lưỡi của dân gian: "Có
một miếu Thành Hoàng, bên Đông có một Quản phán quan ngồi, bên Tây có Phan
phán quan ngồi. Phan phán quan bên Tây muốn quản Quản phán quan bên Đông,
Quản phán quan bên Đông muốn quản Phan phán quan bên Tây, rốt cuộc là cần
Quản phán quan bên Đông đến quản Phan phán quan bên Tây, lại là Phan phán
quan bên Tây đến quản Quản phán quan bên Đông". Đó là phán quan mà kia đây
cũng chẳng phục nhau, anh muốn quản tôi, tôi muốn quản anh, hỗ tương chẳng
trọng nể nhau, khăng khăng chẳng bỏ, bèn rất khó làm cụ Thành Hoàng.
Có thể thấy, hễ có cách định quản lí đối
phương, bèn có sự phân biệt đối lập, ngược lại càng khó quản lí.
Trong thiền môn có một chuyện rất thú vị, có
thể cùng câu chuyện líu lo trên kia đối nhau. Có một tín đồ đến tự viện
tìm Trụ trì giảng pháp. Trụ trì gọi một vị sư già bên cạnh nói:
— Ông mau pha trà!
Không bao lâu, Trụ trì lại gọi ông ta:
— Ông mau đi dọn một mâm trái cây!
Cùng tín đồ giảng xong, Trụ trì lại kêu vị sư
già, nói:
— Ông tiếp khách chơi nhen! Tôi có việc phải
đi trước!
Trụ trì đi rồi, tín đồ rất lạ lùng hỏi thiền
sư già:
— Vị trụ trì này là gì của Thầy?
Thiền sư già đáp:
— Là đồ đệ của tôi!
Tín đồ rất bất mãn, nói:
— Đã là đồ đệ của Thầy, tại sao có thể sai
Thầy rót nước?
Lão thiền sư đáp:
— Ông ta chỉ kêu tôi rót nước, đâu có kêu tôi
đun trà, đun trà mới khó chứ.
— Ông ta lại kêu Thầy dọn trái cây!
— Ông ta rất từ bi đó! Chỉ có kêu tôi dọn
trái cây, chẳng có kêu tôi trồng trái cây, trồng trái cây khó hơn.
— Ông ta tự mình đi trước, lại gọi Thầy đến
tiếp tôi!
— Ông ta tuổi trẻ, hữu dụng hơn. Tôi già rồi
do đó làm một chút việc lặt vặt.
Kì thực, trong tự viện này Lão thiền sư mới
đúng là người hiểu được "Quản lí tam-muội". Do Sư có thể nhìn toàn đại
cuộc, buông bỏ thân mình, thấu suốt nhân duyên quan hệ giữa con người,
nhân đây để toàn thể tự viện được hoà hợp không tranh giành.
Có xét "Nhân hoà vi quý" nên tôi một mực chủ
trương "Tập thể sáng tác", tôi biết được phương thức quản lí tối thượng
thừa, phải là nhường cho mọi người tự động tự phát, khẳng định vai trò
diễn xuất của đây kia, hỗ tương hợp tác, cùng chung phấn phát đột phá. Tôi
cũng ra sức đề xướng tinh thần "Đồng thể cộng sinh", tôi biết được nguyên
lí quản lí cao minh nhất là phải nên để cả đoàn thể có thể sản sinh ý thức
chung đầy đủ, trên dưới một lòng. Tuy nhiên, một tay tôi sáng lập Phật
Quang Sơn, nhưng tôi đều triệu tập hội nghị để thay thế mình đưa ra mệnh
lệnh. Dù tôi là Sư ông, Sư phụ của bao nhiêu người, nhưng tôi thà nguyện
để mọi người bàn bạc nghiên cứu, cũng chẳng chịu phủ quyết cắt đứt ý kiến
của người khác. Đương nhiên, trong đó cũng từng gặp rất nhiều quấy nhiễu
không cần thiết. Ví dụ như một số thì muốn mau chóng thực hành nghị án,
nhưng vì sự bảo thủ của người chủ sự mà trễ mất thời cơ, đến nỗi về sau
phải nỗ lực và tiền bạc gấp bội. Nhưng vì tôn trọng cách nhìn của người
khác cũng có sự tất yếu của nó. Cho nên tôi bằng lòng gánh mọi hậu quả.
Ba mươi năm nay, vì để điều đình ý kiến của
các đơn vị, vì để điều hoà cách nhìn bất đồng của các vị chủ quản, đều có
mở hội nghị bất hoàn (chẳng hoàn hảo). Nhưng nghĩ đến có thể cấp cho người
ít nhiều lợi ích, cho người bao nhiêu phương tiện, cho người ít nhiều học
tập thì tất cả cay đắng biến thành không có.
Quá khứ từng nghe qua chuyện của một bà nội
trợ, khiến tôi cảm niệm rất nhiều.
Có một bà mẹ đã qua bảy mươi tuổi. Người nhà
bí mật bàn với nhau chúc thọ bà thế nào. Nghĩ cả nửa ngày mà chẳng biết bà
thích cái gì nhất. Cuối cùng một chú bé nói:
— Tôi biết, mẹ thích nhất là ăn cơm thừa mỗi
bữa của chúng ta.
Mọi người ngẫm nghĩ thì thật đúng như thế.
Rồi đến một ngày, con cái đem thức ăn thừa trong tủ lạnh thanh lọc lại rồi
nấu một nồi, nói:
— Mẹ ơi! Hôm nay là ngày sinh nhật của mẹ,
chúng con nấu thức ăn thừa mà mẹ thích nhất để dâng mẹ.
Người mẹ này nghe xong, vừa khóc vừa nói:
— Đúng rồi, ta rất thích thức ăn thừa, mấy
mươi năm nay món mà các con không thích, ta đều thầm thầm vui vẻ chịu
đựng.
Từ xưa đến nay, đàn ông phần nhiều gọi vợ
mình là nội nhân, chuyết hình, thậm chí là tiện nội…, kì thực vợ hiền mẹ
tốt mới là người chủ đạo mặt trong của gia đình, là nhân vật hạch tâm cả
trong lẫn ngoài. Tôi đem cách quản lí là nhận hi sinh, chịu cống hiến,
không so đo, không sợ khổ này gọi là "Triết học thức ăn thừa" để dạy dỗ đồ
chúng. Nếu xem cổ kim trong ngoài, các bậc danh tướng lương thần khéo việc
quản lí không phải là đều nhân vì có loại mĩ đức quan tâm, gánh vác, do đó
có thể đủ sức thắng địch đó sao? Như Ngô Khởi lãnh quân, chẳng những cùng
binh sĩ ngủ chung giường, ăn chung bàn mà lại hỏi han ấm lạnh, hút máu mủ,
do đó quan binh đều chịu ông, vì ông ta nhảy vào dầu sôi lửa bỏng không hề
từ nan. Lí Quảng dẫn binh, lúc đói khát phát hiện suối nước, không đợi sĩ
tốt uống hết, ắt không đến gần nước, không đợi sĩ tốt ăn hết, ắt chẳng
nuốt cơm. Do đó, mọi người đều yêu thích ông ta, góp sức liều mình, vào
sanh ra tử.
Nhân đây, chỗ nói quản lí không nhất định là
ngồi tuốt trên cao, ra lệnh phát hiệu mà nên thâm nhập quần chúng, đem
tinh thần đoàn đội ra dẫn dắt.
Hơn ba mươi năm trước, tôi mới xây Học Viện
Phật Giáo, ngay việc ban đất, tôi cũng đích thân thuyết minh ý nghĩa, và
dẫn đầu trước tiên, khuân ngói gánh nước. Hôm nay sau ba mươi năm, định số
đồ chúng giúp tôi làm việc cả muôn ngàn, nhưng tôi chẳng những chưa hề
dùng miệng ra lệnh cho người làm, mà thường chủ động vì đồ chúng giải
quyết vấn đề. Thường nghe nói đồ chúng nọ ở phía Bắc bận rộn, tôi bèn vì
họ chủ trì hội nghị ở phía
Nam. Thường thường biết đồ
chúng kia ngay tại chủ trì hội báo, nhất thời không cách kết thúc, tôi bèn
vì họ dạy thế giáo thư. Tôi biết được: Quản lí tốt nhất, là chính mình
trước hết cùng đối phương thiết lập quan niệm "sống chết có nhau", mới có
thể phát huy lực lượng toàn thể lớn nhất.
Có một số người quản lí, khéo dùng mưu lược
tạo mâu thuẫn giữa mình người. Nhưng một khi bị người lột trần, không dễ
được thuộc hạ tôn trọng. Có một số người làm quản lí, thích dùng kế sách
để thăm dò sự trung thành của người khác. Nhưng một khi bị người biết rõ,
thì không thể được đối phương tin phục. Chỗ nói "Nghi người thì đừng dùng,
dùng người thì đừng nghi". Phương thức quản lí tốt nhất là đem lòng mình
để đo lường tình người, dùng trao quyền thay thế can thiệp. Như tiên sinh
Cung Bằng Trình với tôi chẳng hề quen biết, chỉ nhân nghe nói về tài hoa
của ông, lập tức đang ở trong toa xe chạy vùn vụt trên đường cao tốc,
trước hết dùng điện thoại mời ông giữ chức Hiệu trưởng. Ông ta ngạc nhiên
một trận, nghe nói tôi muốn xây dựng một Đại học Tinh Trí thuộc toàn dân,
liền bằng lòng. Từ đây nhiều năm sau, công việc nhà trường tôi chưa hề
nhúng tay can thiệp. Nam Hoa, từ khi ông lãnh đạo, ngày càng tiếng tăm.
Trước mắt, tiên sinh Trần Thần làm Hiệu trưởng Đại Học Tây Lai, quá khứ là
Hiệu trưởng trường Sư phạm Hoa Liên, sau khi giao phó việc trường cho ông
rồi, cũng rất ít hỏi qua, việc trường Đại Học Tây Lai dưới sự phát triển
của ông, cũng càng ngày càng vươn lên vùn vụt.
Trên thế gian, có một số cha mẹ bảo con cái:
— Con xem! Con nhà họ Trương sát vách hay
quá, thành tích tốt như thế, đâu giống như con!
Kết quả, đứa con bị nói không chỗ nào được,
chỉ có tự sa ngã. Trên xã hội, một số vị chủ quản cứ trách móc thuộc hạ
không bằng người khác. Người nói cố nhiên là "Tiếc rằng chưa thành tài",
nhưng không nghĩ đến lối suy nghĩ của người nghe thế nào, căn khí thế nào
thì cũng uổng phí tâm cơ. Mỗi cá nhân tư cách bất nhất, mỗi người có diệu
dụng, chỉ cần ông khéo lãnh đạo, thì quân lính bại trận cũng có thể thành
kiện tướng dũng sĩ. Điều trọng yếu nhất chính là ông có thể nhìn ra chỗ sở
trường, ưu điểm của họ hay không, để ban lời khích lệ thích đáng? Ông có
khả năng nhìn ra mấu chốt sai lầm của họ để hướng dẫn cho đích xác. Nhất
là ông có khả năng không làm tổn hoại sự tôn nghiêm của họ hay không, để
cho cuộc đời họ được đến chỗ trưởng thành? Như thiền sư Bàn Khuê dùng tâm
yêu thương từ bi làm cảm động kẻ quen thói ăn cắp không đổi tánh xấu.
Thiền sư Tiên Nhai dùng cách chẳng nói rõ để dạy Sa-di ngang ngược quấy
rối. Có thể xem Cao tăng Đại đức nhiều đời quản lí tòng lâm mười phương có
trí huệ khéo léo tiếp dẫn các loại Tăng chúng.
Quá khứ từng có cậu bé chẳng biết viết một
chữ được đưa đến Phật Quang Sơn, mọi người đều bực mình sự ngu độn của
chú, tôi dùng phương thức chơi đùa để dạy chú, từ từ cuối cùng chú khai mở
trí huệ. Lúc Đại Hùng Bảo Điện mới lạc thành, mặt trong đường dây điện của
14800 cái đèn nhỏ đều do một mình chú ta bao biện. Lại, có một cô gái
đương xuân Ma-đăng-già, mỗi lần đến núi đều đánh phấn trang điểm lộng lẫy.
Lúc ấy, không biết bao nhiêu người phản đối tôi nhận cô ta làm đệ tử xuất
gia. Nhưng sau cô ta ở cửa Phật hun đúc, chẳng những siêng năng gắng sức
mà lại làm hết bổn phận, được mọi người khen ngợi. Do đó, nói đến quản lí,
kì thật là ở chỗ khảo nghiệm tâm mình có bao nhiêu từ bi, trí huệ.
Lúc tín đồ cùng tôi nói chuyện, thường lạ
lùng nói:
— Thầy nói trúng tâm sự con rồi!
Đây là vì từ hơn bốn mươi năm qua tôi hoằng
pháp cho đến giờ thường ở trước thính chúng tín đồ tìm hiểu xem họ làm
nghề gì, ôm tâm trạng gì, ta cần giảng gì cho họ, để họ hoan hỉ, để họ cảm
động, do ta có thể dụng tâm vì người mà nghĩ đến. Do đó về sau lúc quản lí
người đông, tôi mới có thể ứng phó ung dung.
Lúc tôi tiếp tục mở Học Viện Quản Lí Nam Hoa,
từng sửa đổi thiết kế nơi chốn của một toà lầu. Việc xong, có nhiều người
nói sửa thật là hay. Họ hỏi tôi có biết xem phong thuỷ địa lí hay không?
Kì thật tâm thì có tâm lí, người thì có lí của người, tình thì có lí của
tình, vật thì có vật lí, địa thì đương nhiên cũng có địa lí. Quá khứ lúc
tôi học ở Phật Học Viện, mỗi lần lên Phật điện, tôi biết cần mau mau đến
vị trí nào, vì tôi thích đánh pháp khí, dù cho không có khai bảng của tôi,
tôi vẫn nghĩ có cơ hội bổ sung. Mỗi lần đến trai đường, tôi cũng biết nên
ngồi chỗ nào, vì tôi ăn nhiều, muốn tìm một nơi mà hành đường dễ thấy, sẽ
châm thêm thức ăn cho tôi. Mỗi lần đến giáo thất, tôi cũng biết nên đến vị
trí nào, vì quá khứ tự viện không có tiền đốt đèn dầu, chỉ có chính mình
mau mắn chọn chỗ ánh sáng tốt nhất. Mỗi lần cùng Sư trưởng nói chuyện, tôi
cũng biết nên đến đứng ở đâu, vì tôi muốn khiến họ để ý, có thể cho tôi cơ
hội học tập được nhiều. Về sau, hễ sắp đặt hình thức đội ngũ, kiến trúc xa
gần, cao thấp, sự tình trình tự mau chậm… Tôi đều có thể nắm bắt chuẩn
xác. Đây là vì tôi có thể dụng tâm đem "không gian" của mình quản lí được
đích đáng.
Tôi thường đến trước một khắc để đón tiếp
khách muốn đến tại cổng, để đối phương kinh ngạc vui mừng không thôi. Có
người hỏi tôi có thần thông không? Kì thực, là vì từ nhỏ tôi đã huấn luyện
chính mình cần có quan niệm thời gian. Như thế nào là năm phút, thế nào là
mười phút, từ chỗ này đến chỗ nọ cần bao nhiêu thời khắc, làm một việc gì
tốn bao nhiêu thời gian, trong tâm tôi đều rõ ràng phân minh, do đó tất cả
sự vật đương nhiên cũng đủ có thể quản lí đúng mức.
Mồng một Tết mỗi năm, tôi có thể ước lượng
được năm nay mùa Xuân đại khái có bao nhiêu người lên núi. Tại chỗ kia,
đợi trên một, hai ngày, tôi cũng có thể biết ở đó hương đèn nhiều ít. Đồ
chúng lấy làm kinh lạ, kì thật tôi không có mảy may công năng đặc dị, chỉ
là vì tôi có tâm lưu ý lưu lượng xe lớn nhỏ, tôi chịu chủ động hiểu rõ
nhân văn kinh tế mỗi địa phương. Do tâm tôi có khái niệm số chữ, do đó lúc
quản lí tự viện, bất kể hành chánh, tài vụ, công trình, tổng vụ… đương
nhiên đủ có thể dự tính việc mà lập, mọi mặt đều đến nơi đến chốn.
Do đó, diệu quyết quản lí, ở chỗ đem một trái
tim của mình trước tiên quản lí tốt, để trong tâm mình có quan niệm thời
gian, có tầng lớp không gian, có thống kê chữ số, có nguyên tắc làm việc.
Điều trọng yếu nhất là để cho trong tâm có sự tồn tại của người khác, có
lợi ích của đại chúng, đủ có thể đem tâm chính mình quản lí được từ bi nhu
hoà, đem tâm của chính mình quản lí được ta người nhất như,
mới tính tu học phần Quản lí học tối cao được hoàn mãn.
Bị Lãnh Đạo Học
Hoa hồng phải có lá xanh kề cận, trăng sáng
phải có các ngôi sao tô điểm thêm, đem chính mình dung nhập người khác,
nhập khắp trong đại ngã, cũng là thành tựu chính mình trong tự kỉ rộng
lớn.
Rất gần đây, những sách vở về lãnh đạo học,
thống ngự học, thống soái học, chủ quản học đầy dẫy ở các tiệm sách, rất
phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc "Thà làm đầu gà hơn làm đuôi
trâu". Kì thực theo sự lịch duyệt một đời của tôi mà nói thì bị người lãnh
đạo mới là một môn học trọng yếu, hơn nữa người có thể bị người lãnh đạo,
tương lai mới có thể làm tốt vai trò lãnh đạo. Tôi cảm nhận sâu xa rằng
lãnh đạo người khác cố nhiên rất khó làm cho tốt, nhưng có thể khéo bị
người lãnh đạo cũng chẳng phải là việc dễ. Do đó, ngay lúc mắt thấy mọi
người khao khát làm người lãnh đạo, tôi chẳng đừng được mà phải vội kêu to
lên: Làm một người bị lãnh đạo thành công mới là một môn học trọng
yếu nhất.
Tôi từ nhỏ xuất gia, cứ mong có thể có một vị
lãnh đạo để cho tôi theo học hỏi bắt chước, lúc đó đại sư Thái Hư nhận
thấy Phật giáo Trung Quốc chứa chất những tệ hại rất sâu, do đó cực lực
đẩy mạnh sự cải cách giáo chế, giáo lí, giáo sản. Lòng từ bi và nguyện lực
của Ngài, học vấn và sự hàm dưỡng của Ngài, nhiệt tình đam mê vì đạo của
Ngài, sự dũng mãnh gánh vác của Ngài… đâu đâu cũng đều trở thành đối tượng
rất đáng ngưỡng mộ trong tâm mắt của bao nhiêu Tăng-già thanh niên. Tuy
tôi chỉ đích thân nhận lời dạy dỗ một hai lần, nhưng tâm thường hướng về
Ngài, thậm chí thường nghĩ, nếu như ngày nào đó được hết lòng phục vụ cho
Ngài, dù cho vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng từ nan.
Năm 1964, tôi thật chẳng dễ dàng gì khi được
Sư phụ là Thượng nhân Chí Khai cho phép chuẩn bị trở về nhà. Đây là lần
đầu tiên kể từ khi xuất gia, tôi được về thăm thân thuộc. Đúng lúc mừng
chưa kịp dứt thì tin tức truyền đến đại sư Thái Hư đề xướng tổ chức "Ban
Huấn Luyện Nhân Viên Hội Vụ lần thứ I của Hội Phật Giáo Trung Quốc", tôi
lập tức bỏ ngay kế hoạch về quê, tranh thủ tham gia, trở thành một trong
những hồi ức khó quên suốt đời tôi.
Trung Quốc Phật Giáo Hội chính ngay lúc dự
trù tổ chức Đại hội lần thứ I, thì đại sư Thái Hư viên tịch tại Thượng
Hải, tin buồn làm kinh động toàn thể giới Phật giáo, hai chúng Tăng tục
đều đau xót khôn tả, tôi cũng như sét đánh giữa trời quang, suốt ngày mất
hồn lạc vía, cảm thấy tiền đồ một trời mù mịt, giống như mặt trời mặt
trăng không ánh sáng, mặt đất một màu đen tối, chẳng biết đi đâu, đến đâu?
Vì đây không phải là một tổn thất riêng cá nhân tôi, mà cũng vì tương lai
của Phật giáo Trung Quốc mà lo lắng. Về sau tôi nghĩ đến bạn đồng học là
pháp sư Trí Dũng là người viết hay nói giỏi, văn võ song toàn, bèn một
lòng tìm theo, và nhiều lần gởi thơ muốn đem chức Hiệu trưởng trường Quốc
Tiểu ở Nghi Hưng giao cho Sư, mời mau đến lãnh đạo. Sau này vì một cơ
duyên nọ, chúng tôi chia tay rời khỏi Nghi Hưng. Lúc vừa đến chùa Hoa Tạng
ở Nam Kinh, tôi cũng ủng hộ Sư làm trụ trì và tự nguyện làm phó, tiếp nhận
lãnh đạo, hết lòng hết dạ tận trung, cùng vì phục hưng Phật giáo mà gắng
sức.
Năm 1949, chúng tôi giao ước với nhau chia ra
để gắng sức, hi vọng nhân ở chân trời góc biển này, chia đèn vì đạo. Về
sau Sư từ Nam Kinh lại trở về Nghi Hưng, tôi từ Đại Lục đến Đài Loan, từ
đây quan san cách trở, chẳng có một chút âm hơi. Trong lòng tôi vẫn mong
có một vị đại đức để tôi theo bên cạnh, vâng theo sự lãnh đạo, do đó tôi
quan sát rất lâu, chuẩn bị chọn Chúa để thường theo. Trong lúc tìm tìm
kiếm kiếm, tôi phát hiện chỉ toàn có đại đức giỏi về nghiên cứu giáo lí,
có đại đức rành về phân tích thời thế, có đại đức khéo về phê bình chính
luận, có người ngồi yên ở địa vị vinh hiển trên cao, nhưng đều chưa thể
hoài bão lí niệm chấn hưng Phật giáo. Ngoài lúc mịt mù vô chủ ra, tôi càng
thêm khát vọng có thể xuất hiện một vị không có lập trường chủ quan tự
lợi, mà là bậc Cao tăng đại đức chân chính quan tâm đến toàn bộ Phật giáo
để làm đối tượng cho mình y chỉ.
Năm 1955, đoàn tuyên truyền Đại Tạng Kinh
Hoàn Đảo Hoằng Pháp thành lập, tôi đảm nhiệm lãnh đội đi theo Pháp sư đoàn
trưởng là
Nam Đình bố giáo khắp nơi. Nắm
giữ phận thuộc hạ gánh vác lo lắng lao nhọc cần phải có thái độ vâng lời,
chỉ là pháp sư Nam Đình có tánh bảo thủ, thường ra chỉ thị cho tôi kiểu
này không làm được, lối kia không thể làm, do đó tuy thời gian hợp tác
chưa hề phát sanh tranh chấp, nhưng trong lòng tôi thầm lấy làm tiếc. Tôi
tự thuỷ chí chung chưa hề có vẻ mặt không vui, tôi vui mừng vì may mà
chính mình có thể tiếp nhận sự lãnh đạo của người khác.
Năm 1963, tôi và pháp sư Bạch Thánh tổ chức
đoàn phỏng vấn đầu tiên của hội Phật giáo Trung Quốc đến phỏng vấn các
nước trên thế giới, từng nhiều lần suy nghĩ đóng vai trò trợ lí tốt, đâu
dè thân làm Phát ngôn nhân mà tôi lại không được phát ngôn. Tôi có thứ cảm
giác không được người tôn trọng, tuy người khác không tôn trọng tôi như
thế, nhưng tôi vẫn muốn tôn trọng người khác, cuối cùng mới được kết cuộc
viên mãn.
Bốn mươi năm trước, thấy rằng Thánh giáo
không được sáng sủa, phần lớn Phật tử theo tập quán cũ chỉ nghĩ hướng bên
ngoài cầu phước, chẳng biết chính mình phải thực tiễn, tôi cũng từng một
phen vì người biên tập tạp chí Nhân Sinh, vì người giúp công tác in ấn
phát hành in ảnh Đại Tạng Kinh, hi vọng nhờ đây thúc đẩy sự nghiệp văn hoá
Phật giáo, nhưng người chủ sự chỉ nghĩ việc giữ sự thành công, cùng với lí
niệm khai mở của tôi không cách gì phù hợp, tuy tôi không vừa lòng tác
phong lãnh đạo ấy trước sau nhiều năm, đến khi tôi bảo với ông ta xin rút
lui, ông ta vẫn khăng khăng không bỏ, nói rằng tôi rất thích hợp theo ông
ta công tác. Đây có thể chứng minh một điểm là tôi hiểu cách để người lãnh
đạo mình.
Cho dù việc đời không cách gì trọn vẹn như
mình mong ước, tôi lại mười phần tận lực làm tốt công tác trợ tá. Tôi từng
thân cận Lão Hoà thượng Diệu Quả là Lí sự trưởng Hội Phật giáo ba nơi Tân
Trúc, Đào Viên, Miêu Lật, làm trợ lí cho Ngài. Trong ký ức, các loại kế
hoạch tôi đã dự định, các thứ công văn hồi đáp, chưa từng thấy Ngài động
thêm một chữ, các loại sự hạng kiến nghị, các thứ hoạt động xếp đặt chỗ
tùng sự, cho đến hội khách, phiên dịch cũng chưa từng thấy Ngài phủ quyết.
Chẳng những như thế, vào thời đại giao thông bất tiện lúc ấy, lại nhờ ơn
Ngài đích thân đem tôi trèo non lội suối, chu du các khu vực của khách
mời, như núi Sư Đầu Trúc Nam, chùa Pháp Vân ở Đại Hồ, Sư Thiện Đường ở
Trúc Đông, chùa Triều Âm ở Quan Tây, cho đến Bình Trấn, Dương Mai, còn có
rất nhiều đạo tràng Tân Trúc, Miêu Lật, đều cảm tạ lòng từ bi hướng dẫn
của Ngài cho tôi kết nhiều nhân duyên. Nhớ một hôm, trời rất nắng, Ngài
đem tặng tôi một cái mũ kiểu Nã Phá Luân để che nắng. Mãi đến hôm nay, tôi
vẫn xét không thấu huyền cơ trong lòng Lão Hoà thượng.
Tôi cũng từng làm trợ biên Từ Hàng Pháp Sư
Toàn Tập, và nhiều lần đến thăm viếng pháp sư Từ Hàng, được Ngài từ bi che
chở, tiếp đãi thân thiết. Ngài tuy là bậc trưởng bối của tôi, nhưng mỗi
lần viết thơ đều gọi tôi là Vân đệ, có thể nói vô cùng thương mến. Bất
hạnh là lúc sáu mươi tuổi, đúng như người ta nói: "Thuyền từ dừng lúc hải
triều xuống về đêm". Tôi vì chưa thể được gần gũi lâu dài, được Ngài lãnh
đạo, đến nay nghĩ lại, rất tiếc mình duyên mỏng.
Do mấy lần chưa thể được người lãnh đạo
trường kì như nguyện, chỗ nói "Trong đất Thục không có đại tướng, Liêu Hoá
làm tiên phong", dưới tình huống bất đắc dĩ, tôi bị thanh niên Phật tử từ
từ đẩy lên địa vị người lãnh đạo. Từ năm 1953 về sau, tôi đều đảm nhiệm
những chức vụ trụ trì, hội trưởng, hiệu trưởng, viện trưởng, sở trưởng…
lại càng thể hội ra "Bị người lãnh đạo là điều may mắn, lãnh đạo người
khác là điều cay đắng".
Một con đường đi này, tôi tuy chưa từng kiếm
được người lãnh đạo vừa tầm mắt mình, nhưng nhân vì tôi cam chịu tùy
duyên, bị người lãnh đạo, chẳng những ngộ ra một phương pháp lãnh đạo, lại
thầm thầm cảm được câu "Chim hay lựa cây mà đậu, trung thần chọn chúa mà
hầu", thật là lời chí lí vang dội, càng lâu càng mới.
Nói cách khác, một người bị lãnh đạo đúng đắn
nếu như kiếm được danh chúa, ắt có thể vui lòng tùng phục, buông hết dục
vọng "thượng, trung, tiền" (thỉnh khách ngồi địa vị trên, chụp ảnh ngồi ở
giữa, đi đường đi đằng trước), dẹp hết kiến chấp riêng mình, luôn luôn nhớ
đứng vai trò phụ tá giỏi, không những chẳng nên phê bình người lãnh đạo,
lại không nên bán đứng người lãnh đạo để cầu vinh cho chính mình. Một
người thuộc hàng con cháu bị người lãnh đạo, không được lợi dụng danh
tiếng của người lãnh đạo, mà phải nên khéo thể hội lí niệm của người lãnh
đạo, siêng năng chấp hành chỉ thị của người lãnh đạo. Lạc Nghị thời đại
Xuân Thu nói: "Quân tử tuyệt giao, không nói ra tiếng ác, trung thần bỏ
nước, chẳng trong sạch thanh danh của mình". Như Lưu Dung ngay thẳng không
dua nịnh, tận trung giữ chức; Hoà Thân thì khôn ngoan xảo quyệt, chỉ lo tự
lợi. Hai loại người bị lãnh đạo mà hình thái bất đồng, kết quả người trước
lưu tiếng thơm trăm đời, người sau để tiếng thối vạn năm, thật đủ cho
người đời sau suy nghĩ sâu xa mà chọn lựa.
Đối với đồ chúng, tôi chẳng tự cho mình ở chỗ
người lãnh đạo, mà đều nương dùng lời khéo dẫn dụ, quán xét căn cơ để dạy
dỗ. Đại đa số đệ tử đều cam tâm tình nguyện, hết lòng phục tùng lãnh đạo,
trên cương vị công tác siêng năng tinh tấn, nhưng cũng có một số đệ tử bề
ngoài thì thuận theo, trong lòng lại còn kiến chấp sâu dày. Đối với loại
người này, tôi cũng chỉ đành giả điếc giả câm, nhịn đau mà nhìn họ chịu
vấp váp về sau hối hận biết vậy chẳng làm. Có lúc, tôi cũng để cho một số
đệ tử gặp được cơ hội làm người quản lí cho tôi, để họ trong lòng cao hứng
một chút. Do đó, có lúc đi đường, nghe thiện ý của họ muốn tôi tiến tới,
lui sau, tôi đều tuân thủ hết, có lúc ăn cơm, nghe họ hảo tâm muốn tôi ăn
món này món nọ, tôi cũng đều nghe lời… cho đến lúc khai hội, đệ tử đưa ra
ý kiến hay, tôi đều "tùng thiện như lưu". Lúc làm việc, đồ chúng có kế
sách tốt, tôi cũng tùy hỉ tiếp nạp. Cũng cho là vì tôi có sẵn tính cách
"bị người lãnh đạo" này, do đó có thể dung hợp ở chung với đệ tử, hoà hợp
không ngăn cách.
Đến như Phật Quang Hội do tôi thiết lập, hội
trưởng, cán bộ… của các địa phương, các phân hội phần nhiều là những vị
tinh anh trong xã hội, có sự nghiệp thành đạt, mọi người ở dưới sự tín
ngưỡng Phật giáo nhân gian của Phật-đà mà đoàn kết hợp tác, do đó tôi đối
với việc lãnh đạo họ cũng chỉ giới hạn ở sự chỉ điểm trên tín ngưỡng,
ngoài ra như những vấn đề tình cảm, sự nghiệp, hữu nghị, hôn nhân, tôi đều
né tránh khỏi can dự. Do nhận rõ ranh giới kia đây, do đó có thể tụ họp
cùng hiểu biết, phát huy lực lượng.
Trong tùng lâm, trụ trì tuy quý vì làm chủ
một chùa, nhưng hễ tiến ra đạo tràng đều phải tuân thủ quy củ khách đường,
việc trước tiên phải báo cho tri khách xếp chỗ, sư huynh xuất gia trước dù
cho tuổi tác già cả, cũng phải tuân theo luân lí công tác, phục tùng sư đệ
có cấp bậc cao hơn lãnh đạo làm việc. Đây chính là Trưởng lão của giới
Phật giáo, người đảm nhiệm và người bị lãnh đạo, lấy pháp chế làm sự tôn
trọng, không kể danh vị, nhìn khắp cổ kim, có thể nói là rất hợp với luân
lí công tác, rất hợp với nghệ thuật làm người.
Xem kinh điển, Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã
chứng ngộ Phật quả trước vô lượng kiếp, tên Chánh Pháp Minh Như Lai, lại
cam chịu cỡi ngược thuyền từ, tiếp nhận sự lãnh đạo của Phật A-di-đà, tại
thế gian theo tiếng cầu xin mà cứu khổ, do đó uế độ Ta-bà được có quang
minh. Bồ Tát Di-lặc và Phật Thích-ca vốn là đạo hữu đồng tham học, nhưng
do người trước thích làm Bồ Tát bổ xứ, tiếp nhận sự lãnh đạo của người
sau, khiến cho Phật tử đời sau có may mắn được độ toàn bộ ở ba hội Long
Hoa. Chư Phật Bồ Tát còn như thế, chúng ta là phàm phu tục tử càng nên
buông hết quan niệm tôn ti lớn nhỏ, lấy hạnh phúc của chúng sanh, an lạc
của thế giới làm trọng.
Xem lại sử sách, Chu Công phò tá Chu Thành
Vương, người sau chẳng những khen ngợi lòng nhân từ yêu dân của Thành
Vương, mà đối với sự liêm chính hiền đạt của Chu Công càng thêm thán phục.
Nguỵ Trưng phụ bật Đường Thái Tông, người sau chẳng những ca ngợi Thái
Tông biết nhận lời hay, mà còn cảm động không thôi vì lòng tận trung với
nước của Nguỵ Trưng. Như Gia Cát Khổng Minh phò tá A Đẩu ngu muội, cha của
A Đẩu là Lưu Bị tuy chỉ rõ Gia Cát Lượng có thể thay người khác, nhưng Gia
Cát Lượng vẫn một lòng vì chúa, cúc cung tận tuỵ đến chết mới thôi. Lưu Bá
Ôn giúp Minh Thái Tổ được thiên hạ, lại cam chịu làm một mưu thần dưới
trướng, cống hiến kế sách hay…, những chuyện này đều thành những giai
thoại đẹp đẽ, truyền tụng đến nay. Nhân đây, người bị lãnh đạo tuy bề mặt
địa vị hơi thấp, nhưng chỉ cần chịu ẩn giấu tài năng, hàm dưỡng nhân cách,
giữ vững cương vị, hết lòng phụ giúp, đến khi thành tựu, cũng đủ được khen
ngợi bằng với người lãnh đạo. Tại Trung Quốc thường gọi vợ là hiền nội
trợ, thời đại nam nữ bình quyền ngày nay, hiển lộ người nữ bị thấp một
bậc, nhưng suy cho kỹ, trên thực tế trong một gia đình nếu như không có
mẹ, vợ thì làm sao thành nhà? Do đó một người hiền nội trợ chân chánh phải
đủ điều kiện hiền huệ, cần lao, đảm đang, thân thiện. Tại Âu Mĩ, bên cạnh
nhân vật trọng yếu đều có rất nhiều trợ lí giúp họ thu xếp công việc, xã
hội Trung Quốc một bề gọi là bí thư. Bất kể là trợ lí cũng tốt, bí thư
cũng tốt, so với yếu nhân, dường như đều ở địa vị bị lãnh đạo thấp kém,
nhưng tất cả việc quan trọng nếu không có sự thúc đẩy của trợ lí, bí thư
thì không cách gì xong việc.
Do đó thân làm một thuộc hạ bị người lãnh
đạo, trừ điều kiện phải xem trước ngó sau, kế hoạch công việc đầy đủ, giao
tiếp dung hoà với người, siêng năng chịu khó ra, lại cần phải có đức tính
tốt đẹp như trung thành không đổi dạ, thông đạt tình lí, biết tiến lùi,
không vượt quá phận mình. Kỵ nhất là chỉ thấy lợi gần, dối trên gạt dưới,
tiếp đón phan duyên, cong queo tà vạy. Chỗ nói "Thế sự thông đạt đều học
hỏi", nhân gian có chỗ nào không phải là tấm gương cho chúng ta học tập.
Anh xem, hoa hồng cần phải có lá xanh kề cận, mới có thể hiển lộ vẽ mĩ cảm
hoàn chỉnh, trăng sáng cũng cần có những ngôi sao tô điểm, mới có thể biểu
hiện sự mĩ lệ giữa trời đêm. Bị lãnh đạo là một môn học vấn
lớn nhất, người bị lãnh đạo có thể làm được đúng quy củ trong chức vụ của
mình, đem chính mình dung nhập người khác, nhập vào khắp trong Đại ngã,
cũng là thành tựu chính mình trong tự kỉ rộng lớn.
Hoa hồng phải có lá
xanh kề cận, trăng sáng phải có các ngôi sao tô điểm thêm, đem chính mình
dung nhập người khác, nhập khắp trong đại ngã, cũng là thành tựu chính
mình trong tự kỉ rộng lớn.
Rất gần đây, những sách vở về lãnh đạo học,
thống ngự học, thống soái học, chủ quản học đầy dẫy ở các tiệm sách, rất
phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc "Thà làm đầu gà hơn làm đuôi
trâu". Kì thực theo sự lịch duyệt một đời của tôi mà nói thì bị người lãnh
đạo mới là một môn học trọng yếu, hơn nữa người có thể bị người lãnh đạo,
tương lai mới có thể làm tốt vai trò lãnh đạo. Tôi cảm nhận sâu xa rằng
lãnh đạo người khác cố nhiên rất khó làm cho tốt, nhưng có thể khéo bị
người lãnh đạo cũng chẳng phải là việc dễ. Do đó, ngay lúc mắt thấy mọi
người khao khát làm người lãnh đạo, tôi chẳng đừng được mà phải vội kêu to
lên: Làm một người bị lãnh đạo thành công mới là một môn học trọng
yếu nhất.
Tôi từ nhỏ xuất gia, cứ mong có thể có một vị
lãnh đạo để cho tôi theo học hỏi bắt chước, lúc đó đại sư Thái Hư nhận
thấy Phật giáo Trung Quốc chứa chất những tệ hại rất sâu, do đó cực lực
đẩy mạnh sự cải cách giáo chế, giáo lí, giáo sản. Lòng từ bi và nguyện lực
của Ngài, học vấn và sự hàm dưỡng của Ngài, nhiệt tình đam mê vì đạo của
Ngài, sự dũng mãnh gánh vác của Ngài… đâu đâu cũng đều trở thành đối tượng
rất đáng ngưỡng mộ trong tâm mắt của bao nhiêu Tăng-già thanh niên. Tuy
tôi chỉ đích thân nhận lời dạy dỗ một hai lần, nhưng tâm thường hướng về
Ngài, thậm chí thường nghĩ, nếu như ngày nào đó được hết lòng phục vụ cho
Ngài, dù cho vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng từ nan.
Năm 1964, tôi thật chẳng dễ dàng gì khi được
Sư phụ là Thượng nhân Chí Khai cho phép chuẩn bị trở về nhà. Đây là lần
đầu tiên kể từ khi xuất gia, tôi được về thăm thân thuộc. Đúng lúc mừng
chưa kịp dứt thì tin tức truyền đến đại sư Thái Hư đề xướng tổ chức "Ban
Huấn Luyện Nhân Viên Hội Vụ lần thứ I của Hội Phật Giáo Trung Quốc", tôi
lập tức bỏ ngay kế hoạch về quê, tranh thủ tham gia, trở thành một trong
những hồi ức khó quên suốt đời tôi.
Trung Quốc Phật Giáo Hội chính ngay lúc dự
trù tổ chức Đại hội lần thứ I, thì đại sư Thái Hư viên tịch tại Thượng
Hải, tin buồn làm kinh động toàn thể giới Phật giáo, hai chúng Tăng tục
đều đau xót khôn tả, tôi cũng như sét đánh giữa trời quang, suốt ngày mất
hồn lạc vía, cảm thấy tiền đồ một trời mù mịt, giống như mặt trời mặt
trăng không ánh sáng, mặt đất một màu đen tối, chẳng biết đi đâu, đến đâu?
Vì đây không phải là một tổn thất riêng cá nhân tôi, mà cũng vì tương lai
của Phật giáo Trung Quốc mà lo lắng. Về sau tôi nghĩ đến bạn đồng học là
pháp sư Trí Dũng là người viết hay nói giỏi, văn võ song toàn, bèn một
lòng tìm theo, và nhiều lần gởi thơ muốn đem chức Hiệu trưởng trường Quốc
Tiểu ở Nghi Hưng giao cho Sư, mời mau đến lãnh đạo. Sau này vì một cơ
duyên nọ, chúng tôi chia tay rời khỏi Nghi Hưng. Lúc vừa đến chùa Hoa Tạng
ở Nam Kinh, tôi cũng ủng hộ Sư làm trụ trì và tự nguyện làm phó, tiếp nhận
lãnh đạo, hết lòng hết dạ tận trung, cùng vì phục hưng Phật giáo mà gắng
sức.
Năm 1949, chúng tôi giao ước với nhau chia ra
để gắng sức, hi vọng nhân ở chân trời góc biển này, chia đèn vì đạo. Về
sau Sư từ Nam Kinh lại trở về Nghi Hưng, tôi từ Đại Lục đến Đài Loan, từ
đây quan san cách trở, chẳng có một chút âm hơi. Trong lòng tôi vẫn mong
có một vị đại đức để tôi theo bên cạnh, vâng theo sự lãnh đạo, do đó tôi
quan sát rất lâu, chuẩn bị chọn Chúa để thường theo. Trong lúc tìm tìm
kiếm kiếm, tôi phát hiện chỉ toàn có đại đức giỏi về nghiên cứu giáo lí,
có đại đức rành về phân tích thời thế, có đại đức khéo về phê bình chính
luận, có người ngồi yên ở địa vị vinh hiển trên cao, nhưng đều chưa thể
hoài bão lí niệm chấn hưng Phật giáo. Ngoài lúc mịt mù vô chủ ra, tôi càng
thêm khát vọng có thể xuất hiện một vị không có lập trường chủ quan tự
lợi, mà là bậc Cao tăng đại đức chân chính quan tâm đến toàn bộ Phật giáo
để làm đối tượng cho mình y chỉ.
Năm 1955, đoàn tuyên truyền Đại Tạng Kinh
Hoàn Đảo Hoằng Pháp thành lập, tôi đảm nhiệm lãnh đội đi theo Pháp sư đoàn
trưởng là
Nam
Đình bố giáo khắp nơi. Nắm giữ phận thuộc hạ gánh vác lo lắng lao nhọc cần
phải có thái độ vâng lời, chỉ là pháp sư Nam Đình có tánh bảo thủ, thường
ra chỉ thị cho tôi kiểu này không làm được, lối kia không thể làm, do đó
tuy thời gian hợp tác chưa hề phát sanh tranh chấp, nhưng trong lòng tôi
thầm lấy làm tiếc. Tôi tự thuỷ chí chung chưa hề có vẻ mặt không vui, tôi
vui mừng vì may mà chính mình có thể tiếp nhận sự lãnh đạo của người khác.
Năm 1963, tôi và pháp sư Bạch Thánh tổ chức
đoàn phỏng vấn đầu tiên của hội Phật giáo Trung Quốc đến phỏng vấn các
nước trên thế giới, từng nhiều lần suy nghĩ đóng vai trò trợ lí tốt, đâu
dè thân làm Phát ngôn nhân mà tôi lại không được phát ngôn. Tôi có thứ cảm
giác không được người tôn trọng, tuy người khác không tôn trọng tôi như
thế, nhưng tôi vẫn muốn tôn trọng người khác, cuối cùng mới được kết cuộc
viên mãn.
Bốn mươi năm trước, thấy rằng Thánh giáo
không được sáng sủa, phần lớn Phật tử theo tập quán cũ chỉ nghĩ hướng bên
ngoài cầu phước, chẳng biết chính mình phải thực tiễn, tôi cũng từng một
phen vì người biên tập tạp chí Nhân Sinh, vì người giúp công tác in ấn
phát hành in ảnh Đại Tạng Kinh, hi vọng nhờ đây thúc đẩy sự nghiệp văn hoá
Phật giáo, nhưng người chủ sự chỉ nghĩ việc giữ sự thành công, cùng với lí
niệm khai mở của tôi không cách gì phù hợp, tuy tôi không vừa lòng tác
phong lãnh đạo ấy trước sau nhiều năm, đến khi tôi bảo với ông ta xin rút
lui, ông ta vẫn khăng khăng không bỏ, nói rằng tôi rất thích hợp theo ông
ta công tác. Đây có thể chứng minh một điểm là tôi hiểu cách để người lãnh
đạo mình.
Cho dù việc đời không cách gì trọn vẹn như
mình mong ước, tôi lại mười phần tận lực làm tốt công tác trợ tá. Tôi từng
thân cận Lão Hoà thượng Diệu Quả là Lí sự trưởng Hội Phật giáo ba nơi Tân
Trúc, Đào Viên, Miêu Lật, làm trợ lí cho Ngài. Trong ký ức, các loại kế
hoạch tôi đã dự định, các thứ công văn hồi đáp, chưa từng thấy Ngài động
thêm một chữ, các loại sự hạng kiến nghị, các thứ hoạt động xếp đặt chỗ
tùng sự, cho đến hội khách, phiên dịch cũng chưa từng thấy Ngài phủ quyết.
Chẳng những như thế, vào thời đại giao thông bất tiện lúc ấy, lại nhờ ơn
Ngài đích thân đem tôi trèo non lội suối, chu du các khu vực của khách
mời, như núi Sư Đầu Trúc Nam, chùa Pháp Vân ở Đại Hồ, Sư Thiện Đường ở
Trúc Đông, chùa Triều Âm ở Quan Tây, cho đến Bình Trấn, Dương Mai, còn có
rất nhiều đạo tràng Tân Trúc, Miêu Lật, đều cảm tạ lòng từ bi hướng dẫn
của Ngài cho tôi kết nhiều nhân duyên. Nhớ một hôm, trời rất nắng, Ngài
đem tặng tôi một cái mũ kiểu Nã Phá Luân để che nắng. Mãi đến hôm nay, tôi
vẫn xét không thấu huyền cơ trong lòng Lão Hoà thượng.
Tôi cũng từng làm trợ biên Từ Hàng Pháp Sư
Toàn Tập, và nhiều lần đến thăm viếng pháp sư Từ Hàng, được Ngài từ bi che
chở, tiếp đãi thân thiết. Ngài tuy là bậc trưởng bối của tôi, nhưng mỗi
lần viết thơ đều gọi tôi là Vân đệ, có thể nói vô cùng thương mến. Bất
hạnh là lúc sáu mươi tuổi, đúng như người ta nói: "Thuyền từ dừng lúc hải
triều xuống về đêm". Tôi vì chưa thể được gần gũi lâu dài, được Ngài lãnh
đạo, đến nay nghĩ lại, rất tiếc mình duyên mỏng.
Do mấy lần chưa thể được người lãnh đạo
trường kì như nguyện, chỗ nói "Trong đất Thục không có đại tướng, Liêu Hoá
làm tiên phong", dưới tình huống bất đắc dĩ, tôi bị thanh niên Phật tử từ
từ đẩy lên địa vị người lãnh đạo. Từ năm 1953 về sau, tôi đều đảm nhiệm
những chức vụ trụ trì, hội trưởng, hiệu trưởng, viện trưởng, sở trưởng…
lại càng thể hội ra "Bị người lãnh đạo là điều may mắn, lãnh đạo người
khác là điều cay đắng".
Một con đường đi này, tôi tuy chưa từng kiếm
được người lãnh đạo vừa tầm mắt mình, nhưng nhân vì tôi cam chịu tùy
duyên, bị người lãnh đạo, chẳng những ngộ ra một phương pháp lãnh đạo, lại
thầm thầm cảm được câu "Chim hay lựa cây mà đậu, trung thần chọn chúa mà
hầu", thật là lời chí lí vang dội, càng lâu càng mới.
Nói cách khác, một người bị lãnh đạo đúng đắn
nếu như kiếm được danh chúa, ắt có thể vui lòng tùng phục, buông hết dục
vọng "thượng, trung, tiền" (thỉnh khách ngồi địa vị trên, chụp ảnh ngồi ở
giữa, đi đường đi đằng trước), dẹp hết kiến chấp riêng mình, luôn luôn nhớ
đứng vai trò phụ tá giỏi, không những chẳng nên phê bình người lãnh đạo,
lại không nên bán đứng người lãnh đạo để cầu vinh cho chính mình. Một
người thuộc hàng con cháu bị người lãnh đạo, không được lợi dụng danh
tiếng của người lãnh đạo, mà phải nên khéo thể hội lí niệm của người lãnh
đạo, siêng năng chấp hành chỉ thị của người lãnh đạo. Lạc Nghị thời đại
Xuân Thu nói: "Quân tử tuyệt giao, không nói ra tiếng ác, trung thần bỏ
nước, chẳng trong sạch thanh danh của mình". Như Lưu Dung ngay thẳng không
dua nịnh, tận trung giữ chức; Hoà Thân thì khôn ngoan xảo quyệt, chỉ lo tự
lợi. Hai loại người bị lãnh đạo mà hình thái bất đồng, kết quả người trước
lưu tiếng thơm trăm đời, người sau để tiếng thối vạn năm, thật đủ cho
người đời sau suy nghĩ sâu xa mà chọn lựa.
Đối với đồ chúng, tôi chẳng tự cho mình ở chỗ
người lãnh đạo, mà đều nương dùng lời khéo dẫn dụ, quán xét căn cơ để dạy
dỗ. Đại đa số đệ tử đều cam tâm tình nguyện, hết lòng phục tùng lãnh đạo,
trên cương vị công tác siêng năng tinh tấn, nhưng cũng có một số đệ tử bề
ngoài thì thuận theo, trong lòng lại còn kiến chấp sâu dày. Đối với loại
người này, tôi cũng chỉ đành giả điếc giả câm, nhịn đau mà nhìn họ chịu
vấp váp về sau hối hận biết vậy chẳng làm. Có lúc, tôi cũng để cho một số
đệ tử gặp được cơ hội làm người quản lí cho tôi, để họ trong lòng cao hứng
một chút. Do đó, có lúc đi đường, nghe thiện ý của họ muốn tôi tiến tới,
lui sau, tôi đều tuân thủ hết, có lúc ăn cơm, nghe họ hảo tâm muốn tôi ăn
món này món nọ, tôi cũng đều nghe lời… cho đến lúc khai hội, đệ tử đưa ra
ý kiến hay, tôi đều "tùng thiện như lưu". Lúc làm việc, đồ chúng có kế
sách tốt, tôi cũng tùy hỉ tiếp nạp. Cũng cho là vì tôi có sẵn tính cách
"bị người lãnh đạo" này, do đó có thể dung hợp ở chung với đệ tử, hoà hợp
không ngăn cách.
Đến như Phật Quang Hội do tôi thiết lập, hội
trưởng, cán bộ… của các địa phương, các phân hội phần nhiều là những vị
tinh anh trong xã hội, có sự nghiệp thành đạt, mọi người ở dưới sự tín
ngưỡng Phật giáo nhân gian của Phật-đà mà đoàn kết hợp tác, do đó tôi đối
với việc lãnh đạo họ cũng chỉ giới hạn ở sự chỉ điểm trên tín ngưỡng,
ngoài ra như những vấn đề tình cảm, sự nghiệp, hữu nghị, hôn nhân, tôi đều
né tránh khỏi can dự. Do nhận rõ ranh giới kia đây, do đó có thể tụ họp
cùng hiểu biết, phát huy lực lượng.
Trong tùng lâm, trụ trì tuy quý vì làm chủ
một chùa, nhưng hễ tiến ra đạo tràng đều phải tuân thủ quy củ khách đường,
việc trước tiên phải báo cho tri khách xếp chỗ, sư huynh xuất gia trước dù
cho tuổi tác già cả, cũng phải tuân theo luân lí công tác, phục tùng sư đệ
có cấp bậc cao hơn lãnh đạo làm việc. Đây chính là Trưởng lão của giới
Phật giáo, người đảm nhiệm và người bị lãnh đạo, lấy pháp chế làm sự tôn
trọng, không kể danh vị, nhìn khắp cổ kim, có thể nói là rất hợp với luân
lí công tác, rất hợp với nghệ thuật làm người.
Xem kinh điển, Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã
chứng ngộ Phật quả trước vô lượng kiếp, tên Chánh Pháp Minh Như Lai, lại
cam chịu cỡi ngược thuyền từ, tiếp nhận sự lãnh đạo của Phật A-di-đà, tại
thế gian theo tiếng cầu xin mà cứu khổ, do đó uế độ Ta-bà được có quang
minh. Bồ Tát Di-lặc và Phật Thích-ca vốn là đạo hữu đồng tham học, nhưng
do người trước thích làm Bồ Tát bổ xứ, tiếp nhận sự lãnh đạo của người
sau, khiến cho Phật tử đời sau có may mắn được độ toàn bộ ở ba hội Long
Hoa. Chư Phật Bồ Tát còn như thế, chúng ta là phàm phu tục tử càng nên
buông hết quan niệm tôn ti lớn nhỏ, lấy hạnh phúc của chúng sanh, an lạc
của thế giới làm trọng.
Xem lại sử sách, Chu Công phò tá Chu Thành
Vương, người sau chẳng những khen ngợi lòng nhân từ yêu dân của Thành
Vương, mà đối với sự liêm chính hiền đạt của Chu Công càng thêm thán phục.
Nguỵ Trưng phụ bật Đường Thái Tông, người sau chẳng những ca ngợi Thái
Tông biết nhận lời hay, mà còn cảm động không thôi vì lòng tận trung với
nước của Nguỵ Trưng. Như Gia Cát Khổng Minh phò tá A Đẩu ngu muội, cha của
A Đẩu là Lưu Bị tuy chỉ rõ Gia Cát Lượng có thể thay người khác, nhưng Gia
Cát Lượng vẫn một lòng vì chúa, cúc cung tận tuỵ đến chết mới thôi. Lưu Bá
Ôn giúp Minh Thái Tổ được thiên hạ, lại cam chịu làm một mưu thần dưới
trướng, cống hiến kế sách hay…, những chuyện này đều thành những giai
thoại đẹp đẽ, truyền tụng đến nay. Nhân đây, người bị lãnh đạo tuy bề mặt
địa vị hơi thấp, nhưng chỉ cần chịu ẩn giấu tài năng, hàm dưỡng nhân cách,
giữ vững cương vị, hết lòng phụ giúp, đến khi thành tựu, cũng đủ được khen
ngợi bằng với người lãnh đạo. Tại Trung Quốc thường gọi vợ là hiền nội
trợ, thời đại nam nữ bình quyền ngày nay, hiển lộ người nữ bị thấp một
bậc, nhưng suy cho kỹ, trên thực tế trong một gia đình nếu như không có
mẹ, vợ thì làm sao thành nhà? Do đó một người hiền nội trợ chân chánh phải
đủ điều kiện hiền huệ, cần lao, đảm đang, thân thiện. Tại Âu Mĩ, bên cạnh
nhân vật trọng yếu đều có rất nhiều trợ lí giúp họ thu xếp công việc, xã
hội Trung Quốc một bề gọi là bí thư. Bất kể là trợ lí cũng tốt, bí thư
cũng tốt, so với yếu nhân, dường như đều ở địa vị bị lãnh đạo thấp kém,
nhưng tất cả việc quan trọng nếu không có sự thúc đẩy của trợ lí, bí thư
thì không cách gì xong việc.
Do đó thân làm một thuộc hạ bị người lãnh
đạo, trừ điều kiện phải xem trước ngó sau, kế hoạch công việc đầy đủ, giao
tiếp dung hoà với người, siêng năng chịu khó ra, lại cần phải có đức tính
tốt đẹp như trung thành không đổi dạ, thông đạt tình lí, biết tiến lùi,
không vượt quá phận mình. Kị nhất là chỉ thấy lợi gần, dối trên gạt dưới,
tiếp đón phan duyên, cong queo tà vạy. Chỗ nói "Thế sự thông đạt đều học
hỏi", nhân gian có chỗ nào không phải là tấm gương cho chúng ta học tập.
Anh xem, hoa hồng cần phải có lá xanh kề cận, mới có thể hiển lộ vẽ mĩ cảm
hoàn chỉnh, trăng sáng cũng cần có những ngôi sao tô điểm, mới có thể biểu
hiện sự mĩ lệ giữa trời đêm. Bị lãnh đạo là một môn học vấn
lớn nhất, người bị lãnh đạo có thể làm được đúng quy củ trong chức vụ của
mình, đem chính mình dung nhập người khác, nhập vào khắp trong Đại ngã,
cũng là thành tựu chính mình trong tự kỉ rộng lớn.
Từ khi gia nhập hàng ngũ hoằng pháp lợi sanh
rồi, gần năm mươi năm nay, hành khước khắp nơi chưa hề ngơi nghỉ, nhất là
mấy năm gần đây, vòng quanh khắp năm châu, lại là chiếu không kịp ấm. Có
người quan tâm, hỏi tôi: "Thầy vì sao không chịu nghỉ ngơi?" Tôi đều đáp
thế này: "Tương lai sẽ có lúc nghỉ ngơi vĩnh viễn".
Từ nhỏ tới lớn, tôi một mực thích xem truyện
của các danh nhân. Lúc để hồn dạo khắp cổ kim trong ngoài, tôi thường phát
hiện sự thành công dường như thuộc về người siêng năng phấn đấu làm việc.
Còn người kiêu sa phóng dật thì nhất định mạng vận chạy về phía thất bại.
Nhiều năm nay, tôi đạp khắp các nơi trên toàn cầu khảo sát nhân văn phong
tục, sau khi so sánh, thầm thầm cảm nhận quốc gia có tiền đồ sung mãn đầy
hi vọng thường là có nhân dân lạc quan tiến thủ. Ngược lại, trong những
nước lạc hậu bần cùng thì dân chẳng biết siêng năng tạo dựng, khắp nơi đều
thế. Tôi phát giác người nào có đủ bạn bè bền gan nhiều nghị lực, bền bỉ
bất khuất, thì cuộc sống rất đầy đủ hạnh phúc. Tôi, chính mình đã làm qua
các việc lao nhọc, cực khổ khác nhau, chỉ cần lợi ích hữu tình. Dầu cho là
trải qua một phen cay đắng phấn đấu, đều có thể khiến tôi trọn đời thấm
thía vô cùng. Do đó tôi thường răn nhắc đồ chúng rằng:
Tinh tấn cần lao, là đức lành, là giàu có.
Giải đãi phóng dật, là tội ác, là bần cùng.
Nước đứng dễ sanh trùng,
đá lăn không mọc rêu
"Trời vận hành mạnh mẽ, quân tử dùng tự cường
không dừng". Trong đại tự nhiên, bốn mùa xoay vần thay đổi, hành tinh vận
chuyển không dừng. Chúng ta là một phần tử trong đại tự nhiên, đâu thể lẫn
trốn giữa trời đất? Mà hiện tượng "Nước đứng dễ sanh trùng, đá lăn không
mọc rêu" đã thuyết minh rõ, chỉ có đem chính mình "động" lên, mới có thể
sáng tạo sức sống vô hạn. Chỉ có tinh tấn không biếng lười, mới là thuận
ứng lòng trời, thuận với đạo an thân lập mạng. Nhân đây, tôi đối với những
người khuyên tôi không nên bận rộn, khéo giữ gìn thân thể mà bảo họ rằng:
"Bận rộn mới là bảo trọng". Vì tương lai chúng ta đều có thời gian nghỉ
ngơi vĩnh viễn.
Đại sư Trí Giả đời Tùy khi đọc đến phẩm Dược
Vương Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa, liễu ngộ "Tâm duyên khổ hạnh, thị danh
tinh tấn", lập tức hoát nhiên khai ngộ. Tôi tuy tự than không có phước đức
để khéo nhập vào trí huệ Phật này, nhưng sống đời xuất gia được nửa thế kỉ
nay, và mấy mươi năm âu lo nung đốt, khiến tôi xác thực thể hội được rằng
tu hành không phải là những khổ vui vinh suy bề ngoài mà là ở chỗ chân tu
thật học, hiển phát ánh sáng rực rỡ của tự tánh; ở trong chỗ chí hành kiên
cố, làm lộ ra sức bi nguyện. Nếu đem bận rộn và nhàn hạ ra nói thì thà có
thể bận rộn mà chết, chứ không cần nhàn hạ mà sống. Vì trên cơ bản sự nghỉ
ngơi quá phận đợi đến ngủ Đông, là đợi ở lãng phí sinh mạng.
Tôi thường xem một số thanh niên vốn rất có
mục đích, sau khi học Phật, nếu không vội vàng đóng cửa niệm Phật, vào núi
tu thiền, mượn cớ tránh né bận rộn thì cũng là muốn đi xây dựng gia miếu,
rộng thâu đệ tử, dùng hoá duyên quyên góp tự mưu việc ấm no là đủ. Kết
quả, nếu chẳng ở trong năm tháng tịch tĩnh làm tiêu ma hết chí khí, thì
cũng ở trong sự cúng dường nồng hậu chôn vùi hết từ tâm bi nguyện; trong
lòng thật là cảm đau đớn! Xem lại Phật-đà sau khi chứng ngộ chân lí, lại
đi khắp nơi hoằng pháp lợi sanh, cho đến tám mươi ngài vẫn kéo thân thể
bệnh hoạn mỏi mệt, hành hoá hai bên Hằng Hà. Chúng ta lại xem đến Bồ Tát
nhiều kiếp lúc ở nhân địa tu hành, tinh tấn không lười, cay đắng nhọc
nhằn, độ thoát hữu tình cho đến tuy xả thân, đầu, tuỷ não, quốc thành thê
tử mà chẳng khởi mảy may lòng sân hận.
Bậc Hiền Thánh sở dĩ có thể ở trong biển sanh
tử dài lâu, tạo phước hưng thiện, trọn không chán mỏi, là vì các vị đều
lập vững chí hướng rộng lớn xa vời, bền chịu trăm nhẫn này không oán
trách, không hối hận. Chúng ta là một nạp Tăng, phước mỏng huệ cạn, có
chúng sanh vô tận cần độ thoát, có pháp môn vô lượng cần học tập, làm sao
dám ham khỏe ghét nhọc, ngồi hưởng sự thành công? Muốn đoạn trừ phiền não
vô biên, siêng cầu Phật đạo vô thượng, há là chỉ biết ẩn giấu trốn đời
hoặc một mực vào đời mị hoặc người thế tục mà có thể dễ dàng thành tựu?
Có câu "Thân người khó được nay đã được, Phật
pháp khó nghe nay đã nghe". Nếu như chúng ta không nắm bắt lập tức, tích
cực hành đạo mà để thời gian vùn vụt trôi qua, một mai chẳng phụng hiến
được gì, theo nghiệp báo mạng hết, há chẳng phụ của tín thí ở mười phương?
Còn nếu dưới cà-sa mất thân người, hãm vào nơi muôn kiếp không trở lại
được, thì càng hổ thẹn với lòng từ bi của chư Phật, Bồ Tát.
☸ Tôi chẳng lo tuổi già,
cũng chẳng có thời giờ để già
Từng có một đồ chúng nhiều năm theo học bên
ngoài, lúc trở về trả phép, ngạc nhiên nói với tôi:
— Sư phụ! Thầy làm sao mà không già chút nào
vậy?
Tôi đáp:
— Vì tôi không có thời gian để già.
Khổng Tử từng nói: "Còn làm người, phẫn uất
quên ăn, vui thì quên lo, chẳng biết cái già sắp đến."
"Già", điều đáng sợ nhất là sự suy thoái của
tâm lực chứ không phải là sự tăng thêm tuổi tác. Có một số người tuy tuổi
còn trẻ mà tâm đã muốn già rồi, do đó chỉ có ngồi đợi chôn, như xác biết
đi, như đống thịt biết chạy mà sống trên đời. Có số người mặc dầu tóc bạc
đầy đầu, tinh thần lại sung mãn, càng già càng dẻo, như Mã Viện đời Đông
Hán tuổi cao mà xung phong hãm trận giữa sa trường, phát xuất lời hào hùng
"Da ngựa bọc thây" khiến người động lòng xót ruột, phu nhân Meigh của
Ixraen tuổi độ tám mươi vẫn dự những buổi đàm phán ngoại giao trong chiến
tranh, bà từng khoáng đạt nói:
— Tôi chẳng lo tuổi già, tuổi già như phi cơ
bay trong mưa gió. Bạn không có cách gì ngăn gió mưa, cũng không thể dừng
phi cơ lại. Do đó chẳng bằng "Lạc thiên tri mệnh", cứ để nó bay!
Chẳng kể là ở trong chiến trường nhân sinh
đầy ngũ dục, lục trần bôn ba cũng tốt, hoặc là trong thế gian mưa gió ngũ
vị tạp trần rong ruổi cũng xong. Quang âm như nước chảy, dễ qua mà khó trở
lại, cần dùng sinh mạng có hạn để hoàn thành sứ mạng vô cùng, đem tinh
thần vũ trang lên, tạo cuộc chạy đua trường kì với thời gian. Do đó, tôi
cố để tốc độ giải quyết việc nhanh chóng nhất một số vấn đề chồng chất từ
lâu, đã bó tay khó tính, chỉ cần đến chỗ tôi, một lần lập tức giải quyết.
Vì thế có tiếng là "Trung tâm giải quyết tức thì". Bất kể là hành trình
bận rộn bao nhiêu, hễ đáp ứng lời mời của người khác rồi, thì tôi nhất
định nghĩ hết biện pháp đúng giờ đến dự. Vì thế mà được tiếng khen "Hạn
thời khoái đệ", đến hẹn một cách hoả tốc. Lúc trẻ tôi từ đi bộ dạy dỗ đến
đi xe đạp hoằng pháp, về sau dùng hoả xa, xe hơi thay bước vào Nam ra Bắc.
Hiện tại dầu đi máy bay, xuyên khắp quốc tế nhưng vẫn là mỗi ngày bận rộn
quá chừng. Trên cuộc sống, tôi hết sức đơn giản, rửa mặt một cốc rưỡi, cạo
đầu năm phút, chính vì tiết kiệm thời gian, làm việc nhiều hơn.
Dài lâu về sau, tôi tự mình huấn luyện biết
yên phận, do đó bất kể ở buồng máy, toa xe, chợ búa, quán trọ tôi đều có
thể tự tại xem báo, đọc sách, dựa vào đó dụng công hấp thu sự hiểu biết
mới, đốc xúc chính mình đồng tiến với thời gian. Lúc tôi xuất gia, từ việc
sắp xếp công việc, đi trên đường, học tập lợi dụng thời gian vụn vặt, cho
đến ngày nay, ngay dầu mấy phút rỗi rảnh khi tản bộ, trong khai thị, tôi
đều không để lãng phí. Một số kế hoạch đại cương, vài trang thư pháp kết
duyên, thường đều hoàn thành trong lúc này. Tôi hận không được một ngày
xứng với dụng của một năm, một tuần xứng với dụng một đời.
Dụng hết thân tâm,
chẳng có thời gian bệnh não
Có lúc nhận thư của tín đồ, cuối thư chúc
phúc tôi "ít bệnh ít não", kì thực tôi chẳng có thời gian già, đương nhiên
cũng không có thời gian sinh bệnh, càng không có thời gian phiền não. Đại
sĩ Duy Ma Cật nói: "Chúng sanh bệnh, thế nên tôi bệnh". Thiền sư Triệu
Châu nói: "Phật là phiền não, phiền não là Phật". Hành giả Bồ Tát đạo vì
có thể từ Phật tánh bình đẳng nhất như và trên quan hệ mình người chẳng
hai mà đối đãi với chúng sanh, do đó xem tật bệnh của chúng sanh là tật
bệnh của chính mình, xem phiền não của chúng sanh là phiền não của chính
mình. Nhân đó có thể cam tâm tình nguyện làm trâu ngựa cho chúng sanh,
chẳng cho là khổ. Tôi từ bé dự vào tùng lâm, ngày đêm huân tập, lấy bậc
tiên hiền làm thầy, do đó ngày đêm không ngừng dạy dỗ truyền trao, khiến
người hoan hỉ, chẳng dám biếng lười, tôi dãi gió dầm mưa tiếp dẫn Phật tử,
bố thí vô uý, chẳng biết oán than hối hận. Tôi đem pháp hỉ "tha thọ dụng"
chuyển thành thiền duyệt "tự thọ dụng". Tôi đem sở đắc "tự thọ dụng"
chuyển thành lợi ích "tha thọ dụng". Nhiều năm nay, luôn luôn biết rằng vì
người khác làm việc giống như là làm công tác cho chính mình, do đó hứng
thú càng nhiều, ngay cho gặp phải khó khăn trở ngại, cũng chẳng hề thối
tâm đổi ý. Dầu bệnh tật nhiễm vào người, cũng vẫn công tác như thường, vui
với việc này chẳng mệt.
Mấy năm trước, chân tôi bị té gãy, nhiều
tiếng quan tâm nổi lên:
— Sư phụ! Chân của Thầy không tốt, chẳng nên
đi đường nhiều!
Chân tôi đúng là không thể chạy rồi, lại có
tay nè! Người xưa chẳng phải thường nói "Song thủ vạn năng", hai tay vạn
năng sao? Một thoáng mắt, quang âm mấy năm như ngựa trắng qua khe cửa, tôi
chẳng những đi quanh địa cầu, chạy hết mấy vòng, thậm chí vì để trù tính
quỹ xây cất Đại Học Tây Lai, Đại Học Phật Quang, đã viết không dưới một
ngàn trang chữ bút lông, cầm đi bán gây quỹ.
Mấy năm nay, thị lực của tôi ngày càng giảm
sút, bác sĩ từng cảnh cáo tôi, nếu không khéo bảo dưỡng, sẽ có cái lo mất
sáng. Lập tức, bên tai lại có bao nhiêu là dặn dò:
— Sư phụ! Mắt của Thầy không tốt, chẳng thể
phí thần quá!
Mắt của tôi đúng là dùng không trúng rồi,
nhưng lại có miệng nè! Cái miệng rất dễ dàng tạo công đức.
Thời gian mấy năm vùn vụt qua, tôi chẳng
những xem hết hơn ngàn thiên văn cảo, lại chủ trì qua vô số trường giảng
kinh, khai thị.
Nửa năm trước, tim tôi càng đau kịch liệt,
lúc hít vào thở ra thật khó chịu, thật chính cảm nhận mạng người trong hơi
thở, càng biết được chẳng thể tùy tiện nghỉ ngơi, do đó không lúc nào
chẳng nhắc nhở chính mình, tăng mau bước chân hoằng pháp.
Gần đây nhất, tôi làm thủ thuật huyết quản
của tim. Một số đệ tử đến thăm đều nói:
— Sư phụ! Tim của Thầy không tốt, chẳng nên
quá mệt!
Trái tim thịt tuy có tổn chút ít, nhưng tâm
chân như đâu từng có thiếu? Chỉ cần "có tâm", không việc gì chẳng
xong.
☸ Trong công tác có thể nghỉ
ngơi,
trong nghỉ ngơi cũng có thể công tác
Bọn họ thường khuyên tôi: Nghỉ ngơi là để
chạy trên con đường còn dài vời vợi.
Chợt nghe lời này, tợ hồ rất có đạo lí, kì
thực "nghỉ ngơi" hoàn toàn chẳng tất nhiên có thể "chạy trên con đường
trường viễn".
Trên xã hội, một số người dầu chiều xuống đến
giờ ngủ, nhắm hai con mắt, tâm niệm lại không ngừng nghỉ chuyện ban ngày,
nhân đây cũng có người lăn qua lăn lại, cũng có người đêm không yên giấc.
Bình thường lúc nhàn hạ không cần phải nói, nơi cửa sáu căn không ngớt
hướng ngoại phan duyên, chẳng những không thể đạt đến mục đích nghỉ ngơi,
thậm chí lại tăng thêm khá nhiều vô minh phiền não, làm nhiễu loạn tinh
thần lúc làm việc. Do đó nghỉ ngơi chân chính, phải là dừng hết sáu căn,
dứt thôi vọng niệm. Nếu có thể như thế thì chân tâm hiện tiền, tự nhiên có
thể tiến một bước khéo dụng căn trần, chuyển thức thành trí, cứu khắp hữu
tình trong thiên hạ, làm đến chỗ "chẳng nghỉ ngơi mà nghỉ ngơi, nghỉ ngơi
mà chẳng nghỉ ngơi". Như Bồ Tát Đại Thế Chí "thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm
tương tục, được Tam-ma-địa, đây là đệ nhất", thành tựu niệm Phật viên
thông; mà Bồ Tát Quán Thế Âm "Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng quên
cảnh, chỗ nhập đã lặng, hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh". Nên có
thể "ngàn chỗ mong cầu ngàn chỗ ứng, biển khổ thường làm thuyền đưa
người".
Tôi tự thẹn hành trì cạn cợt, không có công
lực thâm hậu như thế. Nhưng vì có thể giữ gìn một khối tâm linh an tĩnh,
do đó tôi có thể đồng thời nghe chuyện, hỏi đáp, xem thư, ăn cơm… mà lại
có thể gọi mỗi một người gần bên. Lúc ghi âm tiết mục truyền hình, tôi
cũng có thể ở tình huống không đủ bản văn, không xem đồng hồ, an nhiên nói
ra một tắc pháp ngữ, câu chuyện, lại đúng giờ kết thúc không sai.
Sở dĩ tôi thường nói: Chỉ cần người bận, tâm
không bận, trong công tác có thể nghỉ ngơi, trong nghỉ ngơi cũng có thể
công tác. Có câu: "Chốn chốn không tung tích, oai nghi ngoài thanh sắc";
vô trụ sanh tâm, tùy duyên ứng vật, tuy ngàn cân đặt trên đỉnh đầu, cũng
có thể nâng nặng như nhẹ.
Ý nghĩa đời người ở chỗ sáng tạo sanh mạng vũ
trụ tiếp nối, còn chỗ có thể "chạy trên con đường dài xa" hay không đều
không trọng yếu. Như Tăng Triệu tuy mất sớm, Triệu Luận của Ngài vẫn là
sách quý trọng yếu thời kì đầu tiên Phật giáo truyền vào Trung Quốc. Thái
Ngạc tuy chỉ sống gần tuổi ba mươi, nhưng vì ông ta phấn đấu không kể thân
mạng, nêu rõ âm mưu của Hồng Hiến đế chế, khiến ức vạn nhân dân khỏi được
vận nguy của quân chủ chuyên chế. Móc sớm tuy dễ tan nhưng nó đã thấm
nhuần mặt đất, ánh dương mùa đông tuy ngắn ngủi, nhưng làm tan được băng
sương. Chúng ta nên hăng hái, một hơi thở vẫn còn kịp thời gắng sức, ngọn
lửa thiêu đốt sinh mạng đã bùng lên, để lại ánh sáng rực rỡ, chiếu rọi
người sau, vì tương lai có lúc nghỉ ngơi vĩnh viễn.
Cổ Thánh, tiên hiền hạnh nguyện tinh tấn,
chẳng chịu dễ dàng đánh mất thời gian, thường dùng kiên trì đến sát-na
cuối cùng. Như đại sư Đạo An ở trong toà thuyết pháp lớn đứng tịch, đại sư
Huệ Viễn ở trong tiếng niệm Phật mà vãng sanh, đại sư Huyền Trang viên
tịch khi đang cầm bút dịch kinh, thiền sư Phật Ấn ngồi nhập diệt lúc đang
tiếp dẫn tín đồ, phong thái cử chỉ của các Ngài thanh thoát tự tại như
thế! Nay tôi đã bảy mươi mà biết mệnh trời, sanh diệt vinh suy đối với tôi
như mây nhạt gió nhẹ, như chỗ nói: "Có cái chết nặng như Thái Sơn, có cái
chết nhẹ tựa lông hồng". Nếu có thể có phước báo này, tại lúc công tác
tinh tấn mà lặng lẽ ra đi, cũng chẳng là "đắc kì sở tai!", ý nghĩa phi
phàm!
Bồ Tát thường tinh tấn
chẳng nghỉ ngơi
Chết chóc mạng chung, bề mặt nhìn thì là chỗ
cuối cùng của đời người hướng đến. Kì thực không phải một xong trăm xong,
lúc đại hạn đến, căn thân chúng ta tuy mục nát tan diệt, nhưng tâm thức
vẫn theo nghiệp lực mà lưu chuyển năm đường. Chúng ta là phàm phu tục tử
từ vô thuỷ kiếp đến nay, muôn sống ngàn chết, ngàn sống muôn chết, hoặc
thai trâu bụng ngựa, hoặc địa ngục ngạ quỷ, đâu từng ngừng nghỉ? Nếu người
ngu chẳng biết, sát trộm dâm vọng, không gì chẳng làm, đời này cố nhiên sợ
hãi chẳng an, đời sau lại phải chịu hết khổ báo. Thiền sư Quy Sơn rất là
vĩ đại, phát nguyện đời sau làm trâu, phục vụ đại chúng. Đức Phật lúc tu
hành ở nhân địa, nương sức thệ nguyện lớn, nhiều đời thọ sanh vào phi đạo,
dùng thân cầm thú để độ thoát vô lượng hữu tình, lại là bi nguyện vô tận.
Tôi tuy tài đức cạn mỏng, nhưng tự nghĩ có một tấm lòng từ bi bất diệt,
xin nguyện đời đời kiếp kiếp đến cõi Ta-bà này xuất gia làm Tăng, trọn
không ngơi nghỉ hoằng pháp lợi sanh.
Thiền sư Hoàng Bá nói rất hay:
"Ông trên một niệm tâm có tánh quang thanh
tịnh là Phật Pháp thân trong nhà ông.
Ông trên một niệm tâm có ánh sáng không
sai biệt là Phật Báo thân trong nhà ông.
Ông trên một niệm tâm có ánh sáng chiếu
soi là Phật Ứng thân trong nhà ông."
Chân như Phật tánh, người người sẵn đủ, chẳng
nhờ cầu bên ngoài, chúng ta chẳng cần cầu xa xôi kiếp sau an lạc hưởng
phước, cũng chẳng cần khát vọng chư Phật Bồ Tát thị hiện cứu độ, chúng ta
tự mình phải nỗ lực khai mở Phật tâm tự tánh sẵn tự đầy đủ, phát nguyện
làm ngàn trăm ức Hoá thân của chư Phật ba đời, bắt chước Bồ Tát Thường
Tinh Tấn, tinh thần ma-ra-tông của Bồ Tát không nghỉ ngơi, chạy trên đường
thế gian, trọn không dừng bước cứu khắp mười phương, tự độ, độ người. Chỉ
cần anh nghĩ tương lai sẽ có lúc nghỉ ngơi vĩnh viễn, sao không sấn lên
hiện tại tinh tấn nỗ lực?
Người, chẳng sợ phạm lỗi,
mà sợ không có dũng khí nhận lỗi.
Giữa người và người, chỉ
có mạnh dạn nhận lỗi, mới không lỡ mất cơ hội tốt, mới có thể nơi nơi an
hoà vui vẻ.
Thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, có một chàng
trai có tánh cố chấp cỡi xe ngựa, đến phương Bắc, giữa đường gặp một ông
bạn già lớn tuổi.
Người bạn hỏi chàng:
— Anh định đi đâu?
Chàng trai đáp:
— Tôi muốn đến nước Sở.
Người bạn nghi ngờ hỏi:
— Nước Sở ở phương
Nam, anh đi hướng Bắc, là chạy
ngược đường rồi!
Chàng trai biện bác:
— Không sao! Ngựa của tôi rất giỏi.
Người bạn không cách gì giải thích, lại hỏi:
— Cho dù là một con ngựa hay, ngày đi ngàn
dặm, nhưng lầm phương hướng, lại là không có biện pháp nào đạt được mục
đích!
Chàng trai chẳng cho là đúng, nói:
— Bác chẳng cần phí tâm, tôi có đủ lộ phí.
Người bạn nói:
— Tiền đi đường anh có nhiều đi nữa, nhưng
phương hướng của đường rốt cuộc không đúng, anh làm sao đến nước Sở được?
Tuy người bạn mấy phen ngăn cản, mà chàng
trai này vẫn kiên trì giữ ý mình, nói:
— Không hề gì! Tôi lại có một xa phu giỏi
đánh ngựa.
Tóm lại, mặc tình người bạn phân tích giải
thích thế nào, chàng trai vẫn y như cũ chấp cứng lí do của mình, "chết
chẳng nhận lỗi"! Đây chính là người ngu si, người chấp trước!
Chúng ta không nên chỉ cho đây là một câu
chuyện mà thôi. Kì thực, việc như thế cũng thường phát sinh trong xã hội
hiện đại. Tôi từng trông thấy một người mẹ rất từ ái, nhân vì cô con gái
sắp đi du lịch vùng núi lạnh lẽo, sợ cô ta rét cóng, nên bảo cô rằng:
— Cục cưng, chỗ con đi rất lạnh, chẳng nên
chỉ lo chưng diện, cần mang nhiều quần áo nhen!
Cô gái đáp:
— Không cần đâu, lúc lạnh, tùy tiện đến đâu
cũng đều có thể mua một cái áo lông.
Người mẹ không yên lòng, nói:
— Nơi hàn đới xa xôi, thông thường rất khó
kiếm ra một cửa tiệm.
Cô gái lại nói:
— Không sao đâu! Con có thể kiếm một người để
mượn một cái.
Người mẹ nói:
— Nơi càng lạnh, càng ít người ở, con mượn ở
đâu?
Cô gái nói:
— Vạn nhất nếu quá lạnh không làm sao được
thì con lập tức trở về, không được sao?
Chẳng kể người mẹ dặn dò cặn kẽ, ân cần
khuyên nhủ thế nào, cô con gái cũng chẳng chịu dự bị nhiều y phục mang
theo một chút.
"Chết chẳng nhận lỗi" là bệnh chung của một
số người. Do đó, "nhận lỗi, cần có dũng khí". Tôi suốt đời đều đem câu nói
này làm bài minh khắc bên phải ghế ngồi của mình.
Năm 1971, tôi định đem kiến trúc Hội Quán
Triều Sơn liệt vào công trình thứ nhất của Phật Quang Sơn. Vì tôi cho
rằng, Phật giáo hiện đại nên kết hợp làm một thể với đại chúng trong xã
hội, có thể cung cấp chỗ ăn ở tốt, mới có thể làm tín đồ an tâm vui vẻ
triều sơn lễ Phật, do đó kiến nghị thiết lập một Hội quán Triều Sơn lộng
lẫy đẹp đẽ. Không ngờ, rất ít tín đồ ủng hộ kiến thiết này, mắt xem công
trình không cách gì tiến hành. Một hôm, pháp sư Từ Huệ thưa với tôi:
— Tín đồ Đài Loan căn bản là không hiểu cái
gì gọi là "Hội quán Triều Sơn". Họ chỉ mong có điện đường để lễ Phật, Sư
phụ nên xây Đại Hùng Bảo Điện trước mới đúng.
Tôi vừa nghe, biết được lời cô ta rất hợp lí,
nên lập tức sửa ngay. Nhân đây những kiến trúc sau này của Phật Quang Sơn
một mạch hết sức thuận lợi. Nếu như tôi chỉ dựa vào lí tưởng, chẳng có
"dũng khí nhận lỗi", lại làm sao có phương tiện sau này?
Tôi đề xướng Tăng đoàn dân chủ, bắt chước lối
ba phen yết-ma thời Phật. Mỗi lần mở hội tại Phật Quang Sơn, khó khỏi có
một số ý kiến bất đồng giữa đồ chúng và tôi. Nhưng chỉ cần hợp lí, tôi lập
tức tự mình sửa đổi, do đó tôi tự hứa là một người "tùng thiện như lưu"–
theo điều thiện như nước xuôi dòng; rất sợ đồ chúng cho là Sư phụ cũng là
một người "chết chẳng nhận lỗi". Càng lâu, người trước chẳng dám chống
trái, chỉ biết vâng vâng dạ dạ, không có suy nghĩ sâu xa. Người sau thì
noi theo bắt chước, chỉ biết chỉ trích người khác, chẳng thể kiểm thảo
chính mình. Cứ kiểu này, Phật Quang Sơn làm sao có thể có sáng kiến đột
phá, vì chúng tạo phước được?
Vì tôi có kinh nghiệm dạy học trò nhiều năm,
hễ là người có thể tiếp nhận dạy dỗ -"mạnh dạn nhận lỗi"- thì phần nhiều
tiến bộ rất mau. Còn người việc gì cũng cho mình có lí toàn bộ -"chết
không nhận lỗi"- phần nhiều dẫm chân tại chỗ. Tôi thường khuyên một số đồ
chúng không giỏi về học vấn, cần nên học tập kỹ thuật khác cho sớm, nhưng
bọn họ lại giữ chặt ý kiến của mình, chẳng chịu nhận là sai, tốn bao nhiêu
năm dùi mài học vấn, mới phát hiện lầm đường, sau hối chẳng kịp. Lại có
một số đồ chúng làm việc không thể nhìn khắp đại cuộc, lười biếng chẳng
hoà chúng, được răn nhắc nhiều lần, lại "chết chẳng nhận lỗi", rốt cuộc
chẳng có một đơn vị nào muốn nhận họ làm việc. Lại có một số đại chúng sau
khi bỏ đi, tự biết có lỗi, mà không có dũng khí nhận lỗi trước đại chúng,
chỉ đành lưu lãng bên ngoài. Tuy tôi có lòng khoan dung tiếp nhận, nhưng
cơ bản là pháp tắc của tông môn, cũng chỉ đành thở dài mà chịu.
Nhân đây, sự bình thuận an nguy của một đời
người, thực ra quan hệ mật thiết thập phần ở chỗ mình có nhận lỗi hay
không. Thậm chí từ xưa đến nay, bất kể một quốc gia hay một đoàn thể,
người chủ sự cho đến phần tử tạo thành có thể nhận lỗi hay không, thường
thường lại là then chốt của sự thành bại được mất. Như Hạng Vũ phải nuốt
hận thất bại trong cuộc tranh hùng giữa Hán – Sở, chính là vì ông ta cứng
cỏi độc đoán, do đó mọi người xa lánh, cuối cùng tự vẫn ở Ô Giang. Trước
lúc lâm chung vẫn "chết không nhận lỗi", còn than thở: Trời quên ta rồi!
Trời quên ta rồi!
Chu Du là danh tướng thời Tam Quốc, lòng dạ
hẹp hòi, đố kỵ người hiền và người tài, làm mất cơ hội "liên Thục diệt
Nguỵ", đã chẳng biết phản tỉnh, ngược lại còn cảm thán: "Đã sanh Du sao
còn sanh Lượng", cuối cùng đành chết sớm khi tuổi trẻ tài cao.
Xem lại Lưu Bang và Tào Tháo, một người nguồn
gốc quê quán không rõ ràng, một người bị đời chê là gian hùng, nhân vì có
thể nghe theo lời can gián, sửa đổi lỗi lầm mà thành tựu nghiệp bá.
Tiên sinh Y Trọng Dung từng làm Bộ trưởng
Kinh tế của Trung Hoa Dân Quốc, năm 1950 giữ chức Ủy viên Chủ nhiệm Hội
Ngoại Mậu (mậu dịch với ngoại quốc) từng ban bố biện pháp Trung Dược
Hạn Khu Thám Cấu (thăm dò việc mua hạn chế thuốc Bắc). Ba ngày sau,
phát hiện tin tức thương mại phán đoán là sai lầm, lập tức thủ tiêu lệnh
trước, và tập họp báo chí, công khai xin lỗi dân chúng. Lúc đó có ký giả
hỏi ông:
— Ông như thế chẳng phải là sáng ra lệnh, tối
cải chính ư?
Ông thẳng thắn đáp:
— Biết lầm mà không chịu sửa, làm sao được?
Do Y tiên sinh thật sự cầu đúng, có phong độ
cải chính kịp thời, lúc ấy đã đưa kinh tế Đài Loan phát triển mau chóng,
đến nay vẫn còn nhiều người nhớ mãi không thôi.
Gần đây nhất, báo chí đăng tải về tiên sinh
Nghiêm Trường Thọ, kinh doanh Á Đô Phạn Điếm có thành tích rất lớn, mọi
người trong ngoài đều nhất trí khen ngợi, được mời đến Viên Sơn Phạn Điếm
ở Đài Bắc để làm Tổng kinh lí. Lúc ấy, ông rất phấn khởi, rất mong mình có
một phen triển vọng. Nhưng không bao lâu ông bèn đệ đơn từ chức, vì nhân
viên công tác không cách gì sửa đổi tập khí uy quyền thời đại, "chết chẳng
nhận lỗi", phối hợp gian nan, Nghiêm tiên sinh mắt thấy không cách cải
tiến, chỉ đành rũ áo ra đi.
Điều này đã nói rõ: Nhận lỗi cần có dũng khí.
Có thể mạnh mẽ nhận lỗi mới không để mất cơ hội phát triển.
Nhớ ba mươi năm trước, nhân con đường từ Đài
Bắc đến Phật Quang Sơn xa xôi, tín đồ phương Bắc nhao nhao thỉnh cầu lập
đạo tràng tại Đài Bắc, để cho họ thường thường nghe kinh lễ Phật. Tôi cũng
rất mong làm thoả mãn nhu cầu của mọi người, do đó nghe ngóng khắp nơi xem
có đạo tràng nào thích hợp. Ban đầu chúng tôi xem khoảnh đất ở đường Trung
Dân Quyền phía Đông đối diện với Thiên Cung. Qua sự bàn bạc với một vị
từng trải, tuy giá tiền một bãi đất không bằng một phần ba giá ở chợ,
nhưng Phật Quang Sơn lại gánh không nổi, kết quả để mất cơ hội này. Về
sau, trên đất này mọc lên một toà nhà lớn, mỗi lần ngồi xe ngang qua, lòng
tôi nổi lên sự tiếc nuối, hổ thẹn vô cùng với lòng thành khẩn của tín đồ,
nhân đây tôi phát nguyện một ngày nào đó mình có đủ năng lực, nhất định
phải xây dựng một đạo tràng hiện đại hoá rộng lớn tại Đài Bắc. Về sau, tín
đồ nghe được việc này, nhận thấy tôi đã vì không thể cấp cho mọi người một
chỗ tốt để lễ Phật mà nhận lỗi, buồn bực, liền kêu gọi mọi người, hiệp trợ
bỏ tiền của ra. Năm 1994, cuối cùng mua được mấy tầng lầu trong một toà
lầu lớn, tập hợp Đạo Tràng Đài Bắc, Tổng Hội Trung Hoa Phật Quang Hội,
Phật Quang Duyên Mĩ Thuật Quán, Phật Quang Duyên Trích Thuỷ Phường vào một
chỗ, thực hiện bốn lí tưởng về kiến trúc Phật giáo hiện đại mà tôi đã ôm
ấp nhiều năm nay – truyền thống và hiện đại kết hợp, Tăng chúng và tín đồ
cùng có, tu trì và huệ giải cùng trọng, Phật giáo và nghệ văn hợp nhất.
Cuối hạ năm 1992, gió bão ập đến, nước lũ
cuồn cuộn dâng, mưa như trút nước thành thiên tai, làm cho phía Nam Đài
Loan thành một biển nước mênh mông, đất đá núi Đông của Phật Quang Sơn
cũng bị trôi mất không ít. Khi ấy tôi đang ở nước ngoài, nghe tin vội vã
trở về, nhìn đến đất đá bị sụt lở và ruộng nương tan hoang xơ xác, thật là
một trận thương cảm, nhưng tôi chẳng hề trách móc chức sự chủ sự không
trông nom đầy đủ, phòng giữ chẳng nghiêm, ngược lại chiêu tập đại chúng,
rồi bảo họ:
— Lần này xảy ra việc ngoài ý muốn là tại tôi
lúc đầu không có dụng tâm làm bờ tường ngăn cho tốt, để thường trụ phải
chịu tổn thất.
Đồ chúng nghe rồi đều đồng thanh trả lời:
— Đây không phải là ngăn tường đất mà ổn cố
được, mà là chúng con không tùy thời thanh lí đường nước.
Thầy trò chúng tôi hỗ tương nhận lỗi, mọi
người đồng tâm hiệp lực ra sức cứu chữa, thậm chí mời công binh thuộc Quân
Đoàn Thứ 8 nghiên cứu công trình đại địa, lên núi giúp đỡ, rất mau chóng,
Đông Sơn lại khôi phục sự an tĩnh tốt đẹp ngày xưa. Từ việc này, tôi thầm
thầm cảm được: Một cá nhân cần chịu "nhận lỗi", mới có người vui lòng giúp
đỡ. Nhân đây, chỗ nói rộng kết duyên lành, không hẳn hỏi han ấm lạnh, cởi
áo bưng cơm là đủ, mà lại nên ở lúc nhận lỗi, có thể làm đến "nghiêm để
trách mình, khoan để đãi người".
Trung Quốc thời xưa khi có tai hoạ, Hoàng đế
bèn hạ chiếu kể tội mình để cầu vỗ về lòng người. Ngày nay tại thời đại
dân chủ, ở Tây phương cũng có tình huống tương tợ.
Triết học gia Socrate lúc lâm chung, vẫn nhớ
mãi không quên đã thiếu người hàng xóm một con gà mà không cách gì trả
nổi. Mãi đến ngày nay, chẳng có ai phê bình Socrate là nghèo túng, ngược
lại ca ngợi ông là một triết gia thản nhiên, chân thật ngay thẳng. Ba thế
kỉ trước, vua A-dục thống nhất toàn cõi Ấn Độ đã hướng về một Sa-di nhỏ mà
xưng tội. Tự xưa đến nay, không ai chê cười A-dục Vương là bậc trên ngôi
Cửu ngũ mà xin lỗi, ngược lại đồng thanh khen ngợi mĩ đức mạnh dạn nhận
lỗi của ông. Do đó, nhận lỗi không những chẳng làm mất thân phận của chính
mình mà ngược lại có thể được tôn trọng nhiều hơn. Chỉ đáng tiếc rất nhiều
người không rõ ràng được sự áo diệu của nó, mà làm việc ngang ngược, chẳng
chịu cúi đầu, cuối cùng chính mình thành người thua cuộc lớn nhất.
Nhớ lại hơn ba mươi năm trước, lúc xây dựng
lại chùa Lôi Âm lần đầu, nhiều lần thương lượng với nhà dân ở trước cửa để
họ bán đất dời đi nơi khác, tiện cho việc chỉnh thể quy hoạch đạo tràng,
tuy nhiều phen đề xuất phương án tốt đẹp, chủ nhà vẫn trước sau chấp chặt
ý kiến của mình, không chịu lợi ích người khác. Về sau tín đồ nhân lúc tu
chung, ra vào bất tiện cũng nhiều lần khuyến cáo nhỏ nhẹ, nhưng đối phương
vẫn khăng khăng chẳng chịu nhượng bộ. Kết quả bị mọi người oán trách, thật
là tổn mình mà bất lợi cho người.
Phật Quang Sơn khai sơn không bao lâu, mời
một vị dân làng ở kế bên làm một ít việc vặt cho chúng tôi. Tôi từng cấp
cho ông ta một ít tiền, nhờ ông ta mua một ít giống cây ăn quả trồng chung
quanh tự viện, đâu dè ông ta mua xong, trồng trên đất của mình, rồi lại
lén sửa đường nước, đem nước dùng của chùa tưới ruộng vườn của mình, còn
khoe với người, đất của ông là đất hoàng kim. Trong lòng tôi không khỏi
nghĩ đến: Cây trái của anh như vàng, đều do Phật Quang Sơn mà có, đâu có
trồng cái gì được mà cho là tươi tốt?
Về sau, tôi vì muốn cất Đại Hùng Bảo Điện,
bèn hỏi mua đất của ông ta. Đất của ông ta ngày lên giá ba lần. Tôi hỏi:
— Tên của anh là Chúc Thành, vì sao không có
thói quen "trợ thành".
Ông ta cứ nhơn nhơn đáp:
— Mỗi cá nhân đều muốn vì mình mà tính toán,
tôi không trợ thành là hẳn rồi.
Kết quả vì ông ta làm việc gì cũng không trợ
thành, nên mọi người đều ghét, nhất trí quyết nghị không dùng ông ta nữa.
Về sau nghe nói cả người nhà cũng không đếm xỉa đến ông ta. Đây chính là
hậu quả không có duyên với người.
Rất nhiều người hỏi tôi, vì sao đến đâu cũng
được người hoan nghênh? Tôi tự biết chỗ sở trường lớn nhất của đời mình
chính là có thể rõ lí, chịu nhận lỗi, nhân đây chẳng kể lớn nhỏ quý tiện
đều thích ở với tôi.
Có một năm, tôi dẫn phái đoàn đến Ấn Độ bái
Phật, giữa đường thỉnh mua một tượng Phật bằng đá, nhờ một đoàn viên là cư
sĩ Thái Thương Châu mang về Đài Loan. Việc xong mới phát giác tượng đá này
nặng một trăm ký, chẳng biết cư sĩ Thái Thương Châu làm sao xoay sở? Nghĩ
đến mình lúc đó chỉ biết thỉnh mua, lại hoàn toàn chẳng xét đến người khác
vận chuyển cay đắng, tự nhiên lòng thầm xin lỗi. Về sau tôi lúc nào cũng
đến tiệm bánh mì Á Châu tại Thiện Hoá mua bánh mì, để bù đắp lỗi vô tâm
của mình. Thái cư sĩ nhiều năm nay, một thầy một đạo, hộ trì Phật Quang
Sơn, tuy không phải là vì tôi thường mua bánh mì cho ông ta, nhưng vì tôi
có thể mạnh dạn nhận lỗi, tin rằng tình đạo giữa thầy trò gắn bó nên cũng
có chỗ trợ giúp dài lâu. Đến nay tượng Phật này được đặt trong Bảo Tàng
Quán Phật Quang Sơn cho mọi người chiêm ngưỡng. Nay Thái cư sĩ ở cõi Phật
có biết thì sẽ tha thứ lỗi không biết của tôi.
Giác Mục theo học tại Mĩ từ nhỏ đến lớn, sau
khi tốt nghiệp Đại học Kiến trúc ở Đức, theo tôi xuất gia về đến Đài Loan,
một lòng định đến Tòng Lâm Học Viện Phật Quang Sơn nghiên cứu Phật học,
gặp đúng lúc Phật Quang Sơn xây cất Đại Học Nam Hoa, cần sự chuyên môn của
anh ta, do đó muốn anh ta trước tiên đến chỗ trù bị Đại học để trợ giúp.
Chỉ nhìn thân thể ốm gầy của anh, bôn ba Nam Bắc không dừng, lúc thì đến
Đại Học Nam Hoa ở rừng lớn Gia Nghĩa xem xét tiến độ thi công, lúc thì đến
Đại Học Phật Quang ở suối đá Nghi Lâm để giải quyết trạng huống công
trình. Tuy anh ta bày tỏ tâm tình nguyện như thế, nhưng tôi lại bất nhẫn,
do đó mỗi lần thấy anh về núi, đều phải lưu tâm vồn vã đến anh một chút,
cũng cho là một lối biểu lộ lòng đền bù, đâu ngờ lại khiến anh ta càng ra
sức công tác, như nay anh ta đã là Phó chấp hành Trưởng hội quỹ Tịnh Độ
Văn Giáo.
Xuất gia học đạo tròn sáu mươi năm đến nay,
ứng sự tiếp vật, khiến tôi ngộ ra cái đạo lí làm người:
"Anh đúng tôi sai,
anh tốt tôi hư,
anh lớn tôi nhỏ,
anh vui tôi khổ".
Tôi chẳng những đem bốn câu kệ này treo ở bên
miệng để giáo dục đồ chúng, mà lại thường dẫn dùng một câu chuyện để nói
rõ đạo lí đó:
Ngày trước có một nhà họ Trương và một nhà họ
Lí ở sát cạnh nhau. Nhà họ Trương thường gây gổ nhau không dứt, họ Lí lại
hoà mục tương kính. Một hôm ông Trương hỏi ông Lí:
— Vì sao nhà ông chỗ nào cũng vui vẻ sung
mãn, nhà tôi ngày ngày cứ y như bãi chiến trường?
Ông Lí trả lời:
— Bởi vì nhà ông đều là người tốt, còn nhà
tôi đều là người xấu.
Ông Trương không hiểu, hỏi lại:
— Lời này là sao?
Ông Lí đáp:
— Ví dụ như ở nhà tôi, nếu có người làm vỡ
tách trà, nhất định có người vội vàng nhận lỗi: Tôi thật tệ quá, đặt chén
trà quá gần mép bàn, làm anh bị ướt cả người, tay anh có bị sao không?
Người làm vỡ tách trà cũng vội vàng nói: Không sao! Không sao! Tại tôi vô
ý, xin lỗi, đã khiến anh hết hồn!
Nhưng, việc này nếu xảy ra ở nhà ông thì
người làm vỡ sẽ nói:
— Ai đây thật chẳng có đầu óc, đem tách trà
để gần mép bàn thế này, hại ta toàn thân ướt hết?
Một người khác lập tức cãi lại:
— Chính tôi để tách trà, thì sao? Tự anh
không cẩn thận, lại muốn đổ cho người khác!
Cứ thế anh một lời, tôi một tiếng, mọi người
đều chẳng nhận lỗi, đương nhiên là không có an ninh.
Em trai pháp sư Y Không là cư sĩ Trương Tấn
Huy ở Phổ môn Trung học Giáo thư có nuôi hai đứa con thiên tư thông huệ,
hoạt bát đáng yêu. Một hôm, chính lúc ông vì sự dạy dỗ con mà mệt óc, nghe
tôi kể lại chuyện này, thấy rất có đạo lí, lập tức về nhà ứng dụng. Trên
bàn ăn, đứa con than thở cơm rau ăn chẳng ngon. Trương cư sĩ lập tức áy
náy hiện lên mặt nói:
— Đều tại cha vô dụng, cha không kiếm được
nhiều tiền, không thể cung cấp cho các con đời sống thật tốt, cha xin lỗi
các con!
Mấy đứa con nghe cha nhận lỗi, lại cảm động,
lại thẹn thùng, cả hai đều nhất trí nói:
— Cha rất vĩ đại, tụi con muốn học cho giỏi,
về sau sẽ dâng món ngon nhất để trả hiếu cho cha.
Có thể thấy, nhận lỗi không phân lớn nhỏ, chỉ
ở chỗ chúng ta có đủ dũng khí hay không. Người có thể nhận lỗi chân thành,
mới có thể ở khắp nơi hoà hợp an ổn, một bề hoan hỉ.
Phật giáo mười phần chú trọng tu trì "nhận
lỗi", ngoài các pháp môn Sám hối ra, đạo tràng tòng lâm tuyển chọn trụ
trì, cũng lấy sự cúng dường đại chúng, có mĩ đức "dám mạnh dạn nhận lỗi"
hay không để làm một trong những tiêu chuẩn. Vì người mạnh dạn nhận lỗi
mới có thể đem thân giáo ra lãnh chúng, dạy chúng, làm chúng phục,
hoà hợp chúng.
Như thiền sư Pháp Ngộ đời Tấn là Trụ trì chùa
Trường Sa ở Giang Lăng. Một hôm, nhận gậy phạt của Sư phụ là đại sư Đạo An
gởi đến, lập tức lãnh ngộ: Đây là Sư phụ răn nhắc lỗi Sư trước đó không
lâu đã xử phạt sơ sài một chú Sa-di uống rượu mà không dời chỗ (thiên
đơn). Sư lập tức đánh chuông họp chúng, thành kính thắp hương trước gậy
trang có hình phạt, biểu thị kính lãnh lời dạy của Thầy, rồi nằm xuống
đất, sai Duy-na lấy gậy đó đánh Sư ba cái, và khóc lóc tự trách. Sau đó,
hai chúng Tăng tục càng thêm tinh tấn đạo nghiệp. Trong ngữ lục thiền môn
lại đầy dẫy công án giữa thầy trò dùng hét mắng để luận đạo. Chẳng những
học trò lúc lỗi lầm có đủ mạnh dạn để nhận tội, mà ngay nếu ông thầy chẳng
đúng cũng hào hiệp cúi đầu xin lỗi. Chính vì vậy, thiền tông có thể đem
đạo phong hoạt bát linh lợi mà lưu truyền lâu xa, những câu "Chẳng sợ niệm
khởi, chỉ sợ giác chậm", "Buông dao đồ tể, ngay đó thành Phật". Người ta,
chẳng sợ phạm lỗi, chỉ sợ không có "dũng khí để nhận lỗi". Trong thời đại
khai phóng ngày nay, thường thấy sách vở ngành nghề và các nhân sĩ nổi
tiếng thường khuyến khích mọi người "Tiến lên, cần có dũng khí", "Biểu
đạt, cần có dũng khí". Tôi thường nghĩ có nên đề xướng tinh thần "Nhận
lỗi, cần có dũng khí" hay không? Vì chỉ có giữa cha mẹ với con cái, giữa
thầy trò, giữa chủ tớ, giữa quan và thuộc hạ đều có thể có đủ mĩ đức "mạnh
dạn nhận lỗi", đất nước chúng ta mới có thể tiến bộ phát triển thêm, xã
hội chúng ta mới thuận hoà an ổn.
Dùng lửa dừng lửa, đổ nước
nóng để ngưng sôi đều chẳng phải là hành vi đương nhiên. Từ – bi – hỉ –
xả mới là sự tu hành đương nhiên nhất, tài sản quý báu nhất của đời
người .
Nhiều năm trước, một nhà viết tạp chí đến
tôi mượn ba trăm vạn nguyên, tôi không có cách gì đáp ứng. Ông ta liền
viết bài huỷ báng tôi, hàng đệ tử tức cành hông, một số chủ trương dùng
bút để tranh luận, một số yêu cầu tố ra toà. Lúc đó tôi đang hoằng pháp
ở Đài Bắc, nhân đây đến chùa Phổ Môn nhóm chúng thường trụ, bảo mọi
người:
— Người khác đối với chúng ta cung kính tôn
trọng, không phải là chuyện đương nhiên, chúng ta phải dũng mãnh vươn
lên để báo đáp. Còn khi chúng ta bị đả kích bị thương tổn, thì phải nhận
rằng đây là lẽ đương nhiên. Vì cha mẹ nuôi nấng ta, thầy tổ giáo dục ta,
xã hội thành tựu ta, quốc gia bảo bọc ta, bình thường chúng ta có nhiều
nhân duyên tốt như thế, nói tương đối, một chút nghịch cảnh trắc trở bất
ngờ như vậy đến, chính là để khảo nghiệm khí độ của chúng ta, có thể làm
phong phú nội lực của chúng ta. Vì sự phá hoại làm thương tổn chán ngắt
này là cái không đánh đổ được một cá nhân. Làm một người chân chính, cần
phải ngăn cho được bát phong từ bốn mặt thổi đến, coi tất cả ngang ngược
đều là lẽ đương nhiên…
Nói một hồi, thấy sự tức giận của đại chúng
đã dịu xuống, tôi cũng thừa cơ hội, tùy duyên lập khoá trình "Tư tưởng
của tông môn", chỉ là đâu ai biết từ chẳng đương nhiên đến đương nhiên,
tôi đã trải qua ít nhiều lịch trình tu chứng, mới có niềm tin và thể ngộ
kiên cố như thế.
Năm tôi mười hai tuổi, sau khi xuất gia ở
Thê Hà Sơn Tự, là một thanh chúng nhỏ tuổi nhất trong chùa, da mặt lại
rất mỏng. Lúc mới bắt đầu, lên lớp nghe chẳng hiểu, xuống lớp cũng không
thích hỏi han. Đã không thể ra ngoài, lại không thể qua lại với người
khác, thơ nhà viết được rồi, không có tiền mua tem, thật không dễ chịu
nổi đến học kì kết thúc. Học viện cho nghỉ, mắt nhìn đồng học vác hành
lí trở về nhà, tôi cũng theo bọn họ đến Đại Hùng Bảo Điện lễ Phật báo
nghỉ, ngay lúc định bước ra cửa chánh điện, thầy tôi là Thượng nhân Chí
Khai hét bắt tôi đứng lại, mắng rằng:
— Đứng lại! Về nhà nào?
Tôi chỉ đành chịu dừng tình cảm nhớ nhung
quê nhà của một đứa bé mới lìa gia đình, cấm túc đóng cửa. Có lúc trong
lòng rất khổ, nhưng nghĩ đi nghĩ lại: Không ai bắt ta xuất gia, chính tự
ta tình nguyện, do đó cũng bèn xem là "đương nhiên" mà tiếp nhận. Đã là
lẽ đương nhiên, vì sao lại cảm thấy khổ?
Từ khi học xong ở viện Luật Học Thê Hà rồi,
tôi lại đến Tiêu Sơn, Kim Sơn, Thiên Ninh… những danh sơn cổ sát để tham
học. Nền giáo dục lúc đó không những là chuyên chế đóng kín, mà còn có
thể nói không tình, không lí. Thường thường quét đất xong, lão sư không
hài lòng, bắt quét nữa. Kiểm tra lại, thấy vài chiếc lá rụng, "không
được" lại phải quét một lần nữa. Ăn cơm no rồi, vị sư kiểm soát đi qua,
bắt anh ăn một chén nữa, anh phải phình bụng mà nuốt, nếu không thì một
cái tát tai sẽ giáng xuống ngay, hoàn toàn không có được một lời tử tế.
Bạn học nói người nọ cố ý tìm tôi để quấy rối, tôi lại biết được đây
chính là giáo dục. Ông thầy chịu dạy, mình mới có cơ hội trưởng thành.
Có trưởng thành mới có tương lai. Do đó, đối với tất cả gậy hét, cho đến
oan khuất, tôi đều nghĩ "đương nhiên mà thôi" để tiếp nhận trọn vẹn.
Cảnh thuận nghịch hễ gặp đều có thể đương nhiên tiếp nhận, sự sáng tối
trong trời đất đều không giống nhau.
Lúc mười lăm tuổi thọ giới, lại chịu đủ thứ
khổ, vừa đến giới trường, giới sư trước hết tìm giới tử để hỏi han tra
xét. Giới sư thứ nhất hỏi tôi:
— Người nào muốn anh đến thọ giới ?
— Thầy con muốn con đến.
— Chẳng lẽ thầy anh không kêu anh đi thọ
giới, thì anh sẽ không đến ư?
Nói xong, cành dương liễu quất như mưa lên
đầu. Đến giới sư thứ hai, ông lại hỏi y như thế, vì đã có kinh nghiệm
lần thứ nhất, nên tôi đáp:
— Tự chính mình con muốn đến.
Đâu ngờ "phạch… phạch… phạch" trên đầu lại
một trận khổ sở:
— Đồ đáng ghét! Thầy không kêu mi đến, mi
lại dám to gan tự mình chạy đến à!
Giới sư thứ ba cũng lại hỏi vấn đề trước.
Lần này kinh nghiệm phong phú, do đó cung cung kính kính trả lời:
— Dạ tự con phát tâm đến, Sư phụ cũng kêu
con đến.
Tự cho là đáp án này phải rất viên mãn, kết
quả, "Ngươi là đồ xảo trá!". Đương nhiên nhận chẳng ít một trận đánh
bừa.
Mang đầu óc đang nổ đom đóm, đến vị sư cuối
cùng ngồi ở trước mặt, tôi không đợi Ngài hỏi, trực tiếp đưa đầu ra,
thưa:
— Lão sư từ bi, Thầy muốn đánh cứ đánh!
Thời kì thọ giới, quỳ nghe khai thị, bị
mắng, bị trách là sự huấn luyện "đương nhiên", thậm chí đến cả cầu tiêu
cũng bị hạn chế, một người nhịn không nổi, giữa đường chuồn mất, cũng có
số người một mặt oán trách càu nhàu, một mặt thọ hết giới kì. Nhưng tôi
nhận rằng những điều này đều là đại từ đại bi của lão sư, do đó đem lòng
cảm ơn, "nghĩ đương nhiên thôi" mà qua được năm mươi hai ngày khó quên.
Năm mười chín tuổi, tôi đến học tại Phật
Học Viện Tiêu Sơn. Nhớ được một vị giáo thọ từng có ý thúc đẩy tôi vào
Học Viện Giáo Dục Quốc Lập để học, tôi cao hứng quá chừng về thưa lại
với thầy, lại bị một trận trách mắng:
— Hỗn láo! Giáo dục Phật giáo không chịu
học, lại đòi ra ngoài nhận giáo dục xã hội cái gì?
Về sau, tuy thầy tôi đưa một sư đệ khác đến
trường này học, nhưng trong lòng tôi không có một chút bất bình, chỉ
biết rằng "đây là lẽ đương nhiên!"
Qua mấy năm về sau, sư đệ rời khỏi Phật
Giáo, tôi mới thầm thầm thể hội sự kì vọng ân cần tha thiết của thầy tôi
đối với mình. Nhân đây lại đem tất cả mài luyện trong quá trình học tập
xem là "lẽ đương nhiên". Có cảm nhận "đương nhiên" là rất nhiều tốt đẹp
vậy!
Lúc đó, Viện trưởng viện Phật Học Tiêu Sơn
là Hoà thượng Tuyết Phiền. Trong khoá học, thầy chưa hề nói với tôi một
câu, lúc nhìn đến tôi cũng đều là hai con mắt sáng quắt như đuốc hướng
về tôi mà nhìn, có người nói: Lão ấy đang trừng tôi, tôi lại biết được
Ngài không phải là người có ác ý; ngay cho như thế, tôi cũng nhận rằng
đây là "lẽ đương nhiên".
Tại giai đoạn học tập, tự mình chẳng biết
gì, thì có tư cách gì yêu cầu thầy phải đối xử tốt với chúng ta? Hoặc
cho nhân vì tôi đối với thầy cung kính nhất như, về sau thầy nói: Trong
bao nhiêu học sinh ở đây, người mà Thầy khen ngợi nhất lại là tôi. Tôi
tự biết mình không tài giỏi gì, ngoài lúc được yêu quý vừa mừng vừa lo
ra, tôi cặn kẽ nhớ lại chuyện trước, rất may mắn cho chính mình lúc ban
đầu, có thể "nghĩa đương nhiên rồi" ở trong giáo dục vô tình vô lí mà
trưởng thành mạnh mẽ.
Hơn mười năm sau, tôi mời pháp sư Chân Hoa
viết bài "Tham học tỏa đàm"[1]
cho báo Giác Thế, trong văn đối với đạo tràng tham học biểu lộ rất nhiều
ý kiến bất mãn, kì thực những con người, sự việc, nơi chốn này tôi đã
trải qua hết rồi, chỉ là lúc ấy đều biết rằng "đây là lẽ đương nhiên",
do đó chưa hề biết nó không tốt, cũng khiến tôi ở trong chỗ biết được
"đương nhiên" mà cảm thấy không có gì bất bình, vì chuyện đó là giáo dục
mà!
Mười năm trường tham học, chớp mắt đã qua,
về sau, tôi cũng làm công tác dạy học, từ giảng dạy Phật học đến dạy về
Quốc văn, từ dạy người xướng tụng đến chỉ đạo viết văn…, trong đó tôi từ
lần này đến lần khác, trong sự ngang bướng của học sinh mà rèn luyện
tánh nhẫn nại và từ bi của mình. "Nghĩ đương nhiên là vậy" điều hoà
phương thức dạy học và tâm thái giảng bài của mình, để mong khế lí khế
cơ, như nay có thể nói là cưỡi xe nhẹ đi đường quen. Từng
có người hỏi tôi về tâm đắc sau nhiều năm dạy học, tôi biết rằng học
sinh cố nhiên là phải tiếp nhận, ông thầy cũng ắt phải cải tiến, hai bên
đều cần thung dung nhẫn nhận chỗ hay của nhau trong lúc dạy và học, nếu
như có thể từ "chẳng cho là đúng" lúc ban đầu, đến "tất cả nghĩ đương
nhiên như thế" cuối cùng. Đây chính là một loại tiến bộ, chính là một
loại thành công.
Thầm cảm thấy làm việc gì nếu cứ tự cho
mình có lí, thì chẳng dễ trưởng thành. Ở quá khứ, có ông thầy ân cần dạy
bảo tôi, như nay đệ tử, tín đồ cũng có lúc không tiếc lời "chỉ giáo".
Đối với việc này, tôi đều "nghĩ đương nhiên vậy" để thừa nhận, vì "Ta
yêu tôn nghiêm (Thầy), nhưng ta yêu chân lí hơn". Trước chân lí, không
có thứ tự lớn nhỏ, cũng không có phân chia tôn ti.
Thẳng đến hiện tại, tôi lại là một mực đem
"tất cả đều là lẽ đương nhiên" ra để tự khích lệ mình, giáo dục đồ
chúng. Trong số đệ tử từng có người hỏi tôi:
— Thầy dạy chúng con nên "nghĩ đương nhiên
vậy" để phục vụ chân lí. Cái gì là chân lí? Là tri thức khoa học kỹ
thuật hiện đại? Hay là mười hai phần giáo trong kinh điển?
Tôi biết rằng điều này đều đúng, nhưng cũng
đều chẳng đúng. Vì chân lí không nhờ cầu bên ngoài, tại trong tự tánh
vốn tự đầy đủ, cái trọng yếu nhất là ắt phải hiểu được sự tôn trọng và
bao dung, nếu không thì ngay cho đọc khắp ngàn kinh muôn luận, học chứa
đầy năm xe, cũng chẳng qua là người nghèo đếm của báu cho người, tự dối
dối người, một mai cảnh giới xảy đến lại là bị ngũ dục trần lao chướng
ngại mê hoặc như thường, có lúc thậm chí trở thành lầm lớn cũng chẳng tự
biết. Tất cả "đương nhiên" đó chính là có thể tâm cảnh nhất như, vật ngã
đều quên.
Lúc còn bé, gia cảnh thập phần khốn khó,
mấy người cậu của tôi tuy so ra giàu có nhưng cũng không có tâm ra sức
tương trợ, tôi một mực biết đây là "lẽ đương nhiên". Sau này tôi đến
Nhân Văn Hội Tuỵ ở Tiêu Sơn học, họ mấy lần nhờ tôi mua dùm bảng vẽ chữ,
nhưng lại không hề đưa tiền, tôi lúc đó nghèo rớt mồng tơi, nhưng lại
nhịn ăn bớt mặc, đem tiền cúng dường Phật sự từng chút từng chút dành
dụm ra, y lời mua dùm. Cứ thế về sau mẹ tôi biết được đau lòng vì tôi
không thôi, tôi lại nhận rằng cho người phương tiện, cho người lợi dụng
đều là "lẽ đương nhiên".
Biệt ly quê hương bốn mươi năm sau, tôi mới
liên lạc được với người nhà. Thân thích lúc ấy đều gởi thơ đòi tôi gởi
Mĩ kim cho họ xây nhà, tiếp theo lại bao nhiêu lần đòi tôi những vật
dụng điện khí, mẹ tôi lấy tất cả, muốn tôi không cần phải bận tâm, mà
tôi trước sau vẫn cho rằng, cho người là biểu thị sự giàu có của
mình, là việc "đương nhiên". Do đó, mỗi lần về Đại Lục, tôi không những
mua đồ tặng bạn bè chí thân, ngay dù vị lão sư, bạn đồng tham, học sinh,
người làng ít quan hệ với mình, tôi đều giúp đỡ biếu tặng.
Xuất gia học Phật, một lòng một dạ độ chúng
lợi sanh, không nghĩ đến khoác cà-sa vào sự càng nhiều, rời Phật Học
Viện Tiêu Sơn rồi gia nhập hạnh đàn (杏壇) lại vô cớ bị bên này cho là đặc
nhiệm của bên kia, lại bên kia cho là gián điệp của bên này, luôn luôn
bị đến sưu tra gạn hỏi, có một lần lại chẳng hiểu làm sao bắt ngồi tù,
xém một tí bỏ mạng.
Năm 1949 đến Đài Loan, phút chốc lại bị
giam cầm lâu đến hai mươi ba ngày, nạn lớn mà không chết, tuy còn sống
sót lại vẫn bị liệt vào sổ đen, Tôi biết được lúc đó sanh nhằm đời
loạn, một chút oan uổng uỷ khúc này đều là "lẽ đương nhiên", nhân đây
hoàn toàn có thể tâm bình khí hoà. Chỉ có trong lòng cầu nguyện: Mong
đời loạn lạc bất công bất bình này sớm có ngày qua đi. Tôi biết đây cũng
là ý nguyện "đương nhiên" của mình.
Năm 1981, trước lúc quan hệ hai bên chưa
được sáng sủa lắm, tôi ở tiệm cơm lớn Thái Bình Dương tại Nhật Bản, cùng
mẹ già gặp lại lần đầu sau bốn mươi năm xa cách, bao nhiêu tình cảm biệt
ly trong một sát-na đều trào lên tim, tôi đột nhiên cảm nhận rằng trên
thế gian người với người, cho đến giữa nước này với nước khác, ân ân oán
oán, tốt tốt xấu xấu, đều không phải là cái đối lập mà là cộng nghiệp
của mọi người tạo thành, nếu như muốn cho thế giới được hoà bình an lạc
vĩnh cửu, ắt cần phải dưới nguyên tắc hỗ tương bình đẳng, bao dung sự
khác mình, mới có thể đạt thành, thậm chí quốc gia muốn làm được dân chủ
tự do chân chính, cũng phải là ở dưới tiền đề người trong nước kia đây
tôn trọng lẫn nhau, chiếu cố cả tình lẫn lí mới có thể thành công.
Sự buồn vui ly hợp do thời cuộc tạo thành,
cố nhiên phải chịu, xem tình người ấm lạnh của thế gian lại đủ để khám
phá tất cả. Lúc mới đến Đài Loan, y phục lam lũ, đói không no bụng, đã
không người cho ở, cũng không người tán thưởng. Dù cho người khác gây
cho tôi nhiều bất tiện, khiến tôi khó kham đến cùng cực, nhưng tôi đều
xem nó là "lẽ đương nhiên", vì họ với tôi chẳng phải thân, chẳng phải
quen biết, không có lí do để họ để ý đến mình. Đó, tôi xưa nay cũng
không hề ghi hận trong lòng. Một niệm "đương nhiên" tăng tiến công đức,
kì thực đây cũng là việc tu hành trong sinh hoạt.
Năm 1952, hội Phật Giáo Trung Quốc tại Đài
Loan họp lại. Lần đầu cử hành bầu cử, lúc ấy tôi hai mươi sáu tuổi, được
tuyển làm Thường vụ lí sự, vì tôi cho rằng mình trẻ tuổi, chẳng đủ tư
cách, được chọn không cho là "đương nhiên", do đó tôi thẳng thắn quyết
định từ chối, không dè lại đắc tội với hệ phái ở đây. Về sau tôi cứ
chẳng gặp thuận lợi hoài.
Năm 1965, Hội nghị Phật giáo thế giới phục
vụ xã hội cử hành tại Việt Nam, tôi lại được kể là một trong những người
được mời khai hội, theo đó lại tiếp đến hội Phật Giáo Trung Quốc ra
thông tri mời hội nghị trong nước, tôi ngàn dặm xa xôi ngồi xe đêm từ
Cao Hùng đến Đài Bắc, một lão pháp sư trông thấy tôi, lại nói:
— Nếu như ông đi thì tôi không đi.
Tôi chỉ biết đáp lại:
— Lão pháp sư, đương nhiên là Ngài đi.
Ngay lúc tôi xoay mình ra khỏi nghị trường,
Ủy viên lập pháp là tiên sinh Mạc Đạm Vân chận ngang cửa hỏi:
— Thầy lại trở về như thế ư?
Tôi đáp:
— Kì thực, đây là "lẽ đương nhiên".
Nói xong, tôi lập tức trở về
Nam. Lúc đến Cao Hùng, đã là
lúc muôn nhà lên đèn, đêm khuya vắng vẻ.
Đương nhiên! Đương nhiên! Đương nhiên cần
có lực lượng gánh vác!
Năm 1978, Phật giáo đồ thế giới hữu nghị
lần thứ 12, hội tại Đông Kinh, lúc mới họp, Nhật Bản tính bãi bỏ tư cách
dự hội của đoàn Đại biểu Trung Hoa Dân Quốc, Hội Phật Giáo Trung Quốc
xưa nay bài trừ cơ hội làm đại biểu đến dự của tôi, lần này là suy cử
tôi dẫn phái đoàn đến Hội Phật Giáo Nhật Bản kháng nghị. Nhớ được lúc đó
có mấy vị pháp sư Tịnh Tâm, Thánh Ấn và cư sĩ Ông Già Đông, Từ Huệ thì
đi theo phụ trách phiên dịch. Sau một lần trò chuyện, bằng hữu Phật
Giáo Hội Nhật Bản cuối cùng tiếp nhận ý kiến của tôi, vẫn mời đại biểu
Phật Giáo Hội Trung Quốc đến dự. Tôi hoan hoan hỉ hỉ, không thẹn với sứ
mạng, trở về Đài Bắc, không dè Phật Giáo Hội Trung Quốc đã cử một số
pháp sư khác đi dự khai hội. Công lao khó nhọc của chúng tôi hoàn toàn
không nói đến. Nhớ lúc ấy, pháp sư Thánh Ấn bực tức gọi điện thoại nói:
— Chúng ta ở tiền phương gian khổ đấu
tranh, bọn họ lại ở hậu phương ngồi hưởng thành công!
Tôi an ủi ông:
— Đi dự khai hội kì thực rất cay đắng,
không đi tốt nhất…
Năm 1980, Đại hội Hội viên hội Phật giáo đồ
hữu nghị lần thứ 13, cử hành tại Chiêng Mai, Thái Lan. Pháp sư Thiền
Định đại biểu Pháp quốc kiến nghị lên Tổng hội thế giới hội Phật giáo đồ
hữu nghị thế giới, mời tôi với danh hiệu khách quý đến dự, nhưng lúc tôi
xin xuất cảnh thì vì pháp sư Tịnh Lương ở hội Phật Giáo Trung Quốc đem
công văn xếp lại không chuyển báo Bộ Nội Chính, nên đành chết trong
trứng nước không đi được.
Những chuyện chịu thiệt thòi như thế có thể
nói không phải một mà thôi, tôi toàn xem là nghịch tăng thượng duyên "lẽ
đương nhiên" mà ngoài ra lúc hoằng pháp gặp những gian nan trắc trở lại
không thể kể xiết, tôi cũng đều biết là thực tướng Ta-bà "lẽ đương
nhiên", do đó tôi không nhân đó mà hận đời chán tục, oán trời trách
người, ngược lại lấy đây làm gương, rộng kết duyên lành, dựng lập cơ hội
trước. Như nay, hội Phật giáo đồ hữu nghị thế giới, chẳng những từng
trước sau tại chùa Tây Lai Mĩ Quốc và Phật Quang Sơn Đài Loan triệu tập
Đại hội Hội viên lần thứ 16 và 18 mà lại còn tôn tôi làm Hội trưởng Danh
dự. Năm gần đây, sự nghiệp Phật Quang ở Hội Phật Quang Quốc Tế khắp năm
châu cũng đầy đủ nhân duyên, "đương nhiên" thành tựu. Do đó, đem tất cả
xem là "lẽ đương nhiên" đều chẳng phải là sợ việc rút lui mà là ắt phải
trước tiên nhận ra cùng thế gian này, hiểu rõ cách điều chỉnh hoàn cảnh
về sau, theo ngay đó gánh vác, tự mình cải tạo làm nên, chỉ cần có thể
vững trăm nhẫn này, phấn đấu vươn lên, nhất định có thể siêu vượt phàm
trần, được như ý muốn!
Đồ chúng thường hỏi tôi:
— Người đó xấu như vậy, Thầy vì sao lại
muốn giúp hắn?
Vì tôi xưa nay biết rằng rộng rãi để đối
với mình, nghiêm khắc để đãi người không phải là lẽ đương nhiên. Trung
hậu tha thứ mới là lẽ đương nhiên, chỉ cần người này đối với người khác
có một chút chút tốt, ngay cho đối với tôi tình nghĩa bạc bẽo, tôi cũng
nghĩ thành tựu cho hắn. Tôi nhớ lúc nhỏ, có một người tên là Giải Nhân
Bảo ở gần nhà, từng hãm hại cha tôi phải ở tù, về sau một độ thất
nghiệp, sanh hoạt sa sút, mẹ tôi lại chẳng nhớ hiềm cũ, khuyên tôi xin
Ân sư kiếm việc cho anh ta, lúc đó trong lòng tôi không cho là đúng,
nhưng vì mẹ sai không dám cãi, phải vâng lời mà làm. Đài Loan Quang Phục
Hội thắng lợi, Tưởng Công (Tưởng Giới Thạch) dùng đức báo oán, khiến
người Nhật Bản thoát khỏi khổ mất nước diệt chủng. Tôi mới dần dần cảm
nhận lấy lửa dẹp lửa, đổ nước nóng để ngừng sôi đều không phải là hành
vi đương nhiên, từ bi hỉ xả mới là sự tu hành "lẽ đương nhiên" nhất, là
tài sản quý báu nhất của người đời.
Cổ Huấn có nói: "Hủ chi ẩu chi, xuân hạ sở
dĩ sanh dục dã, sương chi tuyết chi, thu đông sở dĩ thành thục dã"[2]
(Nhờ
tươi nhờ tốt, xuân hạ do đó nuôi sống
vậy, nhờ tuyết nhờ sương, thu đông do đó mà chín muồi vậy). Trong
biển người chìm nổi, chịu khổ chịu nạn, oan uổng uỷ khúc đều là "lẽ
đương nhiên", chỉ có kiên trì niềm tin, chúng ta mới có thể tùy cảnh ngộ
mà an, tùy duyên sinh hoạt, tùy hỉ mà làm, tùy tâm mà ở, vì chính mình
kiếm ra đường khai thông. Trên thế gian này, làm cho người hoan hỉ, cho
người có lòng tin cũng đều là "lẽ đương nhiên", chỉ có ôm chặt quyết tâm
này, chúng ta mới có thể chẳng kể được mất, chẳng quản nhục vinh, hết
sức ở mình làm chỗ đáng làm, tất cả đều "đương nhiên" vậy.
[1]參學鎖談
[2]
姁之嫗之,春夏所以生育也,霜之雪之,秋冬所以成熟也.
Nếu như không thường kiểm
tra tâm mình, đâu thể chiến thắng những tâm ma tham, sân, si?
Do đó, kiểm tra tâm mình,
thực tại là công khoá phải làm hằng ngày của chúng ta.
Tiên sinh Trần Lí An, Tiền giám sát viện
trưởng là một Phật giáo đồ thuần thành, tôi từng ủng hộ ông ta tranh cử
Tổng thống. Ông thường giảng Phật pháp trên đài tiếng Hán, chủ đề "Kiểm
tra tâm của mình". Câu này gây ấn tượng sâu sắc đối với tôi, vì tôi suốt
đời ở ngay trong "kiểm tra tâm chính mình" mà có được vô hạn trưởng thành.
Người bây giờ mắc bệnh phải đến bệnh viện
"kiểm tra" thân thể, nhà cửa dột nước phải kiếm người chống dột đến "kiểm
tra", xe hư phải đưa đến ga ra "kiểm tra", cơ khí không chạy phải mời thợ
cơ giới đến "kiểm tra". Mục đích chủ yếu của "kiểm tra" là phát hiện bệnh
ở chỗ nào, mới có thể cải tiến, đến như nội tâm của ta mắc bệnh đã nhiều,
nếu không thường kiểm tra, sao có thể chiến thắng những tâm ma phiền não,
tham, sân, ngu si, kiêu, mạn, tật đố…? Do đó, thường kiểm tra tâm mình,
thực tại là công khoá phải làm hằng ngày của chúng ta.
Thường thường có một số học sinh đến tìm tôi,
bày tỏ những phiền não của họ, tôi đều bảo:
— Trước hết con hãy kiểm tra tâm chính mình.
Đối phương lại nói:
— Người khác coi thường con, con kiểm tra tâm
mình dùng làm gì?
Có đồ chúng cứ không cách nào ở yên, tôi cũng
nói:
— Trước hết ông phải kiểm tra tâm của mình.
Họ trả lời:
— Thầy không bảo con hiểu rõ hoàn cảnh thế
nào, biết người việc cho rõ ràng, lại bảo con kiểm tra tâm mình để làm gì?
Bọn họ không hiểu rằng cần phải kiểm tra tâm
của mình, sẽ cho mình một cơ hội chấn chỉnh bản thân để có thể xử thế được
trôi tròn. Nhưng vấn đề là thường thường người ta không chịu nhận lỗi, mà
trên sự thật, lỗi lầm của người thì rất là nhiều, như ngu muội, thủ lợi,
chấp trước, thành kiến, so đo… Chỉ vì không chịu kiểm tra tâm mình, do đó
mới không cách nào an tâm. Đây thật giống như xe hơi, máy bay bản thân có
vấn đề, mà anh không chịu kiểm tra vấn đề hiện có, không chịu sửa chữa chỗ
hư, trên sự thật xe hơi "đề" không nổ, phi cơ cũng không cách gì bay lên
trời được, anh lại làm gì được?
Gần đây nhất, có một đồ chúng thỉnh tôi chỉ
dạy, vì anh ta ở phân viện đạo tràng khác làm việc không được, tâm lí rất
khổ não, tôi bảo anh ta:
— Đây là vì con không "kiểm tra tâm của mình"
do đó không hiểu rõ được vấn đề của mình, cũng không biết rõ mình sai chỗ
nào, không biết rõ sự tận tình khuyên bảo của Thầy, đương nhiên sự hiểu rõ
Phật pháp lại là việc bàn chẳng nổi.
Chúng ta nên tự hỏi mình một câu trước:
"Chúng ta có hiểu rõ trong tâm mình có gì không?". Phật giáo nói "Trong
tâm có Phật", nhưng Phật trong tâm anh có phát huy tác dụng không? Ngay
lúc giặc trộm trong thân làm trái gây thù, anh có bắt được nó chăng? Ngay
lúc nước trong hồ tâm bẩn thỉu quá thể, anh có biện pháp làm sạch nó
không? Ngay lúc ma quân tham sân si cướp bóc pháp tài trong tâm mình, anh
có vũ khí giới định huệ để chiến thắng chúng không? Ngay lúc khỉ vượn
trong tâm nhảy nhót không dừng, anh có dây nhợ ngũ căn ngũ lực để trói
chặt nó không? Sở dĩ các thiền sư trong quá khứ đã giảng "minh tâm kiến
tánh" là rất có đạo lí, vì có tâm, tâm không sáng như gương bị phủ tro
bụi, không thể nhìn rõ thực tướng; có Phật tánh, thấy không được Phật
tánh, giống như vàng ròng chôn trong bùn cát, không cách gì làm chói mắt.
Năm 1953, tôi thành lập "Phật giáo ca vịnh" ở
Nghi Lan, thường đem họ ra ngoài hoằng pháp, trong đó có một đội viên tốt
nghiệp ở học viện Quốc Lập Âm Nhạc, thanh âm và khí chất của cô ta đều rất
tốt. Có lần, cô ta không theo kế hoạch dự định thời hoằng pháp của tôi,
đến giờ đổi một bài ca khác. Lúc đó tôi quá sức giận, lập tức hạ lệnh cho
cô ta trở về. Nhưng đến tối lúc sắp đi ngủ, tôi "kiểm tra lại tâm mình",
lại thầm thầm tự trách, vì cô ta tuy chẳng giữ sự ràng buộc của đoàn đội,
cố nhiên phải bị trách cứ, nhưng tôi cũng không nên chấp trước cứng cỏi
thái quá. Có nhiều sự tình, nếu như một hoà hai sai không nhiều, đây và
kia có lúc có thể thay thế, không nhất định chấp một bỏ hai, phải thế này,
không được thế kia; nếu không, không những làm cho người khác không có
không gian cứu vãn, cũng khiến mình bị ép vào chỗ chết, thật là khổ làm
sao!
Hơn ba mươi năm trước, tôi thiết lập tinh xá
Phổ Môn ở Tân Bắc, có một tín đồ phát tâm, đem theo một bé gái học Ấu trĩ
viện, đến nấu cơm giúp tôi. Một hôm, cô ta đi mua thức ăn, vừa ra khỏi cửa
không lâu, con gái nhỏ của cô ta khóc "oa, oa" lên, có đến một hai phút.
Mắt thấy một ngôi Phật đường yên tĩnh trang nghiêm bị tiếng khóc của nó
phá vỡ, tôi cầm gậy đến làm bộ đánh nó, một mặt mắng: "Mày dám khóc hả!"
Nó lập tức nín ngay, mở to mắt nhìn tôi, làm tôi ngược lại bất an. Tôi
ngay đó "kiểm tra tâm mình", nghĩ đến nó tuổi còn nhỏ, thấy mẹ nó bỏ nó mà
đi, khóc là vũ khí duy nhất để kêu đòi, mà tôi là người lớn lại dùng uy
thế của cây gậy để áp bức nó, nói gì đi nữa cũng không đúng. Do đó về sau,
ngay lúc tôi gặp tình huống tương tợ, bèn biết dùng tâm khoan dung mà nhìn
sự khóc lóc ồn náo, dùng lời lẽ an ủi vỗ về thay thế trách mắng.
Hơn ba mươi năm trước, lúc mới xây dựng Phật
Quang Sơn, thâu nhận nhiều Sa-di, họ mười phần nghịch ngợm phá phách, thầy
giáo ai cũng đau đầu đau óc, tôi cũng từng nghĩ dùng phương thức nghiêm
phạt, nhưng nghĩ lại chính mình lúc làm Sa-di, chẳng lẽ lại không nghịch
ngợm phá phách sao? Chỉ là giáo dục tùng lâm lúc ấy lấy vô lí đối lại hữu
lí, cứ dùng đánh mắng để áp chế tâm lười biếng chậm chạp của học Tăng, tuy
nói những việc ấy có thể thành tựu đạo nghiệp của tôi, nhưng có bao nhiêu
người được như thế? Từ xưa đến nay, tâm trẻ con rốt cuộc là ngây thơ hồn
nhiên, mà hiện tại thời đại không đồng, tôi chẳng thể dùng tâm "con dâu
nhiều năm chịu đựng thành bà gia" để đối đãi người khác. Sau khi "kiểm tra
tâm mình" rồi , tôi chẳng những hiểu rõ tâm tình của Sa-di hơn các thầy
khác, để tùy thuận dung thông. Ngay cho là học sinh đã lớn phạm lỗi, chỉ
cần không phải lỗi lầm ác độc ngược với tình lí thái quá, tôi đều có thể
dùng sự rộng lượng bao dung mà tiếp nhận, sau đó mới giáo dục bằng cách từ
từ dạy dỗ khéo cho bọn họ.
Lúc chùa Tây Lai ở Mĩ sắp khánh thành, tôi từ
Đài Loan xa xôi qua tham gia, thấy bọn đệ tử ào ào như ong hớn hở đi ăn
"pizza‹, "han-bao" trong lòng rất bực bội, do đó đã nghiêm minh cấm chỉ
trong một lần đồ chúng họp hội nghị, nhưng nghe nói lại có người lén mua
ăn, tôi biết đây là tôi không đúng, vì ở nước Mĩ, làm sao có thể không ăn
thức ăn của Mĩ? Về sau, có một lần tôi đến Mĩ hoằng pháp, trước khi lên
đường, đồ chúng Nghi Lan cúng tôi một hộp sữa đậu hũ tự chế, tôi mang theo
nó đến Mĩ, mỗi lần khi mời khách, bèn cầm ra làm món ăn dặm, kết quả vèo
một cái hết trơn, so với mấy món ăn tinh tế ngon lành đặc biệt trên bàn
lại được hoan nghinh hơn. Tôi bắt đầu kiểm tra tâm mình, nghĩ lại mình ở
Nghi Lan mấy mươi năm, cũng chẳng hoan hỉ những món dưa cải, bánh mè, bánh
cam, bánh mè nướng…, về sau mắc bệnh tiểu đường, biết rõ không thể ăn
ngọt, và dưa muối quá mặn, nhưng có lúc lại cứ theo đó ăn. Hiện tại đồ
chúng đến quốc gia Âu Mĩ, thích thú những món ăn kiểu Tây, cũng chẳng phải
là việc đáng trách lắm, hà tất phải đòi hỏi nghiêm khắc như thế? Qua lần
chuyển niệm này, sau chỉ cần không phải là tham ăn quá phận lắm, tôi đều
lờ đi giả vờ không thấy. Về sau khi khai hội ở Mĩ, tôi lại đem "pizza",
"han-bao" làm món điểm tâm chiêu đãi nhân sĩ dự hội, mọi người mừng rỡ nói
tôi rất thông đạt sự lí nhân tình, kì thực đây đều là cảm tưởng do một
phen "kiểm tra lại tâm mình", đem tâm so sánh tâm mà được.
Đối với một số người đem món ăn chay chế
giống như món mặn, tôi cũng từng có lần rất khó chịu, cho rằng ăn chay là
để nuôi lớn tâm từ bi, nếu như đem tâm lí ăn mặn để ăn chay, thì không rốt
ráo. Do đó tôi mỗi lần trông thấy trên bàn có gà chay, vịt chay, cá chay,
thịt chay, thịt quay chay, cá lóc chay… đều một mực không ăn. Nhưng có một
hôm, tôi thấy tín đồ có vẻ ưa ăn không thôi, đột nhiên nghĩ ra: Người mới
vào cửa Phật, trong nhất thời không cách gì sửa trừ tập khí cũ, do đó có
nhu yếu này. Chỉ cần trong tâm của chính mình không có gà vịt, thịt cá là
tốt rồi, hà tất phải chán ghét ư? Có một lần tôi tiếp bác sĩ Kim, người
kiểm tra Bối Nhĩ Tưởng đến Đài Trung thăm Chủ tịch tỉnh Lâm Dương Cảng.
Lâm chủ tịch đặc biệt bày một bàn tiệc đãi bác sĩ Kim. Tôi cũng có hai dãy
thức ăn chay trên cùng bàn. Nếu như tôi cứ kiêng dè cự tuyệt, thì là bày
tỏ trong lòng có "thịt" rồi, không phải đã phạm lỗi "năm mươi bước cười
một trăm bước" sao? Sau khi "kiểm tra tâm mình", tôi phát giác: Cái mà vốn
cho là thanh tịnh, kì thực là cái không cứu cánh; cái mà vốn cho là nhiễm
ô, lại chính là phương tiện độ chúng. Chỗ nói "mạt sắt làm mắt bệnh, mạt
vàng cũng làm mắt bệnh; mây đen che mặt trời, mây trắng cũng che mặt
trời". Nhân duyên thuận nghịch đều là Phật đạo, sự lí thiện ác dùng nó thì
được pháp, khả dĩ thành phương tiện độ sanh, tôi phải dùng ánh mắt siêu
việt hơn để đối xử thế gian này.
Hơn hai mươi năm trước, Vương tiên sinh xưa
nay công tác ở Công ty Điện lực ở Nghi Lan, sau khi đến Phật Quang Sơn,
cảm thấy sinh hoạt tốt đẹp của đời sống ở chùa, do đó muốn cô gái thiên
kim vừa tốt nghiệp đại học của ông cũng đến phục vụ Dục Ấu Viện Đại Từ
trên núi. Vương tiểu thư lúc vừa mới đến, đột nhiên chuyển đổi một hoàn
cảnh dậy sớm, ăn chay khác hẳn, hoàn toàn cảm thấy không quen. Chẳng bao
lâu, bèn thưa với cha mẹ định đi làm ngoài xã hội. Cha mẹ cô ta lại khuyên
răn hết lời: "Xã hội giống như địa ngục, ngàn vạn chớ nên đi!". Cô ta chạy
tìm tôi nói rằng:
— Sư phụ! Dù cho xã hội là địa ngục, cha mẹ
cũng nên để con đi xem!
Tôi đem tâm mình suy, nghĩ lúc mình còn nhỏ,
cũng chẳng hướng về sinh hoạt tự do tự chủ đó sao? Do đó lập tức xin vợ
chồng Vương tiên sinh giùm cô ta, nhờ cậy họ cho con gái làm việc trên xã
hội. Về sau, tôi thấy cô Vương tiểu thư vui vẻ khi sống trong xã hội, thầm
cảm nhận rằng một người chỉ có kiểm tra lại chính tâm mình, mới có thể
hiểu rõ người khác.
Tôi từ nhỏ đã trải qua cuộc sống thanh bần,
mới đến Đài Loan không có một đồng một chữ, nhưng tôi vẫn nhận là chính
mình có thể chịu đói chịu khổ, chứ nhất định không để đám thanh niên theo
mình ra ngoài giảng pháp cũng cùng chịu khổ. Mỗi lần mua một vật gì quá
mắc, tôi định trả giá, rồi tự nghĩ: Người bán hàng cực khổ kiếm tiền, cũng
vì nuôi sống gia đình, nếu như ai cũng định trả giá, bảo họ bớt một chút,
thì sinh hoạt của họ nhờ vào đâu? Như thế sau khi kiểm tra tâm của mình,
tôi chẳng những rất hoan hỉ đưa tiền, mà còn nếu như đối phương bán thức
ăn chay, giày dép Tăng hoặc sách vở văn vật Phật giáo, tôi đều chủ động
trả thêm tiền để họ lời nhiều một chút, hi vọng kiểu này có thể khích lệ
nhiều người đến cung ứng vật phẩm Phật giáo, cũng vì Phật giáo đồ mà mang
đến nhiều phương tiện hơn.
Lúc đầu tiên mời người khác đến giúp tôi làm
việc thường thường vì làm không được hoàn mĩ, tự mình lại phải thu thập
cho thoả đáng, lấy làm khổ não; nhưng về sau tôi nghĩ: Người ta không phải
mới một lần bắt đầu mà có thể vai gánh vật một trăm cân, với lại mỗi người
có chỗ sở trường không đồng, việc gì nếu như đòi hỏi hoàn mĩ thái quá, chỉ
là luống tự làm khổ não mình, khổ não người. Tôi sao chẳng từ công tác đơn
giản lúc đầu giao phó nhiệm vụ, một mặt tăng gia lòng tin của đối phương,
một mặt quán sát năng lực của họ? Tôi giữ gìn lí niệm này, chẳng những
huấn luyện được nhiều người làm công quả, mà lại có không ít người theo
tôi đi vào hàng ngũ hoằng pháp lợi sanh. Đến nay tôi rất may mắn là chính
mình có thể có tập quán kịp thời "kiểm tra nội tâm".
Nhiều năm về sau, chụp hình đối với tôi mà
nói hoàn toàn là một việc khổ sai, vì bất kể nơi nào lúc nào, hàng tín đồ
chỉ cần trông thấy tôi, là xúm xít chạy đến, yêu cầu chụp hình chung,
người này chụp xong, lại có người khác đến lấp vào chỗ trống, thật chẳng
dễ cùng họ chụp xong, lại phải cùng cha mẹ họ chụp chung, sau đó cùng vợ
con họ chụp chung, tấm này qua tấm nọ, chụp hoài chụp huỷ. Lúc ban đầu tuy
nghĩ đến nhu yếu của đồ chúng, tôi thầm nhẫn chẳng nói, nhưng trong lòng
rất miễn cưỡng. Sau này, lúc tôi cùng với các giới lãnh tụ họp mặt. Thấy
đồ chúng tranh nhau chụp hình với chúng tôi, lại từng người cùng với các
danh nhân quốc tế này chụp chung, tôi chẳng khỏi sanh lòng hổ thẹn, nghĩ
đến trên thế giới này chẳng phải chỉ có một mình cá nhân tôi nhẫn nại chụp
hình, tôi lại tính làm gì? Sau khi kiểm tra tâm mình, tôi chẳng những vui
vẻ cho phép người khác chụp hình chung, có lúc lại vì họ chọn vị trí, định
khoảng cách, mỗi lần thấy mọi người có vẻ mặt vui tươi, tôi cũng đồng cảm
mà hân hoan.
Quá khứ, mỗi năm đến ngày sinh nhật, tôi đều
nổi giận một cách không hiểu nổi, xong việc thường thường buồn bực, vì sao
mà lại như thế chứ? Rồi tôi đi xem xét sự kiện này nhận cho rõ ràng, mới
biết là vì xem thấy việc đồ chúng vì tôi, vắt hết tim óc, nhọc thầy động
chúng, khiến người thêm rất nhiều phiền phức, trong lòng rất băn khoăn.
Tâm niệm vi tế này nếu không tử tế phản tỉnh, rất khó biết đến. Một hôm,
tôi đột nhiên có chỗ ngộ: Tôi không thích người khác vì tôi thế này, vì
tôi thế nọ, là cách nghĩ của riêng tôi. Nhưng đồ chúng rất thích vì tôi
bận rộn, tôi hà tất cứ chấp vào nguyên tắc của mình, để người buồn khổ?
"Tâm của mình" trải qua một phen "kiểm tra" rồi, bèn có thể xử lí viên
dung. Như ngày sinh nhật thứ 60, tôi mời tín đồ sáu mươi tuổi đến núi, để
mọi người đồng hưởng pháp lạc, tăng trưởng phước thọ, tự biết rất có ý
nghĩa. Năm ngoái, khi mừng sinh nhật 72 tuổi, tôi chẳng những đem "Phật
Quang Thái Căn Đàm" mới viết tặng cho những người đến chúc mừng, mà còn
đem bao đỏ chuyển tặng Đại Học Phật Quang, thay mọi người tạo công đức ban
thưởng học sinh, càng cảm thọ lạc thú sanh mạng kéo dài bất tận.
Tôi từ nhỏ rất chú trọng oai nghi của chính
mình, cho đến hiện tại, đi đứng nằm ngồi vẫn có thể giữ gìn đầu ngẩng ngực
ưỡn. Chỉ là tùy theo tuổi tác già cả, lại thêm mổ năm lần, bước đi có hơi
chậm chạp, kì thực tôi lại có thể lên xuống thang lầu. Nhưng mỗi lần đến
đâu hoằng pháp, tín đồ hễ trông thấy tôi, đều hoan hỉ đến nâng dắt, khiến
tôi chẳng được tự tại, nhất là đại đa số chẳng biết chỗ quan trọng. Mỗi
lần tôi xuống lầu, họ lại nâng cánh tay của tôi lên cao, khiến tôi phải ra
sức thêm; mỗi lần tôi lên lầu, họ thiếu điều muốn khiêng tôi lên, khiến
tôi càng thêm khổ sở. Chẳng qua nghĩ đến tín đồ xem tôi là trưởng bối,
người trên, thậm chí có người còn gọi tôi là "ông già", để cho họ dìu nâng
một chút, trong lòng họ rất vui vẻ mà tôi cũng chẳng mất mát gì, do đó
chẳng kể nhục thể cảm giác thế nào, đối với lòng lành ý tốt của họ, tôi
đều biểu lộ sự cảm tạ từ nội tâm. Theo lối "kiểm tra tâm mình" như thế,
tôi thầm thầm thể hội trên thế gian không có sự tình nào vui vẻ hay không
vui vẻ, có thể đem cái vui vẻ của người khác làm sự vui vẻ của chính mình,
để mọi người đều có thể rất hoan hỉ, không phải là rất tốt sao?
Tôi thường một mặt viết thơ, sửa bài, một mặt
tai nghe mời dạy, một mặt phê công văn, một mặt trả lời vấn đề, ngay cho
khi nghỉ dạy hay đi trên đường, cũng đều là có người vây quanh hỏi cái
này, cái nọ. Tóm lại, mỗi ngày chỉ cần tôi mở mắt ra, là phải thân tâm
toàn phó vũ trang, sáu căn cùng dùng, dần dần năm tháng chẳng đợi người,
đối với loại công tác trùng điệp này cảm thấy phiền phức chẳng an. Mỗi khi
định đưa ra kiến nghị lại nghĩ đến mình quá khứ bất kể ngoại cảnh rối ren
thế nào, cũng đều an nhiên tiếp nhận, vì sao tuổi càng lớn, lại tu dưỡng
sai đi? Mỗi lần "kiểm tra tâm mình" rồi, đối với đồ chúng rất có thể bao
dung. Nhân đây mệt nhọc thế nào cũng lại có thể phát sanh lực lượng vô bờ.
Do đó có thể thấy tâm linh như nhà máy phát điện, vĩnh viễn có nguồn năng
lượng bắn ra không cùng.
Tôi mỗi ngày không ngừng "kiểm tra tâm mình",
từ đó phát hiện một nguyên tắc xử sự quý báu: "Bạn đúng tôi sai, bạn lớn
tôi nhỏ, bạn vui tôi khổ, bạn có tôi không". Nhiều năm qua tôi đem bí
quyết này cùng chúng chung sống, không ngờ lại được bác sĩ Triệu Ninh khắc
bên phải ghế ngồi. Tháng 12 năm ngoái (1998) tôi chủ trì buổi giảng Phật
học tại Quốc Phụ Kỉ Niệm Quán, gồm ba ngày. Mỗi ngày đều mời các nhân sĩ
nổi tiếng trên xã hội đến cùng giảng "Phật Quang Thái Căn Đàm", có bác sĩ
Triệu Ninh nổi tiếng "danh chuỷ" (miệng lưỡi sắc bén) cũng là một trong số
khách quý nhận lời mời. Ông lấy đây làm đề tài, thuyết một đoạn kinh
nghiệm của chính mình, khiến người cảm động:
Có một hôm, bác sĩ Triệu vừa diễn giảng xong,
đi ra khỏi hội trường chuẩn bị lái xe về nhà, kết quả một chiếc xe taxi
xông ra đụng vào xe ông, rõ ràng là tài xế này chính mình đã sai rồi, lại
còn há miệng mắng lớn:
— Ông muốn chết hả?
Bác sĩ Triệu cũng trả lời:
— Anh mới muốn chết!
Tài xế nói liền:
— Ông ra đây!
Bác sĩ Triệu nói:
— Ra thì ra!
Đương lúc họ tức tối mở cửa xe định bước ra
thì học sinh Cao Trung từ hội trường bước ra, thấy bộ dạng vung kiếm dương
cung của họ liền há hốc miệng thất kinh. Bác sĩ Triệu lập tức "kiểm tra
tâm của mình" tự nhủ thầm: "Vừa rồi mi vừa ở trên đài giảng phải làm sao
xử lí quan hệ với người, tại sao hiện tại gặp sự tình này lại có bộ dạng
khác?" Rồi lập tức đổi thái độ, cúi đầu nói với người tài xế:
— Xin lỗi! Tôi lầm rồi! Tôi sai rồi!
Người tài xế nghe xong, trước tiên ngạc
nhiên, rồi đổi thái độ khiêm tốn, đưa hai tay ra nắm chặt ông, nói:
— Tôi chẳng tốt! Tôi mới chẳng tốt!
Một trường can qua sùng sục chực phát bèn
chuyển thành hữu nghị kiểu ngọc ngà tơ lụa.
Trên lịch sử, vì có thể "kiểm tra tâm mình"
mà trong một niệm chuyển hoá cảnh giới, thậm chí thành then chốt thắng bại
là chuyện không thể kể xiết. Như Đại tướng Liêm Pha nước Triệu vì có thể
"kiểm tra tâm của mình", chuyển tâm cống cao ngã mạn thành khiêm hư, nhún
nhường hướng về Tể tướng Lạn Tương Như mang gai chịu tội, từ đây chẳng
những mở hết hiềm hận cũ, mà nước Triệu do sự hoà hợp của hai người, đồng
mưu việc nước mà thành cường quốc đương thời. Đại phu Trâu Kỵ nước Tề
chẳng những có thể "kiểm tra tâm mình", không mê hoặc bởi lời xiểm mị dâm
tà của thê thiếp và khách đến thăm, lại lấy đây để can ngăn Tề Tuyên
Vương:
— Thần thực tại không đẹp bằng Từ Công, nhưng
vợ thần yêu thần, tỳ thiếp thần sợ thần, khách của thần có việc nhờ thần,
đều nói thần đẹp như Từ Công. Hiện tại, đất nước Tề rộng ngàn dặm, có 120
thành, phụ nữ trong cung cùng những người tả hữu thân cận ai cũng yêu vua,
quan trong triều đình ai cũng sợ vua, người trong nước ai cũng mong cầu ở
vua. Xem kiểu này, vua bị che mờ rất sâu rồi!
Tề Tuyên Vương nghe xong, cũng lập tức "kiểm
tra tâm của mình", liền hạ lịnh:
— Hễ ai có thể can gián lỗi lầm của Hoàng đế,
bất kể triều thần hay bình dân đều được trọng thưởng.
Sau đó, mỗi ngày trong cung vua đầy ắp người
can gián. Sau mấy tháng, người can ngăn giảm dần. Sau một năm, lỗi lầm sửa
chữa không còn sai nhiều, lại cũng chẳng có người nào đến can, mà nước Tề
từ đây thành một bá chủ trong thời đại Xuân Thu Chiến Quốc.
Phật giáo rất coi trọng công phu tâm địa,
kinh nói: "Vì trị tất cả tâm, nên nói tất cả pháp; nếu không tất cả tâm,
đâu cần tất cả pháp?". Cổ Đức cũng nói: "Trăm ngàn pháp môn, chẳng lìa
nguồn tâm". Giống như Tứ niệm trụ, Chỉ quán song tu… mà cửa Phật đã nói,
đâu cũng đều muốn chúng ta tùy thời tùy chỗ "kiểm tra tâm của mình".
Phương pháp gốc thẳng nguồn trong này, chẳng biết hoá độ bao nhiêu người,
nhưng ví dụ nổi bật nhất như Châu Lợi Bàn Đặc ngu muội chóng quên, nhờ
"phủi bụi quét rác" mà kiểm tra tâm mình, cuối cùng chứng ngộ quả
A-la-hán, Ương-quật-ma-la giết người vô số muốn đuổi theo giết Phật, mà
không cách nào theo kịp, ngay khi nghe Phật nói một câu "Ta đã dừng lại
rồi, còn ngươi chẳng dừng". Ông ta lập tức "kiểm tra tâm mình", liền sụp
lạy dưới chân Phật sám hối lỗi trước. Từ đó thế gian bớt được một ma vương
giết người, trong cửa Phật lại nhiều thêm một bậc long tượng độ chúng. Có
thể thấy "kiểm tra tâm mình" là trọng yếu biết bao nhiêu! Nhất là đang lúc
vinh quang đến, nếu không thể "kiểm tra tâm mình" thì tường cao ngã mạn sẽ
ngăn mất tầm nhìn của chính mình. Ngay lúc phiền não xảy đến, nếu như
không thể "kiểm tra tâm mình", lửa bùng của sân giận sẽ đốt tiêu công đức
của chính mình. Ngay lúc ngoại cảnh rối ren, nếu như không thể "kiểm tra
tâm mình", nước lũ tham dục sẽ làm chìm đắm ý chí của chính mình. Ngay lúc
được mất lo lắng, nếu như không thể "kiểm tra tâm mình", gió tà nghi kỵ sẽ
thổi sụp lí trí của chính mình. Do đó, giờ giờ khắc khắc chúng ta đều phải
cần cù tận tuỵ "kiểm tra tâm mình", mới có thể thấu rõ nhân duyên, cân
nhắc khinh trọng, biết chỗ lấy bỏ, lợi mình lợi người.
"Cuộc đời như sân khấu".
Tuỳ theo sự biến đổi của vũ đài thời gian không gian, tùy duyên hồn nhiên,
tự có thể gánh tất cả trách nhiệm trọng đại.
Tuổi nhỏ xuất gia rồi, thường nghe các bậc Sư
trưởng răn nhắc mọi người: "Làm Hoà thượng thì phải giống Hoà thượng. Các
ông không nên vạch đất tự giới hạn mình, muốn làm cái gì phải giống cái đó
mới tốt!" Tôi nghe xong về sau, ghi khắc vào tâm, sau này câu "Làm Hoà
thượng phải giống Hoà thượng" "Làm cái gì cần giống cái đó" phát huy công
dụng rất lớn trong suốt một đời tôi.
Nhớ lúc đó gặp đúng thời kì chiến tranh chống
Nhật, dân sinh thiếu thốn, kinh tế chùa chiền nghèo xơ xác, thường thường
nước đã nấu sôi mà chẳng thấy có gạo bỏ vào nồi. Lúc ấy tôi chỉ là một chú
Sa-di nhỏ, thấy thường trụ gặp khó khăn như thế, bèn lợi dụng thời gian
ngoài giờ học, lên núi hái trái không hoa (nhuộm vải được), một mặt tăng
thêm thu nhập của thường trụ, một mặt có thể giúp thường trụ đi tuần xem
chừng rừng núi, để phòng ngừa mấy chú tiều nhỏ ăn trộm cây. Mấy năm sau,
tôi vâng lời thầy đến chùa Định huệ ở Tiêu Sơn học Phật Học Viện, nhưng
mỗi lần gặp kì nghỉ, tôi nhất định mau mau chạy về núi Thê Hà. Lúc nghỉ
hè, quả không hoa đua nhau kết trái, tôi y như xưa mỗi ngày sáng đi chiều
về, hái xuống cúng cho thường trụ. Thời kì khô hạn, thấy chúng trong chùa
nước uống và giặt giũ bất tiện, tôi cũng tự động đến bờ sông gánh nước,
mỗi lần đi về mất hết một hai giờ. Lúc nghỉ lạnh, năm mới âm lịch sắp đến,
tôi lại cầm chổi quét sạch sân chùa, một mình từ sáng đến chiều, lau chùi
cửa kính suốt một tháng trời. Vào mùa Xuân, tôi lại bận rộn giúp thường
trụ tiếp khách hành hương, tuy một ngày trôi qua, thường thường mệt đứ đừ,
nhưng tôi thường nghĩ: Chính mình xuất gia tại núi Thê Hà, núi Thê Hà
chính là của mình, mình phải giống "một đệ tử xuất gia của núi Thê Hà".
Thời thanh thiếu niên, tôi sinh hoạt trong
tùng lâm mười năm, trong đó sáu năm làm hành đường, hai năm ty thuỷ, một
năm rưỡi hương đăng lại kiêm giữ chức quản lí viên Đồ Thư Quán, hội trưởng
Hội Tự Trị. Mỗi khi Đông đến, hành đường rất cay đắng, hai tay ngâm trong
nước lạnh cóng rửa mấy trăm bát đũa, da lòng bàn tay, lưng bàn tay chỗ nào
cũng nứt nẻ, ngay thịt màu đỏ bên trong cũng thấy rõ mồn một. Lúc đó không
biết mang bao tay, bôi dầu. Ngày hôm sau lại công tác như thường, giống
như từ xưa tới giờ chưa biết khổ sở vì vết thương, chỉ biết "làm một vị
Tăng khổ hạnh phải giống hình dáng của một Tăng khổ hạnh", lao nhọc cũng
mặc, oán trách cũng mặc, cứ khiêm hư học tập.
Thuở bé vì gia cảnh bần hàn, không được giáo
dục tốt đẹp, do đó rất quý tiếc cơ hội có sách để đọc. Vì muốn "làm một
học sinh tốt", tôi tự động tự phát, tự mình học tập. Ban ngày bận ruộng
vườn, thời gian đọc sách rất ít, tôi lợi dụng thời gian vụn vặt còn thừa
khi chỉnh lí sách vở ở Đồ Thư Quán mà ôn tập công khoá và xem thêm một ít
sách ngoài khoá. Ngoài ra, mỗi tháng tôi lại tự đốc xúc mình biên một bản
"Vườn đất của tôi", trong đó có luận văn, giảng toà, thơ mới, tản văn, báo
cáo tâm đắc, cảm tưởng sinh hoạt… Tuy chỉ có một mình tôi xem, nhưng từ đó
từng điểm từng giọt đặt cơ sở cho tôi ngày sau lúc biên tập tạp chí, viết
tản văn cho đến lúc hoằng pháp Phật giáo, tiếp dẫn chúng sanh đều có thể
dễ dàng, thực tại là việc trước lo chưa tới. Kinh nói: "Mỗi một trần hiện
ra tất cả pháp, xoay chuyển vô ngại trang nghiêm khắp cả". Lại nói: "Phật
Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na, khắp tất cả chỗ". Tôi do đích thân
vào trong thực tiễn nên càng thêm tin "tất cả các pháp đều là Phật pháp",
chỉ cần chịu phát tâm tối thượng, luôn luôn nghĩ đến chính mình "Làm cái
gì cần phải giống thế ấy". Chỗ đem lại lợi ích thực tại là vô lượng vô
biên.
Lúc đó trời chiều không có đèn điện, thường
trụ cũng không cho chúng tôi dùng dầu phụng đốt đèn, vì dầu dùng để ăn
hằng ngày không đủ sử dụng, đâu có dư để chúng trong chùa đốt đèn xem
sách. Tôi mỗi chiều đều lễ Phật toạ thiền qua đêm dài dằng dặc, mỗi lúc
tâm tánh giải đãi, tự mình quán chiếu, nghĩ đến các bậc Cổ đức trong
truyện Cao Tăng, tinh thần gian khổ chiến đấu, chẳng khỏi tự thẹn sự tồi
tệ của mình. Vì muốn cho chính mình lại "giống một hành giả cửa Phật", tôi
ở trong đêm tối muôn vật lặng lẽ, dưới ánh đèn yếu ớt trước Phật, chích
máu viết kinh, chấm từng giọt máu tươi bồi dưỡng tín tâm đạo niệm của mình
đối với Phật pháp. Ngoài ra, tôi cũng giữ giới tịnh khẩu, và nếm thử qua
sự tu trì không ăn quá ngọ. Trừ việc ngồi thiền lễ Phật hằng ngày ra, hễ
nghe có tổ chức thiền tu, Phật thất, tôi cũng đều cực lực tranh thủ tham
gia, trong đó từng có qua cảnh ngộ quên mình. Bao nhiêu năm nay, tôi không
kể là chủ trì thiền thất, Phật thất, hoặc là chỉ đạo đại chúng tu trì, đều
được trôi chảy thuận tiện, không ngớt cảm tạ câu "làm cái gì phải giống
cái đó" của Lão sư, khiến tôi làm được công tác tự lợi lợi tha.
Tăng lữ Phật giáo ắt phải đủ ba đao sáu chùy,
khổ tu trong bốn mươi tám đơn, tôi đều là ở tại khoá tu sớm chiều, trong
lao động làm việc mà dũa mài huân tập, diệu đế của Phật pháp thì ở tại đi,
đứng, nằm, ngồi hằng ngày, một điểm một giọt ngay trong thực tiễn có chỗ
thể ngộ. Trong sinh hoạt tham học bận rộn, tôi một lòng một dạ yêu cầu
chính mình "làm được giống một người xuất gia", do đó bình thường đối với
tất cả sự xếp đặt của thường trụ, tôi đều hoan hỉ theo chúng, rỗi rảnh thì
hành mật hạnh kèm vào. Theo kiểu này tư tưởng của tôi dần dần tịnh hoá,
dáng dấp người xuất gia tự nhiên hiển hiện ra. Thẳng đến ngày nay, tôi
thường dạy dỗ đồ chúng ý niệm "không thâu đồ chúng riêng, không chứa vàng
bạc riêng, không dựng đạo tràng riêng, không giao thiệp với tín đồ riêng,
không tự quyên góp riêng, không nhờ giúp đỡ riêng, không tạo sản nghiệp
riêng, không lo ăn uống riêng", kì thực đều bắt nguồn từ pháp tắc được thể
nghiệm "muốn làm một người xuất gia" được học tập trong cửa Phật ngày còn
bé.
Giáo dục của tòng lâm ngày trước mười phần
nghiêm ngặt, lúc bước đi tròng mắt phải nhìn phía trước khoảng bảy thước
(khoảng hơn hai mét), chẳng được ngó hai bên, không được ngước mặt, cúi
đầu, chạy, đi mau. Lúc đứng phải có tướng đứng, hai tay buông xuống, nắm
tay ngang ngực, phải biết vị trí của mình đứng. Lúc ngồi xuống, chỉ được
ngồi nửa ghế, xương sống tự nhiên thẳng đứng, hai vai ngang nhau, phần
dưới phải xếp lại. Lúc ngủ, phải nằm thế cát tường nghiêng bên phải. Lúc
ra ngoài, mặc áo phải chỉnh tề, ra khỏi phòng nhất định phải mặc áo tràng,
ra khỏi chùa phải mặc hải thanh (nhật bình), không được bịt khăn, đội mũ.
Nếu oai nghi có chút sai sót, ngôn hạnh có chút không đúng pháp, sẽ ăn gậy
giận hét của Sư trưởng ngay, mà oan uổng uỷ khuất lại là việc thường có.
Nhưng tôi xưa nay chưa từng thối chí nản lòng, cũng chưa từng cãi lại, ôm
hận. Vì tôi trước sau đều biết rằng Lão sư từ bi chỉ dạy, làm một người
hậu học hạng con em, phải nên "giống một người hậu học, con em" đem thân
cung kính, lấy lòng hàm ân để tiếp nhận tất cả lời chỉ bảo răn nhắc. Chính
vì thế, các lão sư rất vui lòng dạy tôi, tôi vốn không thông minh, ở dưới
trăm rèn ngàn luyện, rõ ràng tiến bộ mau chóng.
Nhớ lại lúc ban đầu, sở dĩ tôi cạo tóc xuất
gia lúc còn ấu trĩ là vì hồi nhỏ ở quê nhà thấy được pháp tướng oai nghi
khoan thai của Đại hoà thượng, do đó thầm phát nguyện có ngày cũng khoác
được Tăng bào, để người khác nói rằng tôi giống một Đại hoà thượng trang
nghiêm. Về sau quả là nguyện chân thật không phát suông. Sau khi đi tu,
nhớ mãi lời thề này, và thường lấy câu "ngôn tuyệt hư phù, hành tuyệt danh
lợi" của đại sư Huyền Trang khắc vào bên phải toà của mình.
Sáu mươi năm nay, tôi không hề mặc quần đùi,
áo ngắn mà ra ngoài, tôi không hề mặc áo lớn mà chạy, không hề nói chuyện
huyên thuyên với người ở quán cà-phê, không hề cầm dù lúc trời mưa trút
nước, thậm chí lúc động đất dữ dội, đất đá rơi lở trước mặt, cũng đều có
thể trấn tĩnh niệm Phật, không kinh không sợ… Những cử chỉ này đều không
phải là làm bộ làm tịch, mà là trải qua nhiều năm tháng giữ mãi niệm ban
đầu ngày đó – "Làm được giống như một Hoà thượng", nuôi dưỡng thành thói
quen.
Năm 1988, Tây Lai Tự vừa mới khánh thành, đồ
chúng vì hiếu kì, ào ào phóng xe đến tiệm Phi Tát đòi ăn Phi-tát (Piza)
tôi nghe nói cấm chỉ, không phải Phi-tát không được ăn mà là thân làm một
người xuất gia, ở nơi công cộng chạy động đều chẳng phải chỗ thích hợp.
Như nay có nhiều người khen tôi đầy đủ oai
nghi, bất kể nơi nào, lúc nào cử chỉ cũng đúng pháp. Tôi nghe mấy lời này,
trừ việc cảm niệm đạo phong nghiêm nhặt của Phật môn ngày đó ra, còn muốn
cảm tạ Lão sư đã ban cho một câu nói vàng ngọc: "Làm cái gì cần giống cái
đó".
Từ lúc ra khỏi Phật Học Viện, thường trụ phái
tôi đến làm Hiệu trưởng một trường Tiểu học Quốc Dân gần chùa Bạch Tháp ở
tổ đình Nghi Hưng. Điều này đối với một người xưa nay chưa hề có kinh
nghiệm xã hội như tôi mà nói, là một kinh nghiệm hoàn toàn mới mẻ. Vì muốn
"Làm được giống một vị Hiệu trưởng", tôi thu góp rất nhiều sách vở về
phương diện giáo dục và hành chánh, nghiên cứu tới lui. Địa phương dưới
làng kinh phí không đủ, thầy trò thiếu thốn, tôi lại được kiêm nhiệm làm
thầy dạy mấy lớp. Để làm được thầy giáo Quốc tiểu, để bọn học trò nhỏ được
giáo dục tốt đẹp, tôi trước tiên suy nghĩ kế hoạch, lại có thể đạt được
khoá trình của một người đồng một lúc dạy dỗ mấy lớp, mà bọn trẻ con đều
có thể an tĩnh vào lớp không ồn náo. Lần rèn luyện này khiến tôi vốn rụt
rè hướng nội, tăng thêm không ít lòng tin. Kinh nói: "Tất cả pháp lành,
lấy dục làm gốc", ý nguyện "Làm cái gì phải giống cái đó", vô hình trung
trở thành một động lực mạnh mẽ, đưa tôi từng bước tiến đến trước.
Về sau tôi cùng với những pháp sư đồng học
như Trí Dũng… đến Nam Kinh tiếp quản chùa Hoa Tạng, định thử phát triển
hoài bão đổi mới Phật giáo. Lúc đó người đố kỵ hiềm hận cố nhiên là có,
nhưng người ngầm hoan hỉ cũng không ít. Họ gọi chúng tôi là một nhóm Tăng
Thanh niên hữu vi. Tôi nghe được lập tức tự nhủ phải làm được "như một
Tăng thanh niên". Nhân đây chúng tôi vẫn bảo trì thái độ lạc quan tiến
thủ, vì đạo hi sinh không hề luyến tiếc, hùng dũng tiến lên. Một chút thể
nghiệm này vô hình trung nuôi lớn đảm lượng và kiến thức của tôi, khiến
tôi ngày sau ở chỗ nguy không loạn, gặp hiểm vẫn yên.
Năm 1949, tôi xuống thuyền ở Cơ Long, Đài
Loan rồi dần dà đến Trung Lịch, Tân Trúc, sau dừng ở chùa Lôi Âm tại Nghi
Lan giảng kinh, vì muốn "làm giống vị Thầy giảng đạo", tôi bắt đầu suy tư
làm thế nào để dùng sự hiển lí, đem lí nói sự. Tôi luôn luôn tìm hiểu sự
cao thấp, mau chậm của âm điệu, thái độ ung dung thích đáng, tôi thường
kiểm thảo sự giơ tay cất chân của chính mình, xem phong độ nghi biểu có từ
bi trang trọng hay không. Như nay tôi đi diễn giảng khắp nơi, có thể nói
rất dễ dàng, thông thạo, nghĩ lại phải quy công cho những nỗ lực cần cù
nhiều năm.
Ngay lúc còn sức lực, tôi bắt đầu thực thi
tâm nguyện "bồi tài an Tăng" lúc trẻ. Vào năm 1965, dựng chùa Thọ Sơn ở
Cao Hùng và mở Phật Học Viện. Không bao lâu, vì học sinh ngày càng đông,
trường lớp không đủ sử dụng, tôi lại kiếm thêm một khu đất đầy rừng tre
gai ở làng Đại Thọ lập Phật Quang Sơn, đem Phật Học Viện dời về đây. Tôi
một thân một mình vừa làm trụ trì, giám công vừa làm hiệu trưởng, giáo sư,
sư phụ… Để đóng tốt vai trò, tôi có thể nói là hết sức khổ tâm, nhất là
học sinh từ chốn bụi trần muôn trượng đến đạo tràng thanh tịnh, tất nhiên
có rất nhiều vấn đề trên thân tâm phải điều hoà thích hợp. Nhân đây ngoài
lúc đẩy đất, gánh đá, chuyền ngói, khuân gạch, tôi tự phát thảo một sổ tay
giáo dục, xác định phương châm và quy ước sinh hoạt. Tôi đòi hỏi Giáo vụ
xứ tăng cường giáo tài, mời thỉnh bậc danh sư, thúc đẩy giao lưu giữa học
sinh và thầy giáo. Tôi yêu cầu Phụ đạo xứ dùng khích lệ thay thế trách
phạt, dùng hướng dẫn thay thế cấm chỉ mà chính tôi cũng thường khuyến dụ,
điều hoà, để cho mọi người đều có thể trong lúc tu đạo được vui vẻ, ở
trong sinh hoạt có pháp lạc. Sau này đệ tử theo tôi xuất gia lần lượt
tăng, hễ người biết đọc sách, tôi để họ tiếp tục đào sâu; người biết sắp
đặt việc, tôi để họ thi thố sự tài giỏi xếp đặt; người biết giáo hoá, tôi
chỉ dạy họ làm sao hoằng pháp bố thí giáo lí; người biết tu trì, tôi chế
tạo cơ duyên để họ chuyên tâm tu trì. Nhìn đồ chúng ai cũng được chỗ thích
hợp, an tâm tu hành, có thể nói là niềm an ủi lớn nhất đời tôi.
Theo sau sự thành lập đoàn Triều Sơn, danh
tiếng Phật Quang Sơn vang xa, tín đồ và khách hành hương ngày càng tăng.
Thường thường nghe đệ tử thông báo có khách đến thăm, tôi lập tức theo
đường núi quanh co gập ghềnh, từ công trường bước mau đến khách đường. Như
thế một ngày mấy lượt, thật là gặp được khách thì mồ hôi đã đẫm lưng, y
phục lại chẳng kịp thay, chỉ có mặc nó ướt rồi lại khô, khô rồi lại ướt.
Vì muốn "làm một người xứng với chức trụ trì kiêm tri khách", tôi lợi dụng
lúc đi đường, trong óc việc trước tiên đối với mỗi địa phương, mỗi thời
gian, mỗi một đường hẻm, mỗi một quá trình và phân đoạn đều có một phen kế
hoạch toàn bộ. Đến lúc gặp mặt, tôi cũng nhiều cách tìm hiểu tâm lí người
đến, thuận theo nhu yếu của họ, mong cho mọi người đều được vừa lòng, cảm
nhận tràn trề pháp hỉ.
Mấy mươi năm nay, tôi chưa từng để bụng học
qua cách giảng dạy, công trình, tri khách, điển toà… nhưng tôi đều ôm thái
độ "làm cái gì phải giống cái đó", bên làm bên học, từ trong sai lầm điều
chỉnh bước chân, từ trong mắt tai thấy nghe hấp thụ phương pháp chính xác.
Năm tháng dằng dặc, xuân đi đông lại, tôi chạy trên con đường nhân sinh
càng được thêm đầy đủ tự tại.
Bốn mươi năm tìm kiếm, cuối cùng tôi và mẹ đã
liên lạc tin tức, chẳng những tôi vì bà mua một tinh xá ở Vũ Hoa Đài tại
Nam Kinh để bà ở yên, lại thỉnh bốn bà già suốt ngày đánh bài với bà. Hễ
là người đối với mẹ tốt, tôi ít nhiều đều trên vật chất, trên tiền bạc
biếu xén lại. Tôi mời mẹ đến Nhật Bản, Mĩ Quốc, Hương Cảng, Đài Loan… để
đồ chúng thấy mặt kết duyên, thậm chí tại Phật Quang sơn, tôi mời bà nói
chuyện trên đại hội trước đồ chúng, bà nói với một vạn đồ chúng:
— Tôi cống hiến cho mọi người (các vị) lễ vật
là con của tôi.
Nhưng ở chỗ riêng, lúc tôi mỗi lần sớm thăm
tối viếng bà, bà đều bảo tôi:
— Ông ở trên đài giảng cho cả ngàn muôn
người; nhưng dưới đài, cần nghe lời một mình tôi.
Đích xác, ngay đến lúc bỏ báo thân vãng sanh,
chẳng kể tôi tuổi tác bao nhiêu, tôi vẫn nỗ lực "làm như một đứa con nhỏ".
Năm 1988, ngay lúc hai bờ eo biển vì danh
xưng đại biểu Vận Động Hội mà tranh chấp không thôi thì tôi lại đúng dịp
tổ chức hội hữu nghị Phật giáo đồ thế giới lần thứ 16, muốn làm cho giống
một nước chủ nhà, để mọi người đều vui vẻ, tôi ngày đêm toan tính, vì hội
Phật giáo cả hai bờ mà đặt tên cho khéo léo: "Trung Quốc Bắc Kinh – Bắc
Kinh Trung Quốc" khiến cho đoàn thể Phật giáo song phương phá kỉ lục cùng
ngồi trong một nhà hội nghị. Tám mươi mấy đoàn thể đại biểu đến từ hơn ba
mươi quốc gia đều đồng ý rằng: "Đây so với cách thức ở thế vận hội Olympic
lại có đủ ý nghĩa hơn". Vì duyên lành lần này, hiệp hội Phật giáo Trung
Quốc, cư sĩ Triệu Phác Sơ mời thỉnh tôi đến thăm Trung Quốc đại lục, khiến
sự giao lưu giữa hai bờ tiến thêm một bước lớn.
Gần mười năm nay, tôi vân du thăm viếng các
nơi trên thế giới để hoằng pháp lợi sanh, vì muốn "làm giống một người địa
cầu ôm cả thế giới", tôi nhập cảnh tùy tục, mỗi lần đến đâu đều là thăm
hỏi dân tình phong tục, và học tập một ít ngôn ngữ địa phương, đi đường,
một tiếng "How are you?" đều có thể giành được nụ cười thiện cảm của đối
phương. Đứng trên đài, một câu "?????" (kon ni chi wa)
thường thường được người nghe vỗ tay vui vẻ.
Kinh Kim Cang nói: Người cần buông hết chấp
trước, trừ khử bốn tướng. Chỉ có vô tướng mới có thể như hư không, không
đâu chẳng hiện tướng, đạt đến cảnh giới chân không sanh diệu hữu. Cổ đức
cũng nói: "Quân tử bất khí". Chỉ cái "bất khí" này sở dĩ có thể tùy duyên
nhậm vận, vai gánh tất cả trách nhiệm trọng đại.
Thăm viếng các nơi trên thế giới, những người
không phải Phật tử cũng vui vẻ hỏi tôi làm sao mà có thể được cảm ứng. Tôi
biết rằng "làm cái gì, giống cái đó" chính là một loại cảm ứng. Kinh A-Hàm
ghi: Đức Phật ở cõi trời Đao Lợi giảng kinh ba tháng, lúc trở về thế giới
Ta-bà, tượng Phật làm bằng gỗ tử đàn do vua Ưu Điền tạo cũng tự nhiên rời
khỏi toà đi đến đón tiếp đức Phật. Đây là vì tượng Phật do lòng thành kính
khắc chạm rất sinh động, giống hình dáng và tinh thần của Phật-đà như
đúc", do đó có thể có cảm ứng khó được như thế. Người biết diễn tuồng, bất
kể là người tốt, người xấu, trung thần, gian thần… đều có thể đóng vai một
cách xuất sắc, như Nghi Minh, Kim Siêu Quần diễn Bao Công, đều nhân vì
diễn được "giống", do đó được sự hưởng ứng nồng nhiệt của người xem. Đây
không phải là một loại cảm ứng sao? Có người nói "cuộc đời như sân khấu".
Quả thật như thế, chúng ta cũng phải tùy sự biến đổi trên vũ đài không
gian thời gian mà "làm cái gì giống cái đó", cần thiết chớ vì sự không
tròn trách nhiệm của mình mà làm hư hết bầu không khí của sân khấu, để
mình người đều áo não thở than.
Năm 1954, tôi được 27 tuổi, lúc mới soạn viết
Truyện Ký Phật Đà, đọc đến đoạn: “Người có thể nhẫn nhục đáng gọi là bậc
đại nhân hữu lực. Nếu người không thể vui chịu hủy báng, chê bai, mắng
chửi như uống nước cam lồ thì không thể gọi là người trí tuệ vào đạo”,
trong lòng tôi cảm xúc sâu xa.
Tôi nhìn lại những năm tháng lưu ly điên đảo,
tự xét nếu không nương vào nhẫn nhục làm thuyền bè, làm sao có thể vượt
qua thời gian liên miên khổ nạn? Tôi lại mở to mắt nhìn xã hội nhiều biến
động phức tạp ở vị lai, sự sinh hoạt nhân ngã, đúng sai, tự biết mình cần
nhẫn nhục cả trăm thứ này mới đủ để ứng phó muôn nạn.
Từ đây, tôi giờ giờ phút phút dùng nhẫn nhục
làm tiêu chuẩn đẹp để xử sự với người. Hôm nay, đã sau nhiều năm, nhìn lại
việc cũ, tôi thầm thầm cảm nhận: Nhẫn nhục thật là lực lượng mạnh mẽ nhất
của thế giới.
* Nhẫn nhục không
phải là khiếp đảm
Tôi xuất thân từ Tô Bắc nghèo nàn, năm 12
tuổi xuất gia. Cảnh bần hàn thích hợp cho mình gắng chí. Tánh khắc khổ
chịu nhọc của tôi đều được hun đúc từ lúc này.
Năm 30 tuổi tôi dời về Đài Loan. Trong lúc
loạn lạc, vô ý đánh mất hành lí, không còn gì trong thân, chùa chiền lúc
ấy lại không nhận người ngoài tỉnh đến. Tôi chỉ đành phiêu bạt khắp nơi,
nuốt gió nằm sương qua ngày.
Nhớ lại đã từng đi trong mưa gió bão bùng, té
xuống rãnh nước bị cuốn trôi cả đỗi, cũng đã từng đi dưới trời nắng cháy,
mồ hôi ướt đẫm lưng, da đầu nổi nhọt. Cuối cùng lận đận từ Đài
Nam đến Đài Trung, nhờ ơn tiên
sinh Lâm Cẩm Đông ở chùa Bảo Giác đã cho tôi tá túc ít ngày.
Về sau tôi lại dần dà đến chùa Lôi Âm ở Nghi
Lan hoằng pháp hơn mười năm. Thời gian đó kinh tế của tôi rất quẫn bách.
Nhiều người muốn nhận làm mẹ con, anh em, quyến thuộc với tôi, thậm chí có
người còn mong tôi kế thừa gia nghiệp, tài sản nhưng tôi hoàn toàn nghiêm
trang cự tuyệt. Trong khi đó, tôi lại được tin có những đồng đạo, vì sinh
hoạt khó khăn đã ùn ùn tìm cách kiếm đường thoát ra.
Nếu như tôi lúc đó không thể nhịn đói, chịu
nghèo, há không phải cũng bị lưu chuyển theo đời hay sao? Lại làm sao có
thể gánh vác việc phát triển hoằng pháp lợi sanh ngày sau? Do đó, nhẫn
nhục không phải là khiếp đảm, mà là lúc đối diện với sự sống còn, vinh
nhục, khen chê lại có thể đủ sức phát dũng khí vô bờ giữ vững lí tưởng của
mình.
Tôi còn nhớ mười năm tham học ở tùng lâm, để
phục vụ đại chúng, ngoài giờ lao động bình thường, tôi tự nguyện làm điển
toạ nấu cơm sáu năm, gánh nước nấu trà một năm rưỡi. Lúc mới đến Đài Loan,
để đáp ơn tự viện đã cho ở, ngoài lúc lên lớp ra, tôi phát tâm làm mọi
việc khổ dịch, mỗi ngày xách sáu trăm thùng nước giếng, quét sạch lá rụng
mấy giờ liền, cả ở ngòi nước, cầu tiêu. Mỗi ngày lại kéo xe hơn mười dặm
đến chợ, mua dầu, mua củi, gạo cho hơn tám mươi chúng. Tuy tôi không rành
ngôn ngữ ở đó, nhưng nhờ công tác siêng năng mau lẹ, nên được cảm tình của
đại chúng. Nhưng có ai biết đâu, tôi thường vì sức khỏe kém mà bị nôn oẹ
hoài, luôn luôn sau cơn trời xoay đất chuyển, tôi lại lặng lẽ nghiến chặt
răng, tiếp tục việc làm dang dở.
Về sau, khi dùng văn tự Bát-nhã ra hoằng
dương Phật pháp, tôi bắt đầu rút hết ruột gan, viết lách suốt đêm. Năm
1953, tôi hoà nhập vào xã hội, thuyết pháp độ sanh. Để chuẩn bị lời lẽ,
tôi đã phí bao tâm sức hết năm này qua năm khác, có lúc suốt đêm chẳng
ngủ. Lúc mới xây dựng Phật Quang Sơn, tôi lại phải chiến đấu ngày đêm với
sơn băng, hồng thuỷ.
Gần mười năm trời, tôi như ngựa không dừng
vó, giảng kinh độ chúng khắp trong và ngoài nước, cất chùa, an Tăng, hằng
năm thi đua từng giây từng phút với thời gian có hạn. Mấy mươi năm qua,
không lúc nào không trong nhẫn nhục bận rộn, nhẫn nhục bôn ba, nhẫn nhục
lao nhọc, nhẫn nhục mỏi mệt mà vượt qua. Nhưng tôi không cho là cay đắng,
bởi vì nhẫn nhục là muốn tích cực khai mở nhân sinh, sáng tạo tiến trình
to lớn và xa xôi của Phật giáo.
* Nhẫn nhục là gánh
vác
"Anh hùng chỉ sợ bịnh đến mài!"
Tôi đem thân mình làm chứng, nhưng cũng có
mấy phen kinh nghiệm đau ốm khiến tôi khổ không thể tả. Lúc tham học tùng
lâm mười năm trời, tôi từng bị nổi nhọt, sốt rét. Tuy khổ sở khó chịu chết
đi được, tôi vẫn chưa hề tìm thầy trị bịnh, vì chính đã đem "sắc thân quay
về thường trụ, tánh mạng giao phó long thiên", chỉ biết dùng niềm tin và
thời gian trị liệu. Chẳng biết là nhờ chư Phật Bồ Tát gia bị hay do sức
nhẫn nhục đem đến, mà tôi đều lành bịnh không cần thuốc men.
Ngoài ra, cảm mạo, đau răng, đau mắt, đau đầu
đều coi như không. Do đó, suốt năm gặp cảm mạo tái phát nặng nề, đau bịnh
nghiêm trọng, tôi cũng quen nhẫn chịu tiếp tục hoằng pháp, viết lách,
thường thường đến khi công tác hoàn thành thì tôi cũng phát giác ra mình
đã lành bịnh tự bao giờ.
Mấy năm gần đây, tinh lực của tôi không còn
như trước. Bịnh tiểu đường, huyết áp cao, đau mắt, đau đùi theo nhau đến,
tứ chi, ngũ căn cũng ngày càng suy yếu, thoái hoá, cũng may mà đầu óc vẫn
trong sáng như thường, nên vẫn vân du mọi nơi, hoằng pháp lợi sanh không
dứt. Kinh nghiệm của nhiều năm qua khiến tôi thầm cảm nhận bịnh khổ của
xác thân chưa phải là thật khổ. Chỉ cần chúng ta chịu nhẫn nhục thì tự
nhiên có đủ sức gánh vác tất cả bịnh khổ. Nếu ngay lúc bịnh không biết
mình bịnh, lúc khổ không thấy mình khổ, thì tự biết lực lượng nhẫn nhục có
thể ứng phó được tất cả.
* Nhẫn nhục thành
tựu đại khí
Thời trước, sự giáo dục tùng lâm ở Đại lục
rất có truyền thống. Lúc lắng nghe bậc trưởng lão khai thị, phải chắp tay,
nếu được chỉ dạy đến mấy tiếng đồng hồ, thì lúc buông tay ra, cánh tay đã
cứng đờ không nhúc nhích nổi. Thời kì huấn luyện nghiêm khắc nhất phải kể
là lúc thọ giới, chúng tôi phải quỳ trên lớp đá lởm chởm năm sáu tiếng
đồng hồ. Lúc đứng lên, đá đã găm sâu vào thịt, hai chân đau buốt. Thầy
kiểm soát tay cầm cành dương, như bóng theo hình sát sau lưng chúng tôi,
có động tác nào không đúng tiêu chuẩn là ăn đòn liền, thử hỏi người học
ngày nay có thể chịu nổi lối giáo dục nghiêm khắc như thế không? Lúc bình
thường cũng bị đánh chửi, gậy hét hoài nhưng chưa hề nghe ai oán trách kêu
than.
Còn nhớ, có lần tôi thưa với vị gia sư rằng
có vị giáo sư ở học viện thúc giục tôi đi học trường Giáo Dục Quốc Lập.
Gia sư nghe xong mắng:
— Đồ hỗn xược! Sao lại đi học ngoài đời?
Và tát cho tôi hai bạt tai tóe lửa. Sau đó,
khi nghĩ đến việc học trường ngoài, hiện nay có rất nhiều thanh niên cống
cao ngã mạn, hiếu động phản kháng, thật khiến cho tôi nặng lòng. Bọn họ
làm sao ở thời đại lớn có thể đối mặt với mọi khiêu chiến được? Muốn thành
bậc đại khí, trong sự sinh hoạt trước tiên cần phải học nhẫn nhục: "Muốn
thành bậc long tượng trong cửa Phật, trước hãy làm trâu ngựa cho chúng
sanh". Đối với nghịch cảnh, trước nhịn ở miệng, đó là hạ nhẫn; rồi nhịn ở
mặt, đó là trung nhẫn, nếu như có thể gặp việc gì cũng không động tâm, đó
mới là thượng nhẫn.
* Nhẫn nhục không
phải là rụt rè
Lúc mới vào Phật Học Viện, tôi đã không rành
chữ Phạn, lại không thông hiểu kinh văn, do đó thường chịu sự kì thị của
bạn đồng học. Thậm chí thầy dạy cũng nghĩ là tôi không thể học nổi. Thường
thường lúc xếp bảng làm Phật sự thấy có tên, mà đến lúc làm bị bôi mất.
Làm văn bị thầy giáo phê bình chẳng chỗ nào đúng, nếu may có làm được bài
hay thì lại bị nghi ngờ là sao chép của ai. Một vị chức sự thậm chí nói
ngay với mọi người nếu tôi làm được thì mặt trời mọc ở phương Tây.
Những oan uổng uỷ khúc khác không thể đếm
xuể, nhưng tôi luôn biết rằng tất cả việc này đều là lẽ đương nhiên, không
cần suy tính gì nữa. Những việc này xảy ra đã lâu, hiện giờ đâu có ai
biết!
Lúc vừa đến Đài Loan hoằng pháp, do vì Phật
giáo chưa phổ biến, lại thêm tôi là dân ngoài tỉnh, nên thường có người
không ưa, cứ chỉ chỉ, điểm điểm, thậm chí còn ngăn trở một vài cơ hội tốt.
Cũng có người cố ý quấy nhiễu sự thuyết pháp, họ kéo đông người đến cầm
gậy, trừng trợn làm dữ. Đối với sự đối xử khác biệt này, đối với sự quấy
nhiễu hiểu lầm này, tôi xưa nay chưa hề oán hận, chỉ một lòng một dạ làm
tròn bổn phận người xuất gia. Dùng hành động để chứng minh lòng thành thật
của mình, lấy tĩnh lặng để đáp lại loạn động. Do đó nhẫn nhục không phải
là co rút rụt rè, mà là dùng tâm bình thường để đối đãi với cảnh bất bình
của nhân gian.
* Nhẫn nhục không
phải là bất lực
Thể xác bị đói lạnh, gân cốt bị lao khổ, có
thể dùng ý chí khắc phục. Những uỷ khúc trong lòng, bị người khác hiểu lầm
có thể dùng tâm bình thường đối trị. Thông thường điều khó nhẫn nhất là
danh dự vô cớ bị thương tổn, bị người cố ý mạt sát. Nhưng trong mấy chục
năm qua, những việc này, tôi hoàn toàn đã gặp đủ. Lúc còn ở Đại lục, bên
kia bảo tôi là đặc vụ của bên này, muốn giết tôi. Sang đến Đài Loan, bên
này lại bảo tôi gián điệp của bên kia, muốn xử bắn tôi.
Thời kì mới hoằng pháp, do tôi sáng lập khá
nhiều hoạt động Phật giáo mới mà bị xã hội hiểu lầm, đồng môn phê bình,
lúc thì bị những tội danh đáng bị chặt đầu, đưa vào chỗ chết. Nhưng tôi
chẳng vội vã tranh cãi, chỉ đem hết khả năng làm việc đáng làm.
Lúc trẻ, tôi nhân vì Phật giáo mà nói năng
mạnh mẽ, nhiều lần bị các nhân sĩ phê bình là phần tử dị đoan. Về sau, do
vì quan viên trong các giới quân, công, thương tìm tôi thưa hỏi về Phật
pháp, tôi lại bị nhóm "Tân Văn Môi Thể" gán là thả câu với chính trị. Toàn
là những lời đả kích rất tổn thương, nhưng tôi chẳng để ý, chỉ đạm bạc đối
xử, lặng thinh mà đáp. Quả nhiên, sự thật phát triển chứng minh lí niệm
chính xác của tôi… Thời gian đổi thay cũng lại cho tôi rõ ràng công đạo.
Do đó nhẫn nhục không phải là nhu nhược, bất
lực, mà là đối diện với huỷ báng chê bai, lại có thể chọn điều thiện để
giữ vững, không oán không hối.
* Nhẫn nhục vì lợi
người
Có người thấy tôi thường vân du hoằng pháp,
đi hành khước ở những kinh đô nổi tiếng, những thành phố lớn, vui thích
muôn phần. Kì thực sự cay đắng cá nhân ít ai biết đến.
Tôi thường chỉ vì một buổi diễn thuyết, phải
chạy trên đường cao tốc suốt một đêm. Vì một câu nhận lời, phải bay trên
trời hơn mười giờ. Gần mười năm nay, lời mời hoằng pháp không ngớt. Thường
thường do hành trình gấp gáp, mồ hôi ướt đẫm y áo mà thay chẳng kịp, đành
phải mặc y phục ướt rồi lại khô, khô rồi lại ướt. Độ ấm của bản thân cũng
theo hơi lạnh, luồng nóng ở trong nhà, ngoài nhà mà chợt lạnh, chợt nóng.
Chạy một lượt ở hải ngoại, đến thăm năm, sáu
nước là việc thường. Có lúc từ nhiệt đới đến hàn đới, có lúc chạy một vòng
địa cầu. Thuyền xe vất vả cố nhiên là cực khổ; phải thích ứng với thời
gian sai biệt, khí hậu, phong thổ, nhân tình bất đồng lại còn khó khăn
hơn. Khi tôi đến thăm Tân Đề Ly – Ấn Độ lần đầu tiên, khí trời quá nóng
nực, tối đến ngủ không được, tôi đành nằm bò trên đất viết nhật ký. Quyển
"Hải Thuyên Du Tung" được hoàn thành theo lối này.
Ba năm, vào tháng bảy, tôi lại đến thăm Ấn Độ
lần thứ bảy. Đến vùng Lạp-đát-khắc ở phía Bắc, tôi biết rõ mắc bịnh "núi
cao" đủ để chí mạng, nhưng tôi cố chịu đau đầu, sưng mặt và hít thở khó
khăn, ráng chủ trì pháp hội, thăm viếng khách khứa kéo dài cả tuần lễ.
Kinh nghiệm này không phải chỉ xảy ra một lần, nhưng tôi lại vui không
thấy mệt. Bởi vì nhẫn nhục có lúc không phải chỉ vì chính mình, mà còn vì
lợi ích người khác. Tôi tự xét Bồ Tát phát tâm xả thân để thành tựu lòng
nhân, quên mình để giữ nghĩa. Sự hi sinh nhỏ nhoi của tôi thực là ít ỏi có
gì đáng nói.
* Nhẫn nhục hoá giải
oán hận
Chịu nghèo, chịu đói, chịu bịnh, chịu khổ,
chịu nhọc, chịu đánh, chịu chửi lại còn dễ dàng, chỉ việc nhẫn mà thôi.
Còn khó tiêu trừ nhất là nhẫn hận tranh chấp.
Nhớ lúc tôi tám, chín tuổi, quê tôi thiếu
nước, dân làng chen lấn giành nước không có lối ra. Ông hàng xóm họ Giải
té chết ngay máy nước trước nhà tôi. Con ông ta là Giải Nhân Bảo đến gây
sự, nói bướng là nhà tôi làm cha y chết, đòi nhà tôi phải lo tiền chôn
cất. Người cha đôn hậu thật thà của tôi liền bị quan phủ bắt giữ. Sau may
nhờ Giải Nhân Bảo không dám ra pháp đình thẩm xét nên cha tôi mới vô tội,
được thả. Tai ách vô vọng tuy đã kết thúc, nhưng tâm linh bé nhỏ của tôi
không cách gì dẹp được nỗi oán hận. Đến lúc xuất gia rồi, nghe nói Giải
Nhân Bảo thất nghiệp, không có cách sinh sống, tôi lại trắc ẩn, bèn dẹp
oán hận, xin ân sư giới thiệu công việc cho anh ta, giải quyết vấn đề sinh
sống cho cả nhà anh ta.
Năm 1937, chiến tranh xâm lược Trung Quốc của
Nhật bộc phát, Hà Sơn đẹp đẽ bị gót sắt của quân Nhật Bản chà đạp trở
thành tan nát khó kham, vườn nhà êm ấm của tôi làm mồi cho ngọn lửa. Cha
tôi đi buôn bị mất tích giữa đường. Căn cứ theo sự điều tra có lẽ ông đã
bị hi sinh dưới mũi súng của quân Nhật.
Lúc mười một tuổi, tôi theo người mẹ góa bụa
tìm cha khắp nơi, đi đâu cũng thấy ngói bể, tường sập, thây chết đầy rừng,
càng làm đậm thêm ý thức thù Nhật trong lòng tôi. Đến khi thành nhân, tôi
tuy có cơ hội đến Nhật mấy lần, nhưng rốt cuộc vì thù nhà hận nước chẳng
đội trời chung mà dứt khoát huỷ bỏ.
Năm 1973, vì chính phủ một lần nữa mời tôi
xúc tiến việc giao lưu văn hoá giữa hai nước Hoa – Nhật, tôi nhẫn chịu nỗi
thống khổ trong lòng bao năm, ra nhận chức Hội trưởng "Hội xúc tiến quan
hệ Phật giáo Hoa – Nhật". Rốt cuộc, oan gia nên cởi, không nên buộc. Lịch
sử quá khứ cố nhiên không cho xóa hết, nhưng cứ tìm xét mãi chỉ khiến hận
thêm sâu. Tôi chỉ ghi nhớ lời giáo huấn đã chiêm nghiệm trước để ngăn ngừa
chút đỉnh, trên căn bản là xúc tiến việc cởi mở hai bên, hợp tác hỗ trợ.
Đây mới là đường lối lâu dài, an ổn.
Anh thấy chăng? Bức tường giữa Đông và Tây
Đức dựng đã lâu, nay họ đã giao lưu với nhau. Các nước Âu Châu cũng nhộn
nhịp trừ bỏ thành kiến quá khứ, thiết lập thị trường chung, cùng nỗ lực
gắng sức. Thậm chí giữa hai bên nhiều năm cừu hận, cũng nhờ một ý nghĩ của
các ông lãnh đạo mà hoá giải được.
Nhẫn nhục thật là sự rộng lượng bao dung tôn
quý nhất trong trời đất. Nhẫn nhục thật là động lực hoà bình vĩ đại nhất
trong vũ trụ.
* Nhẫn nhục là từ bi
Trong và ngoài nước, tín chúng của tôi có đến
trăm vạn người. Ở Phật Quang Sơn, đệ tử xuất gia của tôi cũng không dưới
ngàn người. Bọn họ đối với tôi cố nhiên cung kính hiếu thuận. Tôi cũng
dâng hiến cho họ biết bao tinh lực, tâm huyết. Việc lớn chẳng nêu làm gì,
chỉ nói việc nhỏ: Tôi chịu đựng tính cách sai khác của họ, chịu khó khéo
léo dẫn dụ từ từ. Tôi chịu đựng việc làm tùy hứng của họ, chịu khó ôn tồn
dạy dỗ. Tôi chịu đựng ý kiến bất đồng của họ, chịu khó theo đó điều hoà.
Tôi chịu đựng sự không giữ giờ giấc của họ, chịu khó đợi chờ…
Nhẫn nhục là một lực lượng, là một loại từ
bi, là một thứ trí tuệ, lại là một nghệ thuật. Do tôi chịu đựng, chịu khó
mới có thể thu phục họ đến cửa Phật phục vụ đại chúng.
Con nít lấy kêu khóc làm sức mạnh, nhưng một
mai đã khóc rồi, hơi sức cũng hết. Phụ nữ lấy vẻ đẹp làm sức mạnh, nhưng
một mai vẻ đẹp ra đi, khí thế cũng tiêu mất. Người lỗ mãng lấy nắm tay làm
sức mạnh, nhưng một mai xuôi tay rồi, chính khí cũng tan nát. Chỉ có người
hành Bồ Tát, họ lấy nhẫn nhục làm sức mạnh, lấy từ bi làm sức mạnh, làm
được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn, do đó có thể vỗ tay nên kêu,
bài trừ muôn khó, thành tựu công nghiệp vĩ đại, phước nước lợi dân, hữu
ích chúng sanh.
* Nhẫn nhục: Vô sanh
pháp nhẫn tối thượng
Tuy nói tôi một mực chịu nhẫn nhục, nhưng nhớ
lại cũng có lúc không nhịn được. Ví dụ như lúc tôi đang diễn giảng ở trên
đài, trông thấy bên dưới có ghế trống mà người phía sau lại không có ghế
ngồi, tôi lại ngại ngùng bất nhẫn. Lúc biết người khác bị xâm phạm, tôi
cũng phẫn hận đè ngực. Khi đệ tử làm tàng với khách khiến người không vui,
tôi cũng tới chỉ trích. Thấy nghe việc tốt không tức khắc tham dự, tôi
cũng đứng ngồi chẳng yên.
Tôi cho rằng nén hơi, nuốt tiếng, nhân
nhượng, dung bậy để được không biến đổi, chẳng phải là đạo nhẫn nhục. Nhẫn
nhục chân chính phải là đảm đương việc nhân, không nhượng bộ, chiếu cố
toàn thể đại cuộc, mưu cầu phước lợi cho mọi người.
Tôi năm nay đã gần bảy mươi tuổi, tự thẹn là
trên nhẫn nhục không ngừng học tập, đột phá trong lúc sinh hoạt. Đối với
ba cảnh giới nhẫn mà Phật dạy, tôi thể hội khá nhiều. Tôi cho rằng:
* "Sanh nhẫn" là vì sự sống còn cần phải gom
sức chịu đựng với người.
* "Pháp nhẫn" là ở tâm cảnh chuyển tư tưởng,
dùng Phật pháp để sanh trí tuệ.
* "Vô sanh pháp nhẫn" là tùy duyên, tùy chỗ
rộng xét tất cả sự vật vốn ở cảnh giới tự tại không sanh diệt.
Nếu có đủ "sanh nhẫn" thì đầy đủ dũng khí đối
diện cuộc sống. Có đủ "pháp nhẫn" thì đầy đủ lực lượng diệt trừ phiền não.
Có đủ "vô sanh pháp nhẫn" thì nơi nơi, chốn chốn không đâu không là thế
giới Đào nguyên, Tịnh độ, tự do tự tại.
Năm 1965, giáo sư Đường Nhất Huyền gần tám
mươi tuổi bảo tôi rằng: “Để người lợi dụng mới có giá trị”. Nói như thế
khác hẳn với thế tục, đã nói hết được lòng tôi bao nhiêu năm nay, không
còn ngờ gì nữa. Tôi dẫn ra để làm tri âm.
Mấy năm mới đến Đài Loan, tôi không có chỗ ở
nhất định, nhân đó thường tùy hỉ giúp đỡ người khác. Có người thích học,
tôi dạy giúp; có người làm báo, tôi biên tập giùm; có người giảng kinh,
tôi kêu gọi thính chúng đến nghe; có người xây chùa, tôi hoá duyên phụ…
Lại có mấy vị pháp sư lớn tuổi, phát biểu nói năng, sợ kể tội người khác,
kêu tôi ra mặt, nếu thấy chính đáng thì tôi chưa hề từ chối. Nhân đó một
số đồng đạo cười tôi rằng tôi toàn bị người lợi dụng đi tiên phong, làm
bia đỡ đạn.
Đến năm 1965, tôi tự sáng lập Phật Học Viện,
lão sư Đường Nhất Huyền tuổi gần tám mươi, lúc khoá học rảnh đã nói với
tôi: "Cho người lợi dụng mới có giá trị". Lời nói khác hẳn thế tục này,
không ngờ đã nói hết lòng tôi trong nhiều năm qua, tôi dẫn lấy làm tri âm
và trong mấy mươi năm tháng sau này, tôi một mực dùng niềm tin này can tâm
tình nguyện cho người là lành, bị người "lợi dụng". Vô hình trung, cuộc
đời tôi đã khai thác vô hạn giá trị.
Nhớ khi mới đến Đài Loan, vì hoằng dương giáo
nghĩa Phật pháp, nghĩa vụ của tôi là đảm nhiệm biên tập nguyệt san "Nhân
Sinh", chẳng những soạn văn, chọn bản hao tổn tinh thần vì sửa bài nhuận
bút suốt đêm, lại chính mình trả tiền giao thông, hoàn trả tiền bưu phiếu.
Trước sau đến sáu năm, người phát hành ngược lại đòi tôi phải cảm tạ anh
ta. Anh ta bảo rằng:
— Thầy lợi dụng tạp chí này để phát biểu văn
chương mà nổi danh.
Trên thế giới này, ai "lợi dụng" ai, thật khó
định đoạt.
* Tình nguyện bị Lợi
Dụng mà thành tựu thanh niên
Lúc mới truyền giáo ở Nghi Lan, tôi bày nhiều
hoạt động để hướng dẫn người trẻ tuổi. Có mấy thanh niên không thích pháp
hội cùng tu định kì và những buổi giảng khô khan, thường thường mượn cớ
vắng mặt. Nhưng họ lại cao hứng hồ hởi tham gia ca hát những bài ca Phật
giáo, những khoá trình học quốc văn. Người ngoài thường khuyên tôi không
nên uổng phí tâm cơ, theo nói với tôi:
— Mấy thanh niên này không có căn lành, chỉ
mê ca hát, hoặc định học quốc văn miễn phí, dự bị tương lai thi vào trường
học mà thôi! Bọn họ không phải thực tình tín ngưỡng Phật giáo.
Kinh Kim Cang có nói: "Sở vị Phật pháp giả,
tức phi Phật pháp, thị danh Phật pháp". Âm nhạc, ca hát chỉ cần vận dụng
cho đúng, cũng không mất "giá trị" độ người. Bồ Tát Mã Minh đã không "lợi
dụng" một khúc "Lợi Tra Hoà La" tự biên, khiến cho năm trăm đệ tử vương
tộc ở thành Hoa Thị đồng thời ngộ đạo xuất gia đó sao?
Năm 1956, tôi lên kế hoạch hoạt động tiếp dẫn
Đại Chuyên Thanh Niên Học Phật, lại có người cương quyết phản đối, lí do:
* Đại Chuyên sinh chỉ làm lãng phí đạo tràng,
hư hại thiết bị, lại không nhất định. Bọn họ chỉ lợi dụng hoạt động này để
qua cơn nhàn rỗi mà thôi! Cái lối không tính kỹ này tốt nhất không nên
làm!
Tôi lúc ấy trong mình không có một đồng một
chữ, lại bị số đông bài bác, nên mượn đất của người khác ở Đài Bắc, cử
hành Đại Chuyên Thanh Niên Học Phật. Kết quả, giáo thọ Ngô Di, giáo thọ
Tương Thượng Đức, cho đến tiên sinh Vương Thượng Nghĩa nổi danh vì bài
"Hoàng Hôn Của Chú Vịt Trời" kết duyên với Phật giáo nhân lúc này.
* Vui vẻ bị Lợi Dụng
mà rộng độ huệ mạng
Từ quá khứ đến hiện tại, chùa Phổ Môn ở Đài
Bắc mỗi kì lập đoàn Triều Sơn núi Phật Quang bắt đầu từ năm 1968, mỗi
người đóng hai trăm dollars, đến hiện nay là ba trăm dollars, gồm luôn
tiền xe, ở hai đêm, ăn năm bữa. Tính theo vật giá thì căn bản là không đủ
chi dụng. Người sắp đặt việc và cả tín đồ cũng nhiều lần phản ứng với tôi
xin điều chỉnh để quân bình chi thu, nhưng tôi đều không đáp ứng. Vì tôi
biết rằng, có thể đủ cho những người miền Bắc có thời gian và nhân tố kinh
tế giới hạn không thể đến núi, "lợi dụng" một chút phương tiện này, trồng
nhân duyên được độ, chưa từng không phải là công đức vô lượng.
Tôi xây dựng Phật Quang Sơn ở Cao Hùng. Không
bao lâu, dưới núi có một nhà hàng ăn uống khai trương tên Phật Quang. Lúc
ấy có người bảo tôi rằng:
— Sư phụ! Vì sao tên Phật Quang Sơn của chúng
ta lại để họ dùng làm bảng hiệu. Chúng ta nên ngăn họ lại, không thì người
ngoài lại lầm Phật Quang Sơn làm ăn.
Tôi cũng cảm thấy rất khó chịu, nhưng rồi
nghĩ: Phật Quang có thể chiếu soi khắp mặt đất, không phải để biểu thị
pháp lực vô biên của Phật giáo sao?
Không lâu Phật Quang Tam Thôn, Phật Quang Sa
Thạch Trường, Phật Quang Lữ Hành Xã, Phật Quang Đại Lữ Xã, trạm xăng Phật
Quang… đều lần lượt xuất hiện, thậm chí ở các nơi như Đài Bắc, Gia Nghĩa
lại có cả khách sạn lấy tên Tinh Vân của tôi mà đặt nữa. Đồ chúng càng kêu
rên hơn. Trong ngày khai hội, họ nhao nhao biểu thị kháng nghị. Tôi bảo
họ:
— Chư Bồ Tát còn đem cả thân thể, não tuỷ bố
thí hết. Một cái tên mà tính làm chi? Tên của chúng ta cứ cho người "lợi
dụng" một phen, cũng nói lên chính mình rất có "giá trị".
* Cho người Lợi Dụng
hoài mà không mong đáp
Nhiều người thấy Phật Quang Sơn bán nước ga,
tiêu thụ vật kỉ niệm liền mắng nhiếc Phật Quang Sơn thương nghiệp hoá. Kì
thực, người ngoài chỉ thấy Phật Quang Sơn cần tiền, lại không thấy chỗ
không cần tiền của Phật Quang Sơn.
Tất cả thu nhập của Phật Quang Sơn có thể nói
không phải Phật thì không làm nổi. Không những dùng để hoằng dương Phật
giáo, mà còn cần cung ứng cho việc ăn ở, sinh hoạt của ba ngàn tăng tục tứ
chúng, cho đến tiêu phí về giáo dục, phúc lợi… càng cần dùng để lo các
loại sự nghiệp Phật giáo khác nữa. Trong đó có khoảng sáu trăm học sinh
Phật Học Viện "lợi dụng" thu nhập này để học Phật tu đạo, gần một trăm nhi
đồng Dục Ấu Viện "lợi dụng" thu nhập này để nuôi lớn thân tâm, tịnh xá
Phật Quang, nhà Nhân Ái khoảng hai trăm người già không nơi nương tựa "lợi
dụng" thu nhập này an hưởng tuổi già. Lại có các đơn vị hành chánh khác
"lợi dụng" thu nhập này để hoạt động tịnh hoá lòng người. Chúng tôi không
có hằng sản, lại phải tự cấp, tự túc, ứng phó với sự chi tiêu quá lớn này,
có thể nói là đem tiền tài của mười phương "lợi dụng" cao độ, để phát huy
"giá trị" của tín thí mười phương.
Xây dựng Phật Quang Sơn đến nay, đã trải qua
không ít khó khăn. Thiên tai hồng thuỷ cố nhiên là đáng sợ, dân hung hãn
dưới núi lại càng khó đối phó. Họ lấy máy cày vây núi, dùng gậy gộc đánh
người xuất gia. Hạng này không cách gì nói lí lẽ với họ, khiến người khó
đặt niềm tin, nhưng chính là khiến người lạ lùng. Gặp Tết, dân làng dắt
già bế trẻ lên núi thăm hỏi. Lúc cứu tế mùa Đông, họ cũng dắt dìu gia
quyến đến lãnh phần chẩn tế. Một số nhân viên làm việc thấy như thế bỏ qua
chẳng được, thường kháng nghị với tôi:
— Hạng người này không có lương tâm, họ chỉ
biết đến lấy bao đỏ (tiền lì xì), lấy quà tặng, lợi dụng xong rồi qua sông
chặt cầu. Đã không nói được câu nào tử tế, lại còn đòi hỏi vô độ.
Tôi khuyên:
— Chúng ta không nên vơ đũa cả nắm. Trong số
người ấy cũng có người tốt. Huống nữa, hành Bồ Tát đạo phải nên không nhớ
cái xấu cũ, bố thí đừng mong đền đáp. Thấy họ hỉ hỉ hả hả về núi, kết
duyên lành cùng Phật Bồ Tát, chúng ta nên chúc phúc cho họ mới đúng.
Chúng ta nên mang công đức pháp tài có "giá
trị" phi phàm của chính mình, để cho người ta "lợi dụng" nhiều nhiều. Đó
là điều tôi tự hứa hẹn với chính mình.
* Dù cho bị Lợi Dụng
cũng không kể vinh nhục
Có vài nhân sĩ thuộc giới xuất bản gồm: Đài
Loan, Hương Cảng, Mã Lai, Tây Á, thậm chí cả Đại lục, đã tự động in bài vở
của tôi dù chưa có sự đồng ý. Phần trên để nguyên văn, phần dưới bỏ tên
tôi ra. Có người còn quá hơn nữa, thêm luôn tên họ vào. Một vài người thì
đổi đề bài, đổi văn tự cho kêu để hấp dẫn độc giả. Những đồ chúng theo sự
nghiệp văn hoá của tôi thường vì thế bất bình, bực bội nói:
— Những người này ăn trộm tài sản trí huệ, rõ
ràng cũng mạo phạm đến giới tôn giáo thần thánh.
Tôi thì vì thấy người hiện đại không tôn
trọng người khác, không xem trọng quá khứ mà cảm khái vạn phần. Nhân vì
lịch sử là quá trình diễn tiến của nhân loại, chúng ta mạt sát những ghi
chép của quá khứ, thì kế hoạch tương lai sẽ thế nào? Nhưng tôi chỉ đứng về
phương diện tốt mà nghĩ: Trước thuật của tôi hay được nhiều người yêu
thích coi trọng, đại khái còn có chỗ chấp nhận được. Công dụng của văn tự
Bát-nhã là ở chỗ nó không phải nơi xa nào mà không tới, thâm nhập vào lòng
người. Chỉ mong mọi người có thể chọn lấy phương pháp chính xác, "lợi
dụng" "giá trị" này để khiến Phật pháp lưu thông rộng rãi hơn.
Vì để xúc tiến tiêu thụ Tân Văn náo nhiệt,
một vài tạp chí đem việc công kích huỷ báng Phật Quang Sơn và tên tuổi tôi
làm đề tài nóng hổi. Tín đồ thấy ngôn luận đưa ra bất thực, đã đi quá đà,
họ thường lợi dụng các đường dây yêu cầu các báo này phải đăng lời xin
lỗi.
Nhớ có lần cư sĩ Lưu Phương, một nhà danh
tác, xem một bài chửi ngầm tôi. Ông nộ khí xung thiên, điện thoại từ Đài
Loan qua tìm tôi, nói rằng ông muốn liên hệ nhiều người để vận động ủng hộ
tôi. Tôi liền nói: "Không cần!". Vinh nhục cá nhân không đủ để nhớ, nhờ
đại chúng quá yêu, cá nhân tôi xin ghi sâu tạc dạ. Nhớ trong Tây Du Ký,
mọi người đều muốn ăn một miếng thịt Đường Tăng, bất giác tôi tự khuây
khoả, có bị những người này "lợi dụng" để được một bát canh, cũng chưa hề
không phải là giúp người được lợi nhiều!
* Dù bị Lợi Dụng
cũng hỉ xả không tiếc
Khi theo đuổi sự nghiệp văn hoá Phật giáo
trong quá khứ, tôi cũng cảm được mùi cay đắng. Lúc ấy tôi có chiếu cố kết
giao với vài văn nhân. Hễ có ai cần gì tôi đều giúp đỡ cả. Có lúc lại làm
người bạn không mời thỉnh, tự động duỗi tay ra giúp. Thậm chí tình huống
kinh tế của mình cũng đang không khá lắm, tôi vẫn thành tâm hiệp trợ cho
những văn hữu mà trước đây không có ý tốt với mình. Chẳng phải tôi giả
nhân giả nghĩa, giả từ bi, cũng chẳng phải là người no béo. Tôi chỉ biết
rằng tôi có được phần năng lực này, làm "lợi" cho chỗ cần của người khác,
khiến họ "dụng" xoay sở, thì biết rằng cảnh huống của tôi còn tốt hơn của
họ một chút, có tiếc gì mà không hỉ xả?
Một nhà xuất bản Phật giáo nho nhỏ, cũng xin
giúp đỡ, tôi cũng tận lực gỡ rối cho, mong họ "lợi dụng" một chút trợ
duyên này mà Phật giáo tăng thêm sự cống hiến đối với nhân tâm thế đạo.
Quá khứ, Học Viện Sa-di ở Phật Quang Sơn từng
thâu hai mươi, ba mươi chú Sa-di. Chúng tôi không từ lao nhọc, săn sóc họ
thành người. Rồi cha mẹ của một vài Sa-di lại làm ngang bắt họ về. Khá
nhiều đồ chúng cằn nhằn, họ cho rằng: Các vị phụ huynh nọ chẳng qua là
"lợi dụng" Phật Quang Sơn nuôi dùm con họ. Nhân đây yêu cầu tôi không nhận
Sa-di lên núi nữa. Nhưng tôi cứ xét đơn thâu hết, vì tôi nghĩ: Dù cho
Sa-di có bị cha mẹ mang đi hết, bọn họ từ nhỏ đã được thấm nhuần nước
pháp, ít nhất khi khôn lớn cũng có thể biết nhân quả, rõ thiện ác. Dù lăn
vào bụi trần cũng không làm điều sai trái. Lối giáo dục này, bất kể cá
nhân hay xã hội, đều rất có "giá trị".
Tạo phương tiện cho tín đồ, tôi thiết lập hội
quán Triều Sơn, cung ứng cơm ăn chỗ ở. Có vài trưởng đoàn công ty du lịch,
dặn mấy mươi bàn ăn, đến lúc lên đường chỉ đưa năm, mười đồng. Nhân viên
thủ quỹ không để yên hành vi thất đức này, cứ kiếm họ trình bày, lại bị họ
chê bai ngược lại:
— Chùa chiền không phải là tùy hỉ thêm nhang
đèn sao?
Quán trưởng nhiều lần lỗ vốn không thể phụ
giúp cho thường trụ nên đâm lo, tôi thường an ủi ông ta rằng:
— Không hề chi! Mình ăn thiếu một chút để
người khác "lợi dụng" chiếm tiện nghi, chính là khả dĩ rộng kết duyên
lành.
Sư điển toạ, hành đường ở phân viện khác cũng
thường đến than thở với tôi, mỗi lần pháp hội hoạt động, có nhiều người
chỉ lo ăn uống. Họ đến chỗ trai đường kiếm chỗ ăn uống trước, khiến những
người chân chính đến chùa nghe kinh, lễ Phật, bái sám, những tín đồ thuần
thành không có chỗ ngồi, cơm rau không đủ. Họ hi vọng tôi có thể đưa ra
một biện pháp để ngăn chặn. Tôi nói:
— Không những không cần ngăn chặn, mà các trụ
trì về sau cần phải chuẩn bị nhiều bàn ghế, cơm rau. Bởi vì dựng lập chùa
chiền là muốn Phổ Môn rộng mở, độ nhiều chúng sanh. Hà huống đây chứng tỏ
cơm rau nhà chùa nấu ngon, do đó mới có người "lợi dụng".
* Xem nhẹ việc Lợi
Dụng trong lòng có nhân quả
Tôi thường gặp những nhân sĩ xã hội chưa hề
quen biết, hoặc chính khách đang tranh cử, chuyên đến thăm viếng, cho yêu
cầu chụp hình chung. Đồ chúng ở bên cảnh báo tôi:
— Sư phụ! Thầy phải cẩn thận! Họ lợi dụng
Thầy để cho mọi người biết danh!
Một vài công ty mới thành lập muốn dựng bảng
hiệu, hay xây nhà làm đất cũng thường quảng cáo láo khoét trên Ti-vi rằng
tôi đến cắt băng khánh thành. Vì vậy có tín đồ gọi điện thoại tỏ ý bất
bình:
— Mấy người nầy "lợi dụng" tên tuổi Thầy để
câu khách. Người khác không biết nói Thầy là "Hoà thượng xí nghiệp"!
Thậm chí tôi cũng từng nhận lời đến chủ trì
khai mạc tháp Linh Cốt. Đệ tử đau lòng nói tôi quá khờ, đi xe đi thuyền từ
Nam ra Bắc mệt nhọc, chưa hề thu được một đồng, lại không biết người ta
"lợi dụng" mình kiếm tiền to.
Gần đây, có người vì muốn bán chạy các pháp
khí, tượng Phật, mà rêu rao là hàng của họ đã được tôi gia trì. Thật là
dối trá vô kể! Nhưng mà chẳng hề chi! Như quả kiểu này có thể khiến họ thu
được cả danh lẫn lợi, trừ việc nghiệp lực nhân quả đáng tiếc của họ ra,
cũng là một loại Bồ Tát đạo lợi tha của tôi.
Mười năm trước, tình huống kinh tế rất quẫn
bách. Một hôm đệ tử phát ngân viên nắm một xấp hoá đơn đến thưa:
— Sư phụ! Gần đây chúng trong chùa bị đau
răng rất nhiều. Thường trụ đã hết lòng cấp cho họ phương tiện, nhưng tiền
chữa răng rất cao. Bọn họ nhận ân huệ của thường trụ, lại thường hỗn ẩu
với người, không nói được lời tử tế. Theo con, chẳng nên xuất tiền cho họ
rất uổng.
Nhưng tôi kiên trì cho họ đổi răng tốt. Vì
tôi thà để cho họ nói lời không tử tế, chứ chẳng thể không cho họ một bộ
răng tốt, để họ tiện đem "lợi dụng" lúc mở miệng thuyết pháp, có thể khiến
tín đồ vui vẻ, được pháp bảo có "giá trị" vô thượng.
Thường đến thời kì tuyển cử, ứng cử viên luôn
đến thăm viếng thưa gởi, đệ tử tôi thường nói:
— Mấy người này bình thường không đến hộ trì,
đợi tuyển cử mới đến "lợi dụng" tăng đoàn của chúng ta có thế đông người.
Vì muốn làm tròn trách nhiệm quốc dân, mọi
người ở Phật Quang Sơn bao xe đến địa điểm tuyển cử bỏ phiếu. Ngày thứ hai
liền có hình ảnh, chữ nghĩa trên báo, đề tài là: "Phật Quang Sơn Hâm Mộ
Chính Trị". Đồ chúng đưa báo cho tôi xem, giận dữ nói:
— Mấy ký giả này lợi dụng chúng ta để viết
báo!
Tôi nghĩ: Nếu quả việc này có nói lên sự
thành công của hiến pháp chính phủ dân chủ và lực lượng của Tăng đoàn Phật
giáo, cũng chưa hề không chứng minh "giá trị" của chúng ta.
Thường có người hỏi tôi vì sao mà biết giảng
kinh như thế? Kì thực nói ra xấu hổ. Lúc mới bắt đầu hoằng pháp, tôi chẳng
những không thể giảng được vừa lòng người, lên đài lần nào cũng phát run,
nhờ tín đồ thương giúp đỡ, đủ cho tôi thực tập không ngừng, mới được thành
tựu chút ít như ngày nay. Bây giờ, tuy tôi đã là Hoà thượng thối cư, nhưng
vẫn không từ lao khổ, nhận lời mời đi khắp nơi khai thị. Đồ chúng trong
lòng bất nhẫn, thường khuyên tôi nghỉ hoài. Bọn họ đâu biết tôi chính đang
"lợi dụng" cơ hội này để báo đáp ân đức của đại chúng!
*
Người bị người Lợi Dụng thành tựu đại lợi ích
Phật Quang Sơn một mặt đề xướng phước huệ
song tu, giải và hạnh cùng coi trọng. Do đó Phật Học Viện có đặt ra khoá
trình làm việc ngoài trời, mượn đây để rèn luyện thân tâm học sinh. Một
vài vị khách không biết sự tình, lên núi trông thấy, thường nói:
— Các học sinh này thật đáng thương quá! Bị
chùa chiền lợi dụng làm công không!
Một hôm, một học sinh lanh lợi vui vẻ đáp:
— Chúng tôi đang "lợi dụng" công tác này để
tu đó!
Đồng một sự tình lại có hai cách nói, thuyết
minh "giá trị" trong tâm mọi người không đồng. Tự nhiên khổ vui cũng có
chỗ sai khác.
Tôi giảng kinh hoằng pháp trong xã hội đã
lâu, thường tiếp xúc với nhân sĩ các giới, trong đó không thiếu những nhân
vật chính trị đến xin chỉ dạy Phật pháp. Nhân đó khiến người liếc mắt chê
bai là "Hoà thượng chính trị". Ban đầu tôi không cho là đúng, lâu dần
trong lòng thư thái ra, ngẫm nghĩ: Đức Phật luôn luôn ra vào vương cung,
thuyết pháp cho đại thần quý tộc, há cũng chẳng thành "Phật-đà chính trị"
sao? Còn đại sư Huyền Trang vì hoàng đế mà bàn về quốc sự, cho đến những
vị quốc sư nhiều đời phò tá triều chính thì lại nói sao?
Phật pháp Trung Quốc trải qua nhiều phen giáo
nạn, mà có thể như phụng hoàng tắm lửa tái sanh, các bậc trên ủng hộ Phật
giáo toàn tâm toàn lực, thật là công không thể mất. Ngoài ra, quốc gia xã
hội cũng nhân sự phục hưng mạnh mẽ của Phật giáo mà "chính thân nhân hoà".
Lịch sử thực sự của những đời này cũng đều thấy rõ rằng "lợi dụng" không
nhất định chỉ có đủ ý nghĩa theo mặt trái mà lại có thể tạo thành lợi ích
mọi người.
Do đó, chúng ta chẳng cần so đo tính toán ai
"lợi dụng" ai. Nhân vì tất cả sự tướng thế gian đều là hỗ tương duyên
khởi, nguyện cho mọi người nhất tề được hưởng thành quả của hỗ tương "lợi
dụng" để có thể phát huy "giá trị" tối cao của "lợi dụng" vậy.
Phật pháp giảng "Không" là phải "không" các
chấp trước, "không" các hai bên, "không" các giả tướng, "không" các đối
đãi, để lại cấp cho chúng ta một thế giới chân thật.
Lúc tôi mới xuất gia, vâng lệnh thầy là
Thượng nhân Chí Khai đến Luật Học Viện Thê Hà học. Có một hôm, pháp sư
Giác Dân là Giáo thọ Quốc văn viết lên bảng mười chữ: "Dĩ Bồ-đề vô pháp
trực hiển Bát-nhã Luận", bắt chúng tôi lấy đó làm đề bài viết văn. Lúc ấy
tôi mới mười hai tuổi, từ khi đi học chưa hề nghe hiểu qua một câu kinh,
mà mười chữ này lại giống như Thiên thư, khiến tôi mò chẳng nhằm bờ mé,
chỉ đành đông sao tây chép, mơ mơ hồ hồ mà nộp bài. Cho đến về sau, tôi
trải qua bao thế sự tang thương, lại nhiều lần giảng Tâm kinh và kinh Kim
Cang, ngay khi nhớ lại đề mục năm xưa, mới bỗng dưng đại ngộ: "Bồ-đề vô
pháp" là "không", "trực hiển Bát-nhã" là "hữu", đúng ý nghĩa của câu nói
chính là "phải không, mới có thể có".
Người trên thế gian thường thường đem "không"
và "có" chia thành hai vật chẳng đồng, cho rằng cái "không" chẳng phải là
"có", cái "có" chẳng phải là "không". Nhưng khi Phật giáo giải thích chân
lí vũ trụ nhân sinh, nhận là "không" rồi, mới có thể "có"; chẳng không thì
chẳng có. Ví như tách trà không mới có thể đựng nước, ví da
không mới có thể bỏ tiền, nhà cửa không mới có thể có người ở,
đất đai không mới có thể xây lầu, thậm chí lỗ mũi không mới
có thể hô hấp, lỗ tai không mới có thể nghe tiếng, cái miệng
không mới có thể nhai nuốt, bao tử, ruột không mới có thể chứa
thức ăn, chẳng "không" làm sao "có" được chứ?
Không, sự thực là chân lí có tánh kiến thiết
rất giàu có, chỉ vì rất nhiều người hiểu lầm ý nghĩa của "không", thậm chí
cho rằng trời cũng không, đất cũng không, thế gian cũng không, là một sự
việc đáng sợ biết bao! Kì thực, "không", nghe dường như là chẳng có gì cả,
nhưng hư không chẳng phải là bao la vạn tượng, ưng có đều có đó sao?
"Không", nhìn dường như là không hình không tướng, nhưng hư không vào
vuông thì vuông, vào tròn thì tròn, chẳng phải là có đủ công dụng đối đãi
siêu việt, không chỗ nào chẳng có tướng đó sao?
"Không" của Phật giáo, là dùng để thuyết
minh: Sum la vạn tượng đều là do nhiều thứ điều kiện họp lại mà thành, do
đó chẳng những trong vũ trụ không có sự vật nào tồn tại độc lập, mà giữa
đây kia đều có đủ quan hệ hỗ tương dựa vào nhau mà sống còn. Quan hệ, điều
kiện nói ở đây, trong Phật giáo gọi là "nhân duyên". "Trung Luận" của ngài
Long Thọ nói:
Các pháp nhân duyên sanh
Tôi nói tức là không.
Lại nói: "Vì có nghĩa không, nên tất cả pháp
được thành. Vì không có nghĩa không, nên tất cả pháp chẳng thành". Do đây
có thể thấy, Phật giáo giảng "không", là muốn "không" các chấp trước,
"không" các hai bên, "không" các giả tướng, "không" các đối đãi, để đem
lại cho chúng ta một thế giới chân thật. Nhân đây, "không" chẳng những
không có tánh phá hoại, mà lại là bản thể xây dựng vũ trụ nhân sinh. Kinh
nói: "Nếu muốn biết được cảnh giới Phật, nên tịnh ý mình như hư không".
Chúng ta nếu như có thể triệt ngộ lí "không", khiến tâm lượng của chính
mình rộng lớn được như hư không, bèn có thể lí sự viên dung, sự sự vô
ngại.
Đức Phật sau khi lên cung trời Đao Lợi thuyết
pháp cho mẹ suốt ba tháng, trở về nhân gian, đệ tử nghe tin này, tranh
nhau nghinh đón, Tỳ-kheo ni Liên Hoa Sắc vận dụng thần thông, đến trước
mặt đức Phật đầu tiên, cung kính lạy dưới chân Phật và nói:
— Đệ tử Liên Hoa Sắc là người đầu tiên tiếp
đón Phật-đà.
Đức Phật lại nói:
— Người đầu tiên đến tiếp đón ta không phải
ngươi, mà là Tu-bồ-đề đang ở trong hang núi tại thành Vương-xá ngồi yên
quán không. Có thể thấy được chân lí "không" mới là người chân
chính thấy Phật-đà.
Lại có lần, đức Phật trên hội Linh Sơn, cầm
một hạt châu như ý đổi màu, hỏi Thiên vương bốn phương:
— Các ông nhìn xem hạt châu như ý này màu gì?
Thiên vương bốn phương xem xong, có người nói
là màu xanh, có người nói là màu vàng, có người nói là màu đỏ, người thì
nói là màu trắng, Phật-đà bèn thâu châu như ý lại, rồi xòe tay ra, hỏi bọn
họ:
— Hạt châu ma-ni hiện ở trong tay ta đây màu
gì?
Các Thiên vương không hiểu chỗ chỉ trong tâm
Phật, không hẹn mà cùng trả lời:
— Bạch Thế Tôn! Trong tay Ngài hiện tại căn
bản không có gì, có bảo châu như ý nào đâu?
Đức Phật bảo bốn Đại Thiên vương:
— Ta đem châu thế gian tầm thường cho các ông
xem, các ông đều biết phân biệt màu của nó. Nhưng lúc bảo châu đích thực ở
trước mắt các ông, các ông lại nhìn mà chẳng thấy, thật là điên đảo biết
bao!
Đích xác, người đời điên đảo, chấp trước cái
có huyễn ảo, mê mình theo vật, nhân đây, lúc có thu hoạch thì vui mừng hớn
hở, lúc có mất mát thì buồn rầu khổ não, lúc mọi việc thuận lợi thì hưng
phấn vô cùng, lúc gặp khó khăn thì thất vọng gục đầu, tâm tính của chính
mình hoàn toàn bị ngoại cảnh dẫn dắt mà chẳng biết. Nếu như chúng ta có
thể nhận biết tất cả sự vật thế gian đều là vô thường chẳng thật, dùng
chân lí "không" để điều hoà và thống nhiếp quan niệm đối đãi này, như thế
bất kể có cũng tốt, không cũng tốt; khổ cũng tốt, vui cũng tốt; khó cũng
tốt, dễ cũng tốt; vinh cũng tốt, nhục cũng tốt, chốn chốn nơi nơi đều có
thể làm đến "nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia" như trong kinh Kim Cang
nói, thì bèn có thể không đâu chẳng trụ, cuộc đời như thế không phải là
rất giải thoát tự tại sao?
Nhớ lúc tôi vừa đến Đài Loan, trong mình
không có một vật, nhưng tôi không thấy nghèo, cũng không thấy khổ. Vì được
giáo dục trí huệ "không" của mười năm ở tùng lâm khiến tôi cảm nhận một cá
nhân không cần lấy vật chất dồi dào làm đầy đủ, thử nghĩ trong bầu trời,
trăng sao nhấp nháy khả dĩ cho tôi tự do thưởng thức; trong công viên, cây
cối bông hoa chen chúc khả dĩ cho tôi mặc tình ngắm nghía; ở phố chợ,
đường sá khả dĩ mặc tôi bước đi; thiên nhiên, chim, thú, trùng, cá khả dĩ
tùy ý tôi kết duyên. Tôi cảm nhận sâu xa sự giàu có của ba ngàn đại thiên
thế giới, lại từ đáy lòng cảm tạ đức Phật vĩ đại, Ngài ngàn cay muôn đắng
thể nghiệm ra lí "không", để tôi có thể tuân theo, học tập, bắt chước,
hưởng dụng. Do tôi có một trái tim "không" rỗng tiếp nạp tất cả, giờ giờ
khắc khắc đều đem thái độ cảm ân, biết đủ ra phục vụ, dâng hiến. Kết quả
vì chính mình mang đến rất nhiều cơ duyên. Do tôi dùng một trái tim
"không" linh động tiếp đãi sự vật, nơi nơi chốn chốn đều đem pháp hỉ vô
hạn đầy lòng ra hoằng pháp độ chúng, kết quả vì Phật giáo khai thác trời
đất mới toanh. Tôi thể hội được chân đế "phải không mới có thể có", thực
tại là kho báu cuộc đời lấy hoài chẳng hết, dùng hoài không cạn.
Tôi đã hiểu ra chính mình đến thế gian, là
"không không" mà đến.Sinh sống trên thế gian, là "không không" mà sống;
nhân đây tôi đối với sở hữu trên thế gian, cũng hiểu là "không không" mà
có. Năm 1947, tín đồ cúng dường tôi một biệt thự hoa viên tinh tế để dùng
tiến tu. Tôi lấy tên là tinh xá Phổ Môn, đẹp thì đẹp, nhưng tôi không nhận
làm sở hữu của mình. Nhân đây, tôi vào năm 1957, "không" bỏ cái phòng này
rồi, ở phố Tam Trọng huyện Đài Bắc thành lập nơi phục vụ văn hoá Phật
giáo, vì văn hoá Phật giáo mà nỗ lực, về sau nhân vì việc Phật sự hưng
thịnh, không đủ sử dụng, dời đến bên cạnh Viên Hoàn đường Trung Chính phố
Cao Hùng và phụ xây thêm một nhà Ấu Trĩ Viện. Ba năm sau, có xét việc bồi
dưỡng Tăng tài mới là cơ sở căn bản của Phật giáo, tôi lại "không" bỏ
phòng xá yên tĩnh và ấm cúng trên mảnh đất hoàng kim này đến Phật Quang
Sơn hoang vu vắng vẻ. Theo lối này, đem "không" gian nhỏ đổi lấy "không"
gian lớn. Như nay sự nghiệp Phật giáo được làm càng lúc càng lớn, đạo
tràng Phật giáo xây dựng càng lúc càng nhiều, nhưng tôi chẳng thấy lớn,
cũng chẳng thấy nhiều, thậm chí tôi chẳng thấy tự mình "có", nhân vì tôi
nhận ra rằng tất cả những cái này đều là sở "hữu" của đại chúng, tôi chẳng
qua chỉ là một nhân duyên trong đó mà thôi.
Thường có người hỏi tôi:
— Phật Quang Sơn có nhiều kiến trúc to lớn
như thế, thậm chí có viện chia ra hơn một trăm gian. Kinh phí to tát như
thế từ đâu ra?
Tôi đều bảo họ:
— Là từ "không" mà ra.
Lấy ngay Phật Quang Sơn mà nói, nó vốn là một
núi đất tre gai mọc đầy cỏ hoang lấp chân, không có người nào chịu khai
khẩn, huống là nói chuyện ở, nhưng trải qua sự chai tay, chai chân của đại
chúng, một phen nỗ lực rồi, chẳng phải là "trong không sanh diệu hữu" sao?
Phật Quang Sơn sở dĩ có thể từ núi hoang trở
thành thánh địa, đúng như lí niệm mà lúc vừa mới khai sơn tôi đã đề xuất:
"Lấy không làm có, lấy lui làm tiến, lấy không làm vui, lấy chúng làm
mình". Cũng như lúc khai quang ở Đại Phật Thành, tôi nói pháp: "Lấy nước
suối Tây Lai, chọn đá cát Cao Bình, gộp sức người toàn cầu, xây dựng Đại
Phật tối cao". Chính nhân vì là các duyên hoà hợp, do đó là nghĩa "không"
tạo thành; chính nhân vì tôi "không" không nghèo thiếu, do đó đông tay nên
việc, góp gió thành bão. Như nay tại Phật Quang Sơn, có ba ngàn người sinh
hoạt, ăn uống, tôi đã không có điền sản ông bà để lại, lại không kinh
doanh buôn bán như thế tục, thậm chí cổ phiếu, bán trả góp tôi đều dốt đặc
cán mai, tôi chỉ là có lòng cất chùa, an Tăng, lo cho người. Nhưng mà thật
lạ lùng, bất kể tôi đến đâu, đồ chúng đều rất sợ tôi nói một câu:
— Tôi không muốn ở đây, tôi muốn đi!
Có thể thấy nhân sinh thế sự đúng như Tâm
kinh nói, không chỗ được mà được mới là thật được. Từ sự vật có hình có
tướng mà tìm lấy, dù cho chiếm hữu cũng chẳng phải thật có.
Trên xã hội, nhân vì người không hiểu rõ Phật
pháp mà hiểu lầm nghĩa không, cố nhiên khó tránh khỏi, người đối với Phật
pháp hiểu biết nửa vời mà chỉ lầm nghĩa không, cũng vẫn có nhiều người. Ví
như có số người cho là tất cả đều không, vô thường huyễn hoá, chẳng nên
chấp trước, do đó cái gì cũng chẳng còn; có số người hiểu được tất cả đều
không, phải kịp xa lìa sớm, chẳng nên tham giữ, do đó chủ trương tự tu tự
độ; thậm chí có số người khoe khoang thế trí biện thông, đem nghĩa "không"
làm hoa tai mắt người. Kì thực, nếu như chấp trước vào cái không chấp
trước, chẳng phải cũng là một loại chấp trước sao? Tham giữ sự thanh tịnh
vô vi, cũng chẳng phải là một loại tham giữ sao? Không biết vờ ra vẻ biết,
lại không phải là cách làm dối mình, dối người sao? Số người này đã không
cách gì tương ưng với chân lí "không", lại làm sao có thể "có" Phật pháp
chân thật thọ dụng chứ?
Như đức Phật, xuân hạ thu đông đều mặc một y
phấn tảo, cố nhiên thấy tự tại nhàn nhã, dù cho có khoác y đính vàng của
vua ban, cũng không mảy may kiêu ngạo. Đã có thể trà thô cơm lạt qua ngày,
cũng có thể dùng miếng ngon vật lạ; đã có thể ăn dưới gốc cây, gội sương
dầm gió, cũng có thể an trụ lầu quỳnh điện ngọc; đã có thể chính mình ở
riêng rừng núi, cũng có thể cùng ở chung với bốn chúng đệ tử; lúc được tôn
sùng cúng dường trước sau như như chẳng động, lúc bị người huỷ báng dèm
pha cũng không hầm hầm nổi giận. Đức Phật đối với phú quý bần tiện, cùng
thông được mất, thiện ác sạch nhơ, tốt xấu cao thấp, đã chẳng bận tâm cũng
không trôi xuôi theo đời. Tùy cảnh ngộ mà an như thế này, đem tinh thần lí
"không" vào sinh hoạt thực tế chính là "sự giàu có" lớn nhất của Phật
giáo, cũng là di sản lớn nhất mà đức Phật để lại cho người sau.
Bồ Tát Đề-bà và những Cao tăng đại đức như
đại sư Huệ Tư…, tuy nhiều lần bị người ác độc hại, thậm chí bị đặt vào chỗ
chết, nhưng vẫn không giảm bi nguyện phá tà hiển chánh, hoằng pháp độ
sanh, từ những trước tác của các ngài, chúng ta có thể biết được. Cái tinh
thần "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi", "nhẫn nhục vác nặng, sanh tử nhất
như" này, cũng đều là bắt nguồn từ sự tu hành lâu dài đạt được trí huệ
"không" của Bát-nhã.
Tôi từng đã bị đồng đạo chèn ép, cũng từng bị
giáo đồ đạo khác phá hoại; tôi từng trải qua vô số lần gặp cản trở, cũng
từng qua nhiều lần bị người vu cáo mà trở thành đối tượng của đơn vị điều
tra an ninh, thậm chí nhân vì bị hiềm nghi làm gián điệp mà nếm mùi lao
ngục. Tôi sở dĩ có thể không oán thù, không hối hận, không khuất phục,
không nhiễu loạn, nhiều lần ngã xuống đứng lên, vượt hiểm như chơi, là
nhân vì tinh thần vô ngã phụng hiến của cổ Thánh tiên Hiền, trước sau như
ngọn đèn sáng trong bóng tối chiếu soi lên tôi, để tôi khởi lòng tin và
dũng khí vượt bực. Tâm kinh nói: Nếu có thể "chiếu kiến ngũ uẩn giai
không", là có thể "độ nhất thiết khổ ách", thật chẳng phải lời hư dối.
Có một học Tăng hỏi thiền sư Duy Khoan:
— Đạo ở đâu?
Thiền sư Duy Khoan đáp:
— Chỉ ở trước mắt.
— Sao con không thấy?
— Vì ông có "ngã" do đó không thấy.
— Con còn "ngã" nên không thấy; như thế,
Thiền sư thì sao? Ngài thấy rồi chăng?
Thiền sư đáp:
— Có "ngã", có "nhân", càng thấy chẳng được.
— Nếu như không "ngã", không "nhân", thấy
được chăng?
— Không "ngã", không "nhân" ai có thể thấy
đạo chứ!
Chỗ nói: "mượn giả tu chân", trên thế gian,
tất cả mọi sự vật cố nhiên là huyễn hoá đều không, đối đãi nhau mà có.
Nhưng chúng ta cũng phải ở trong nhân sự mình người duyên khởi tạm có này
mà tu trì. Bằng không, làm sao thể chứng chân đế "chân không chẳng ngại
diệu hữu, diệu hữu chẳng ngại chân không" được? Nhân đây, khi tham học ở
tùng lâm trong mười năm, tôi tuy lấy tham thiền đả toạ, lễ Phật, niệm Phật
làm công khoá của mình, cũng từng có cảnh giới hồn nhiên vong ngã, mất cả
thân tâm, nhưng tôi chỉ đem tôn giáo quý báu này thể nghiệm sự chân tu
thực học vào trong sinh hoạt thực tế; hoàn toàn không vọng tưởng vào núi
đóng cửa thất. Tôi từng đã chích máu chép kinh, cấm túc tịnh khẩu, quá ngọ
không ăn, khổ hạnh làm việc, nhưng tôi đều xem chúng là quá trình rèn
luyện thân tâm, hoàn toàn không chấp trước bất cứ việc gì trong đó. Tôi
từng thăm viếng, học hỏi ở các danh lam cổ sát, trải qua luật, giáo,
thiền, đối với việc tu trì chuyên môn của từng tông tôi nhận rằng có chỗ
hay để thâm nhập một môn. Nhưng tôi vẫn chủ trương Phật giáo nhân gian,
tám tông cùng hoằng dương; cho dù tôi chịu sự giáo dục vô tình vô lí,
nhưng tôi về sau đối với đồ chúng của mình lại chọn lấy phương thức "từ –
nghiêm cùng trọng".
Từng có một vị cư sĩ tại gia hỏi thiền sư Trí
Tạng:
— Có thiên đường, địa ngục hay không?
Thiền sư trả lời rằng:
— Có.
— Có Phật Bồ Tát hay không?
Thiền sư vẫn đáp: "Có".
Tóm lại, bất kể anh hỏi cái gì, thiền sư Trí
Tạng đều đáp: "Có".
Vị cư sĩ này nghe xong, nói:
— Lạ thật! Con đem vấn đề này hỏi thiền sư
Kính Sơn, Ngài đều nói: "Không".
Thiền sư Trí Tạng hỏi ông ta:
— Ông có vợ không?
Cư sĩ đáp:
— Có.
— Ông có con cái không?
Cư sĩ vẫn đáp: — Có.
— Thiền sư Kính Sơn có vợ không?
Cư sĩ lại đáp:
— Không có.
— Thiền sư Kính Sơn có con cái không?
Cư sĩ vẫn đáp: — Không có.
Thiền sư Trí Tạng nghiêm trang nói:
— Thiền sư Kính Sơn không có vợ con, do đó
nói với ông "không". Ta nói với ông "có", vì cư sĩ có vợ con mà!
Công án giống như thế cũng phát sinh ngay với
thiền sư Triệu châu, người ta hỏi Ngài: - Con chó có Phật tánh không? Ngài
cũng lúc thì trả lời "không", lúc thì đáp "có". Đây là vì chân lí chỉ có
một, có – không chỉ là hai mặt của chân lí, nhưng chân lí là do người mà
khác, thiền sư nói có hoặc nói không, chỉ là theo từng mặt bất đồng mà
thuyết minh chân lí có ở khắp nơi. Do đó, người thọ giáo cố nhiên phải nên
như "hư không", tiếp nhận tất cả, mới có thể tiếp thu học tập sự vật đã
có. Người chỉ dạy, cũng cần phải giống như "hư không", có đủ mọi hình
tướng mới có thể đạt được hiệu quả của đồng sự nhiếp thọ.
Trong 50 năm hoằng pháp sinh nhai, tôi đã lội
khắp các sự nghiệp Phật giáo: Giáo dục, văn hoá, từ thiện, cộng tu… tuy
biết rõ chuyên làm một loại có thể giảm thiểu nhân lực, vật tư, nhưng tôi
vẫn là nhiều hạng cùng làm. Tôi từng nhiều lần vùng thôn quê dân dã bố
giáo, cũng thường đến thành thị đô hội hoằng pháp. Tôi chú trọng giáo dục
thanh niên, thiếu niên, cũng vì phụ nữ, người già mở lớp dạy học. Tôi xếp
đặt các loại hoạt động hiện đại, nhưng cũng chẳng bỏ lơ pháp hội truyền
thống. Mặc dù để trù tính các thứ, ắt phải không từ rắc rối, động não
không ngừng. Nhưng thật như kinh Lăng Nghiêm nói: "Quy nguyên vô nhị lộ,
phương tiện hữu đa môn" – Về nguồn không hai đường phương tiện có nhiều
cửa. Chúng sanh chẳng phải ở trong phương tiện nhiều cửa này mà được khải
phát sao? Phật giáo cũng chẳng ở phương tiện nhiều cửa này mà phát triển
sôi nổi sao?
Đến nay tôi vì tuổi đã cao, mang theo thân
già bịnh mới giải phẫu, mỗi ngày đối mặt với hành trình đã sắp đặt đầy ắp,
nhưng tôi chẳng thấy bên thân có người, có việc, do đó tôi có thể đồng
thời giải quyết rất nhiều việc, cũng có thể đồng thời tụ tập người bất
đồng, thuyết giảng đề tài bất đồng. Tôi chẳng thấy đến nơi này, đến nơi
kia, do đó tôi có thể nằm gối mà ngủ, cũng có thể ngồi xe mà ngủ. Tôi có
thể ở trên máy bay thuyết pháp, cũng có thể ở trong tàu lặn khai thị. Có
người hỏi tôi:
— Có bí quyết nào mà có thể mặc tình tiêu dao
như thế?
Tôi thường đem chuyện thiền sư Đạo Thọ kể cho
mọi người, thuyết minh chỗ hay của lí "không" thuận theo tự nhiên, thực
tiễn:
Chùa do thiền sư Đạo Thọ xây cất ở gần đạo
quán của đạo sĩ. Các đạo sĩ vì thấy chùa ở bên cạnh chịu không nổi, do đó
mỗi ngày đều tìm cách nhiễu loạn Tăng chúng. Lúc thì hô phong hoán vũ, sái
đậu thành binh; lúc thì gió thổi điện xẹt, bóng ma chàng ràng. Quả nhiên
không ít các Sa-di nhỏ tuổi sợ quá bỏ đi. Thiền sư Đạo Thọ chẳng hề sợ
hãi, một mình ở đấy hơn mười năm. Cuối cùng pháp thuật của đạo sĩ đã dùng
hết sạch, chỉ đành bỏ đạo quán, dời đi nơi khác.
Có người hỏi thiền sư Đạo Thọ:
— Bọn đạo sĩ pháp thuật cao cường, Ngài làm
thế nào thắng được họ?
Thiền sư Đạo Thọ đáp:
— Tôi chẳng có pháp thuật gì, chỉ dùng một
chữ "không" thắng họ thôi.
— "Không", làm sao có thể thắng họ được chứ?
— Bọn họ có pháp thuật, "có" là có hạn, có
cùng, có tận, có lượng, có bờ mé; còn tôi không pháp thuật, "không" là
không giới hạn, không cùng, không tận, vô lượng, vô biên. Do đó cái
"không" của tôi biến hoá, phải hơn cái "có" của bọn họ biến hoá.
Tại đây xin khuyên người đời: "Có" thì có
được, có mất, "có" là cái có hạn, có ngại. Nhân đây tìm cái "có" chân
thật, chẳng thể tìm trong cái "có" hư ảo. Nếu như anh có thể có tư tưởng
"không", dù cho gặp nguy nan bách hại, cũng chẳng có mất mát, ngược lại
càng có thể hiển xuất chí khí lỗi lạc của anh. Đây có thể so với việc rút
dao chém nước, không cách gì ngăn trở dòng sông trôi chảy. Nếu như anh có
thể ôm giữ thái độ "không", dù cho sinh hoạt ngay trong ngũ dục lục trần,
cũng không bị ảnh hưởng, ngược lại càng có thể thể hội ra sự hàm chứa
phong phú bên trong. Đây bèn như mặt gương không bụi, có thể rõ ràng ánh
hiện vạn vật. Nhân vì chỉ có "không", mới có thể "có" đấy!
Nguyên tắc làm việc của tôi là: Dụng tâm để
thành tựu tất cả, dùng trí huệ để thành tựu tất cả, mà không cần dùng tiền
bạc xây đắp tất cả. Bởi vì trí huệ mới là nguồn vốn quý báu nhất của nhân
loại.
Có một lần Phật Quang Sơn cử hành hội giảng
tập về tài vụ cho đồ chúng. Tôi hỏi mọi người dự hội:
— Các ông biết Phật Quang Sơn xử lí tài vụ có
nguyên tắc gì không? Mời mọi người giơ tay phát biểu.
Trong nhóm người đông đảo, pháp sư Y Đế quản
lí tài vật giơ tay đầu tiên, ông từ chỗ mình đứng lên nói:
— Con nhớ rất rõ ràng là, Sư phụ thường nói
"Phải dùng trí huệ thay thế tiền bạc".
Đúng vậy, tôi một đời ngay trong nguyên tắc
xử lí tài vụ, việc trọng yếu nhất chính là "Dùng trí huệ thay thế tiền
bạc". Phàm việc không nhất định phải dùng tiền bạc để trang nghiêm tất cả,
nhưng cần dùng trí huệ để trang nghiêm thế gian.
Quá khứ có một câu tục ngữ: "Có tiền có thể
sai quỷ xay bột", nói rõ cách nhìn của một loại người. Kì thực một cá nhân
bất kể giàu có đến đâu, có lúc tiền tài chẳng phải là thứ vạn năng. Kinh
Phật nói: "Tài vật là sở hữu chung của năm nhà". Năm nhà tức là lửa lớn,
nước lớn, trộm cắp, quan lại tham ô và con cháu hư đốn. Năm nhà này đủ
khiến tiền tài của chúng ta bị tiêu huỷ mất hết. Lại, hà huống tiền bạc
cũng không phải là thứ vạn năng. Nhiều tiền có thể mua được tôi tớ, nhưng
không mua được duyên với người; nhiều tiền có thể mua được quần chúng,
nhưng mua chẳng được lòng người; nhiều tiền có thể mua được cá thịt, nhưng
không mua được sự ngon miệng; nhiều tiền có thể mua được lầu cao nhà lớn,
nhưng không mua được tự tại; nhiều tiền có thể mua được y phục hoa mĩ,
nhưng không mua được khí chất; nhiều tiền có thể mua được cổ phiếu, nhưng
không mua được tâm ý đầy đủ; nhiều tiền có thể mua được giường nệm, nhưng
không mua được giấc ngủ. Điều trọng yếu nhất chính là – nhiều tiền mua
được vật chất thế gian, thậm chí sách vở, nhưng không mua được trí huệ,
nhân đây "trí huệ" mới là nguồn vốn quý báu nhất của nhân loại.
Như thời đại Xuân Thu Chiến Quốc những nhà
thuyết khách đi dạo qua các nước Yên, Tề, Hàn, Nguỵ, Tần, Sở, Triệu dập
tắt khá nhiều trận binh lính tàn sát, chính vì họ có trí huệ biện tài. Mưu
sĩ sau một buổi nói chuyện với quân vương, thường thường lên địa vị cực
phẩm, cũng là vì họ có đầu óc trí huệ. Gia Cát Khổng Minh tuy bắt đầu từ
áo vải, nhân lực, vật lực và địa lợi đều không bằng Tào Tháo, Tôn Quyền
nhưng vì ông ta có sách lược trí huệ, do đó có thể đọ sức với cường quyền
mà vẫn an ổn trong đất Thục. Cuối cùng trọn có thể cùng với Nguỵ, Ngô tạo
thành thế chân vạc. Do đó các triều đại về sau, đế vương thường đối với
việc truyền ngôi, không những chọn lựa vị thầy trí huệ siêu quần cho thái
tử mà còn đưa địa vị của họ lên tới chức Thừa tướng. Ở trong các loại binh
pháp, các nhà quân sự đều vận dụng trí huệ, bày mưu lập kế trong gian nhà
nhỏ mà quyết thắng ở ngoài ngàn dặm; đời nay chế độ "nội các" trong nền
dân chủ lập hiến cũng là nhân vì ban đầu quyết định phương châm chính sách
của quốc gia ở trong một phòng nhỏ, do đó có danh xưng này. "Nội các" xem
ra không lớn, nhưng trí huệ vô biên, thậm chí kéo một sợi tóc động cả toàn
thân, có thể ảnh hưởng đến tình thế thật sự của quốc gia. Ngoài ra, văn
minh nhân loại sở dĩ ngày đi ngàn dặm, không phải do tiền bạc tạo được mà
là kết tinh "trí huệ" của đông người như Tất-thăng phát minh ấn loát bằng
bảng kẽm khiến cho sự truyền bá tri thức tiến thêm một bước nữa. Ngoã-đặc
phát minh máy chạy hơi nước mang lại cách mạng công nghiệp, anh em Lai-đặc
phát minh phi cơ rút ngắn khoảng cách của thế giới. Amstrong bước lên mặt
trăng lại viết một trang đánh dấu về việc khám phá vũ trụ của thời đại.
Hai ngàn sáu trăm năm trước, Phật giáo rất
coi trọng việc tu hành bằng trí huệ và gọi trí huệ tối thượng thừa là
Bát-nhã. Trí huệ thông thường có thiện có ác, nhưng "trí huệ Bát-nhã" thì
thuần thiện vô nhiễm. Trong kinh điển nói "trí huệ Bát-nhã" như mắt có thể
dẫn đạo năm độ còn lại đến bờ kia viên mãn, lại nói "trí huệ Bát-nhã" là
mẹ của chư Phật, vì chư Phật mười phương đều từ trí huệ Bát-nhã mà đản
sanh. Như sở dĩ Bồ Tát Văn-thù đứng đầu các Bồ Tát, và là thầy của bảy đức
Phật, chính là vì Ngài sở trường về "trí huệ Bát-nhã". Sở dĩ Xá-lợi-phất
làm đệ tử thủ toạ của đức Phật, và được làm Sư phụ thế độ cho Sa-di đầu
tiên là La-hầu-la, cũng vì Ngài có "trí huệ Bát-nhã". Đồng nữ Diệu Huệ có
thể được chư đại Bồ Tát lễ kính là vì trí huệ siêu phàm, có thể nói điều
người chưa thể nói, bàn những điều người ta chưa thể bàn. Sở dĩ Long Thọ
được tôn làm chủ chung cả tám tông Phật giáo cũng là vì Ngài trí huệ hơn
người, viết sách lập thuyết, phá tà hiển chánh.
Tôi từ bé sinh trưởng trong gia đình nông
thôn nghèo khổ, thường thường áo cơm chẳng đủ, dứt khoát nghĩ đến phải
dùng "Trí huệ thay thế tiền bạc". Ví như lúc trời hè, cháo để cách ngày đã
có mùi thiu, người làng phần nhiều đều dùng lá hẹ bỏ vào trong, nấu lại
một lần, là có thể tiêu trừ mùi khó chịu. Cơm rau còn thừa, cũng biết để
chỗ mát mẻ, có thể duy trì không hư, ngày thứ hai lại có thể ăn nữa. Dù
cho chụm một cây củi, tôi cũng nghĩ làm sao để lửa cháy lâu hơn một chút.
Viết một phong thư cũng là đem phong bì cũ đã xài lật ngược ra dùng thêm
một lần nữa. Cho đến xuất gia học Phật, do ở chỗ chính đang trong thời đại
khói lửa mịt mù, dân sinh khốn khổ, kinh tế chùa chiền càng thêm túng
thiếu. Tăng lữ phần đông đều trải qua cuộc sống thanh bần, vớ, đế giầy
rách bèn lấy miếng bìa dầy vá lại, áo quần rách một lỗ, lấy giấy báo hồ
thành giấy cứng thay vải vá mạng lại. Tôi ở trong các hoàn cảnh đó học
được trí huệ "lợi dụng vật phế bỏ". Lúc tôi học ở Phật Học Viện, đã từng
tự tay dùng cành cây, bản gỗ đóng một giá bóng rổ rất khó làm, cũng thường
lấy cơm thừa, rau thừa nấu thành một nồi cơm xào ngon lành, cùng hưởng với
bạn đồng học. Nhân đây, tôi thường rất tự hào nói: "ngay cho là binh tàn
tốt bại, tôi cũng muốn như Hàn Tín, có thể điều hoà chế ngự thành một ông
thầy thắng lợi".
Như nay tôi thấy người hiện đại, cũng cho là
kinh tế phát đạt, đủ phương tiện mua sắm, muốn vật gì, đều là vừa nghĩ đến
cần bèn mua ngay. Tôi thường nghĩ nếu như có vật "thay thế" vì sao lại sai
lầm để phí tiền chứ! Như đồng soạn viết văn chương trọng ở chỗ trôi chảy
thông suốt, biểu đạt được tình ý, tôi không quá tính đến sự đối chỉnh, nắn
nót văn tự. Do đó khi tôi phê sửa bản thảo, nếu như chữ có ý nghĩa tương
đồng, có thể thay thế, thì dù cho văn từ đẹp hơn, tôi cũng không tùy tiện
sửa đổi của người. Vật phẩm cũng như thế, trọng ở chỗ thực dụng rộng rãi.
Tôi không nhất định đòi dùng đồ nghệ thuật chạm trỗ tinh vi – Như tượng
Phật ở Phật Quang Sơn đều không phải loại điêu khắc bằng vàng, bạc, cây,
đá mà là bằng xi-măng. Nhưng bên ngoài trang nghiêm đạo mạo, hoàn toàn có
thể phát khởi tín tâm, đạo niệm của tín đồ, nhân đây mỗi năm thiện nam tín
nữ đến đây triều bái vượt quá mấy ngàn vạn người trở lên.
Tôi nhớ nhiều năm về trước, lúc đi Ấn Độ,
từng thấy một cặp lồng đèn bằng đá Đại Lí điêu khắc tinh xảo đẹp đẽ, trị
giá hơn 10 vạn Đài-tệ, Từ Huệ đảm nhiệm chức Viện trưởng Đô Giám Viện ở
Phật Quang Sơn rất vừa ý, xin tôi mua về trang trí điện Phật. Tôi hỏi cô
ta:
— Con sợ Phật Quang Sơn không có vật gì cho
mấy tên trộm nhỏ ham muốn chăng? Con làm việc lâu như thế, chẳng lẽ không
biết toàn Phật Quang Sơn tuy nhiều điện đường như thế, nhưng Thầy xưa nay
đều không lo lắng có người khởi tâm ăn trộm. Con có bao giờ nghĩ đến
nguyên nhân tại sao không?
Từ Huệ bỗng nhiên đại ngộ. Nhiều năm sau cô
bàn đến việc này, thường bảo với mọi người: Cô theo đây học được "trí huệ"
khéo dùng nhân duyên. Một người khéo biết nhân quả, không những chính mình
không gieo nhân ác, mà còn biết suy nghĩ chu đáo, không để người khác gieo
nhân ác, do đó chẳng sanh ra quả báo ác.
Tôi chẳng những không tiêu món tiền đắt đỏ để
mua đồ dùng, khí cụ; thậm chí Phật Quang Sơn rất nhiều bàn ghế làm việc
đều là từ những đồ vật cũ ở những cửa hàng công ty của người khác đóng cửa
khuân về, có một số đồ dùng trong nhà thì là tín đồ đào thải đổi mới mà bỏ
đi không dùng, chúng tôi chọn về sử dụng đến nay. Đồ dùng của chúng cố
nhiên như thế, đồ dùng tư nhân cũng vậy, dù cho một chiếc đũa, một cái
chén, nó cũng có mạng sống, tôi cũng dùng đi dùng lại cho đến cùng, để
sinh mạng của nó kéo dài. Thậm chí Phật Quang Sơn có trên trăm ức kinh phí
kiến thiết, tôi cũng chưa hề mua cho chính mình một cái bàn làm việc,
không phải tôi không biết xài tiền, nhưng tôi không tiêu tiền cho chính
mình. Lúc Phật Quang Sơn kiến thiết thời kì đầu, không có kiến trúc sư,
không có văn phòng làm việc, đương nhiên càng không có bàn làm việc, tôi
và thầu khoán Tiêu Đỉnh Thuận đều đứng trên đường so tay vẽ chân một phen,
từng toà, từng toà kiến trúc bèn hoàn thành. Nguyên tắc làm việc của tôi
là: Dùng "tâm" để thành tựu tất cả, mà không cần dùng tiền bạc sắp xếp tất
cả.
Nhớ lúc mới khai sơn, tôi cũng mời một vị
kiến trúc sư họ Lưu giúp tôi thiết kế một bản sơ đồ chùa lầu to lớn, ngay
khi ông ta đưa mô hình thiết kế cho tôi xem, tươi cười hớn hở nói: "Kiến
trúc của đại lầu này, cho dù một trăm năm sau, vẫn là rất hợp với trào lưu
thời đại". Tôi lập tức bảo ông ta: "Một trăm năm sau chúng ta đều không
còn trên thế gian nữa, huống là kiến trúc chùa chiền trọng yếu nhất là
trang nghiêm, thực dụng, chứ không ở dạng thức tân trào". Từ đó về sau
Phật Quang Sơn không còn mời kiến trúc sư thiết kế nào nữa.
Tuy không có kiến trúc sư thiết kế, nhưng bề
ngoài của Đại Hùng Bảo Điện Phật Quang Sơn phú lệ đường hoàng, bao nhiêu
năm qua, không biết được bao nhiêu người khen đẹp, ngay cả Viên Sơn Đại
Phạn Điếm, sau này lúc muốn sửa sang tu bổ, bà Tưởng Tống Mĩ Linh đều từng
phái người đến đòi lấy bản đồ thiết kế của chúng tôi về tham khảo, kì thực
ngoài kiến trúc Đại Hùng Bảo Điện kiên cố ra, chẳng có bản đồ thiết kế nào
hết. Như sắc thái của cột kèo chạm vẽ là tác phẩm nghiên cứu của một thợ
sơn dầu của nước tôi, mà mọi người đều khen đồ án tuyệt đẹp của trần nhà,
chẳng qua là ba tấm ván ép vẽ sơn dầu lên mà thôi. Do đó, chúng ta không
nhất định cần dùng tiền bạc để làm việc, phát huy "trí huệ" của chúng ta,
hoàn toàn có thể đạt được hiệu quả làm chơi ăn thật.
Có hôm tôi đứng ở cổng Phật Quang Sơn vào
giữa trưa, quan sát đồ chúng từng chiếc xe, từng chiếc xe liên tiếp hai ba
cái mở máy vào thành làm việc. Lúc đó tôi rất ngạc nhiên: Vì sao mọi người
không ngồi cùng một xe xuống núi, như thế một lần đi, không phải đã có thể
làm việc, lại có thể tiết giảm nguồn năng lượng ư? Tuy "Phật Phật đạo
đồng, quang quang vô ngại" nhưng "nhà tối ngàn năm, một đèn tự sáng", nếu
như một đèn có thể bằng vô tận đăng, cũng đâu hề xấu?
Tôi nhớ hơn ba mươi năm trước, lúc giới Phật
giáo chưa có người nào dùng xe hơi, tôi vì phương tiện hoằng pháp, mua một
chiếc xe tải-tạp-đa (vận tải) chín chỗ ngồi. Vì không đủ chuyên môn, mời
công xưởng sửa thành xe chở hai mươi sáu người. Mỗi lần ra cửa, tôi đều
kêu gọi học sinh đồ chúng cùng lên xe, tình cảnh "đều rất hoan hỉ" đó, đến
nay nghĩ lại, vẫn thấy thú vị vô cùng. Do đó tôi thường bảo đồ chúng: Tiết
kiệm là "trí huệ", nhẫn nại là "trí huệ", khéo xử lí là "trí huệ", có thể
nắm lấy cương lãnh của muôn vật trên thế gian, hoá rối rắm thành đơn giản,
vận dụng tự tại, có thể để đại chúng dùng, chính là một loại "trí huệ".
Người hiện đại, những vật phẩm nào không
dùng, dù có tâm thái yêu tiếc, đem cất vào trong kho, tôi cũng thấy là
lãng phí, vì một khi cho vào kho rồi, chẳng còn nghe hỏi đến, vật còn tốt
cũng như phế vật. Do đó tôi chủ trương không sắp đặt kho lẫm, vì chỉ cần
anh biết vận dụng, đồng nát sắt vụn cũng đều có thể dùng vào việc lớn. Do
đó trên cơ bản, ở thế gian không có vật đáng bỏ. Nếu như chính mình không
xài, thì có thể để người khác sử dụng, đó là một loại khảo nghiệm "trí
huệ".
Nhớ ba, bốn chục năm trước, tôi hi vọng đánh
động được thái độ tĩnh lặng của Phật giáo, thường thường tổ chức một số
hoạt động xã hội. Có người phê bình tôi: "Không có tiền còn bày hoạt động
gì?". Kì thực tôi bày hoạt động, tất cả đơn giản, không những không tốn
tiền gì, mà lại còn dư, vì bày ra hoạt động có thể rèn đúc tư tưởng, ngưng
tụ lực lượng, cái giá trị này không phải là cái mà tiền bạc có thể so sánh
được. Do đó tôi ra sức dẹp các lời bàn tán, từng lần từng lần sắp đặt,
chẳng những thu hút khá nhiều thanh niên học Phật, mà còn đào tạo một số
đông cán bộ trung thành rất mực. Chúng tôi đồng tâm hiệp lực, đem Phật
giáo từ Nghi Lan phát triển đến từng ngõ ngách ở Đài Loan, từ trong nước
phát triển đến mỗi thành thị trên thế giới. Gần mười năm qua, chúng tôi đã
tổ chức được một mô hình hoạt động lớn, như "Trở về thời đại đức Phật",
"Pháp hội Thiền – Tịnh – Mật tam tu", "Chuyến tàu hoạt động Từ bi ái tâm",
"Pháp hội cung nghinh răng Phật cầu phước", "Hội liên hoan quyên góp quỹ
Đại Học Phật Quang" cho đến hằng năm tại Quốc Phụ Kỉ Niệm Quán cử hành mô
hình toà giảng Phật học to lớn… khiến cả hàng vạn người đến tham gia, mọi
người trông thấy trên đài dưới đài bay bổng nhảy múa, trang nghiêm đường
hoàng, trên thực tế trừ rất nhiều người làm việc nghĩa đến trước phụ giúp
ra, khá nhiều đạo cụ đều là tự chúng tôi chế ra, dùng vải vụn chắp vá mà
thành, thậm chí tự mình mặc áo tràng đắp y, trang nghiêm bề mặt của hội
trường, vô hình trung phát huy được lực lượng tịnh hoá lòng người, lại
khẳng định tiền bạc không phải là cái vạn năng, chỉ có ban rải "trí huệ"
của Phật pháp, dùng từ bi dung hoà đại chúng, mới có thể khiến xã hội
chúng ta càng thêm an hoà lợi lạc.
Trong kinh Phật có ghi: Một vị trưởng giả tên
Thiện Sanh được một hộp mạ vàng làm bằng gỗ Chiên Đàn Hương rất hiếm có
trên thế gian, ông ta lập tức tuyên bố với mọi người:
— Tôi muốn đem bảo bối hiếm có này dâng tặng
cho người bần cùng nhất trên thế gian.
Rất nhiều người bần cùng đến trưởng giả Thiện
Sanh để đòi cái hộp mạ vàng này nhưng trưởng giả Thiện Sanh lại nói:
— Anh không phải là người bần cùng nhất trên
thế gian.
Mọi người nghĩ là ông ta thật tình không có ý
muốn cho cái hộp vàng này. Nhân đây yêu cầu ông ta nói ra xem người bần
cùng nhất trên thế gian là ai? Trưởng giả Thiện Sanh liền bảo mọi người:
— Ông ta chẳng phải ai khác, chính là quốc
vương của chúng ta.
Nhà vua nghe nói việc này, trong lòng rất
giận dữ, phái người bắt trưởng giả Thiện Sanh đến, rồi đưa ông ta xem
phòng kho thu chứa trân bảo, trong đó vàng bạc tiền của nhiều không thể
kể. Nhưng trưởng giả Thiện Sanh vẫn cho nhà vua là người bần cùng nhất
trên thế gian, vì nhà vua tuy có tiền, lại không biết làm việc phước lợi
cho nhân quần.
Kì thực "người giàu mà rất nghèo hèn" như nhà
vua, trên thế gian nhiều không kể xiết, tôi may mắn được huân tập rèn
luyện trong Phật pháp, biết được "trí huệ" mới là kho báu chân chính của
đời người. Tuy tôi không có tiền, nhưng tôi rất biết dùng tiền, như chùa
miếu ngày trước có được tiền liền xây thêm Phật điện, nhưng tôi lại dùng
để xây dựng giảng đường và nhà hội, vì tôi biết thân là người xuất gia
phải vận dụng "trí huệ" của mình hướng ra xã hội, hoằng pháp lợi sanh,
không nhất định đem trách nhiệm hưng long Phật pháp giao cho Phật Tổ trong
Đại Hùng Bảo Điện. Chùa chiền ngày trước có được tiền, bèn đặt thêm khí cụ
trang nghiêm, nhưng tôi lại dùng để xây dựng nhà hội nghị và nhà đàm
thoại, vì tôi muốn để cho đạo tràng tự viện thành điện đường trí huệ. Chùa
chiền ngày trước có tiền rồi bèn mua sắm nhà đất ruộng vườn, nhưng tôi lại
dùng để mở trường học, làm tạp chí, vì tôi muốn đem trí huệ của đức Phật
truyền bá mười phương. Thậm chí chùa chiền ngày trước một khi có tiền dư
bèn cất chứa, nhưng tôi lại đem tiền dùng vào những sự nghiệp văn hoá,
giáo dục, hoằng pháp, từ thiện…, đến nỗi đem tiền dự tính cho sang năm,
năm sau nữa đều xài sạch trong năm nay. Nhưng tôi xưa nay chưa có nhân đó
mà phiền não, vì lối nhìn của tôi đối với tiền là "mười phương đến, mười
phương đi, cộng thành việc mười phương". Huống nữa không có tiền thì không
có phân tranh lại không có vì con cháu để lại mối hoạ. Hơn bảy mươi năm,
tôi xưa nay chưa từng vì mình mà giữ một chút tiền, tôi biết rằng đây là
một lối làm rất có "trí huệ".
Tôi chẳng những ở trên việc chi xuất nắm giữ
tác phong "dùng trí huệ thay thế tiền bạc" mà ở trên việc thu nhập tôi
cũng theo "trí huệ" đại chúng mà để mắt, không phải dùng tiền bạc để kế
toán đủ thiếu. Như một bộ Phật Quang Đại Từ Điển giá thành cần 7000 đồng
Đài-tệ mới, nhưng tôi chỉ bán ra mỗi bộ 4000 đồng, kết quả người mua chen
nhau. Một bộ Trung Quốc Phật Giáo Bạch Thoại Kinh Điển Bảo Tạng giá thành
cần 11000 đồng Đài-tệ mới, tôi bán giá một nửa, lập tức tăng thêm mức tiêu
thụ năm ngàn bộ, đã giảm bớt tiền kho chứa, cũng khiến thêm nhiều người
cùng hưởng "trí huệ" của Phật giáo. Tôi chỉ là muốn hoằng đạo, há là người
mưu lợi? Nhưng ban đầu lúc tôi đề xuất kiến nghị này, bao nhiêu đồ chúng
đều không cho là đúng!
Nhớ bốn mươi năm trước, tôi lập "Hội in kinh
mỗi tháng", giúp thêm tiền in mỗi bản một đồng, ngay cả giá thành ấn loát
đều không đủ, nhưng tôi có thể duy trì không thiếu, mỗi tháng lại có dư dả
in thêm nhiều bản kinh, vì người tham gia ấn hành, hoàn toàn không kể số
mục nhiều ít; về sau tôi lập "Hội trợ in Phật Quang Tiểu Tùng Thư", mỗi
bản tiền trợ in chỉ thu mười đồng, mỗi năm Tiểu Tùng Thư đưa ra trăm vạn
bản trở lên. Chẳng cần xem chỉ một cuốn sách mỏng mỏng nhỏ, nó chẳng biết
khiến bao nhiêu người thất ý cùng đường gặp được lối thoát, khiến bao
nhiêu vợ chồng bất hoà gương vỡ lại lành. Lực lượng của trí huệ này, đâu
là chỗ tiền bạc có thể so sánh?
Hơn ba mươi năm trước lúc Học Viện Phật Giáo
Đông Phương bắt đầu xây dựng, một phòng học giá thành là 18 vạn đồng,
nhưng mà tiền công đức quyên hiến một phòng học chỉ đòi năm vạn đồng, đồ
chúng đảm nhậm tính toán lúc đó không ngớt đến nói với tôi:
— Sư phụ, một phòng học giá thành 18 vạn
đồng, Thầy chỉ thu năm vạn, thế này không được đâu. Chúng ta sẽ thiếu
tiền, dựng không nổi.
Tôi cũng biết năm vạn đồng, không đủ giá
thành, nhưng tôi dùng phương thức này, ở trên toàn thế giới xây dựng mười
sáu học viện Phật giáo, dùng "trí huệ" của Phật pháp không biết vì giới
Phật giáo tăng gia bao nhiêu sự nghiệp, bồi dưỡng bao nhiêu nhân tài.
Lúc mới khai sơn Phật Quang Sơn, mỗi năm cử
hành pháp hội Vạn Duyên, phàm người tham gia, chúng tôi vì họ tiêu tai cầu
phúc, mỗi người chỉ thâu một trăm đồng, ngay cả tiền cơm cũng không đủ.
Đoàn xe triều sơn từ Đài Bắc đến Phật Quang Sơn ở Cao Hùng, tiền ăn ở ba
ngày hai đêm năm bữa cơm, chúng tôi cũng chỉ thâu hai trăm đồng, ngay cả
tiền xăng dầu đi về cũng không đủ. Nhóm đệ tử đối với việc này đều không
ôm thái độ lạc quan, cho rằng tôi thế nào cũng lỗ vốn. Nhưng như thế nhiều
năm qua, Phật Quang Sơn chẳng những không nhân đây mà đóng cửa, trái lại
người đến thăm viếng càng ngày càng đông. Tôi thường nghĩ: Nếu như một
trăm người đến, trong đó có thể có một người biết được cái hay đẹp của
Phật pháp, và đem diệu pháp trở về gia đình, mang đến xã hội, quốc gia,
chẳng những là phước của Phật giáo, cũng là phước của đại chúng. Do đó,
chúng tôi không cần dùng tiền bạc cân nhắc tất cả sự việc, nhất là Phật
pháp là cái vô giá, chúng ta nên lưu thông rộng rãi, để mọi người đều hiểu
được cách dùng trí huệ đến trang nghiêm thế giới này.
Xã hội hiện tại, mọi người mở miệng ngậm
miệng đều là tiền, thậm chí báo chí truyền bá cũng thường suy đoán xem ai
có tiền, ai không có tiền? Phật Quang Sơn cũng nhân đây thường mắc nạn cá
ao, như mấy năm trước có người tính xem nhà cửa đất đai của Phật Quang Sơn
có bao nhiêu, về sau lại có người đem tài sản của đoàn thể tôn giáo xếp
tên, kết quả Phật Quang Sơn trố mắt ra mà nhìn. Kì thực, chẳng kể Phật
Quang Sơn có tiền hay không tiền, kiến thiết của Phật Quang Sơn đều không
phải là dùng tiền bạc mà xây cất, cũng không phải là của cá nhân, mà là
của vạn vạn ngàn ngàn người Phật Quang cùng có, là cái dùng sự thành tâm,
trí huệ, lao lực của họ xây dựng nên. Do đó tôi biết rằng: Từ Phật Quang
Sơn cho đến nhìn tất cả sự nghiệp đoàn thể, chẳng cần nhìn tiền có nhiều
ít, nên nhìn phần tử hợp thành dùng trí huệ của họ làm được bao nhiêu
việc, thành tựu bao nhiêu công đức. Thử hỏi sự phát tâm của họ có thể tính
đến cùng tận không?
Trước mắt, giới ngoại giao có nói "tiền bạc
ngoại giao", giới công thương có nói "tiền đẻ ra tiền", trên xã hội có
câu: "Chủ nghĩa thờ tiền", trên quốc phòng cũng chủ trương tiêu bao nhiêu
tiền để mua vũ khí. Kì thực ngoài "tiền bạc ngoại giao" ra, chúng ta lại
có thể vận dụng "trí huệ" để tiến hành văn hoá ngoại giao, tôn giáo ngoại
giao. Ngoài "tiền đẻ ra tiền", chúng ta phải nghĩ đến sự trưởng thành của
kinh tế chỉ là một chỉ tiêu của sự giàu có. Nâng cao phẩm chất của đại
chúng, đề cao trình độ trí huệ của nhân dân mới là cái trọng yếu nhất.
"Chủ nghĩa thờ tiền" đã mang đến tai hại vô cùng cho xã hội; truyền bá
quan niệm giá trị chính xác cho đời sau, để bọn họ đều đầy đủ trí huệ xử
thế làm người, mới là việc làm gấp. Mua sắm vũ khí tự vệ thật là trọng
yếu, nhưng cái trọng yếu hơn là tư tưởng quan niệm bảo vệ quốc gia, cho
đến toàn thể quốc dân đều phải có đủ trí huệ lâm nguy bất loạn, bền bỉ bất
khuất. Bởi vì cái có thể đánh ngã chúng ta không phải là người khác, mà là
sự ngu xuẩn tự lợi của mình. Như nay, ở trong hiệu ứng cốt-bài (mũi nhọn)
của kinh tế suy thoái, ở hiện tiền thế cuộc chiến tranh loạn lạc khắp nơi,
hi vọng mọi người có thể truyền bá quan niệm "dùng trí huệ thay thế tiền
bạc". Tiền bạc cố nhiên khẩn yếu, trí huệ càng trọng yếu hơn, để dân chúng
của chúng ta không vì sự có – không của tiền bạc mà lay động chí tiết, để
xã hội của chúng ta có trí huệ cao hơn để khảo nghiệm khi đối diện với
nguy nan.
"Trí huệ! Trí huệ!" Chúng ta phải hô to: "Trí
huệ Bát-nhã mới là thế gian chí bảo!".
--- o0o ---
Source: http://www.daouyen.com
Trình bày:
Linh Thoại
Cập
nhật
ngày: 01-01-2004
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục