Kinh
Lăng
già
tiêu
biểu
cho
một
bộ
phận
văn
học
sâu
rộng
và
đặc
biệt
quan
trọng
cho
sự
hiểu
biết
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Giống
như
kinh
(Diệu)
Pháp
(Liên)
Hoa
và
các
kinh
Bát
nhã
Ba
la
mật,
kinh
Lăng
già
là
một
tác
phẩm
lớn
có
rất
nhiều
tập.
Nó
phức
tạp
về
ý
tưởng
và
về
lối
sáng
tác
văn
chương.
Các
học
giả
xác
định
niên
đại
tác
phẩm
văn
viết
này
ở
vào
cuối
thế
kỷ
thứ
IV
Tây
lịch.
Mặc
dầu
về
niên
đại
xuất
bản
thì
có
thể
được
chấp
nhận,
nhưng
về
mặt
ý
tưởng
thì
nó
đã
có
trong
thời
kỳ
phôi
thai
và
đã
được
các
vị
Tổ
Bắc
truyền
như
Vô
Trước
(Asanga0
và
Thế
thân
(Vasubandhu)
phân
tách
và
hệ
thống
hóa.
Vì
cả
hai
vị
đều
sống
vào
thế
kỷ
thứ
IV
Tây
lịch,
nên
chúng
ta
sẽ
phải
đặt
vị
trí
việc
thành
lập
các
giáo
thuyết
Kinh
Lăng
già
trước
khá
xa
thời
gian
đó. Ðiều
này
phù
hợp
với
những
gì
tôi
đã
nói
trước
đây
về
nguồn
gốc
và
tính
chất
xác
thực
của
văn
chương
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
nói
chung.
Dù
sao,
chúng
ta
đã
thấy
nhiều
ý
tưởng
phôi
thai
của
phái
Bắc
truyền
cũng
có
trong
kinh
điển
phái
Nam
truyền
(Tiểu
thừa)
(xem
Chương
14).
Kinh
Lăng
già
là
đại
diện
căn
bản
cho
văn
học
kinh
điển
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Ta
có
Du
già
tông
(Ðại
nhựt
tông,
Mật
tông
Tây
tạng,
Chơn
ngôn
tông
Nhật
bản,
Yogachara),
trường
phái
xác
nhận
sự
hợp
nhất
của
Thiền
quán
và
Hành
động;
Duy
thức
tông
(Vijnanavada),
trường
phái
cho
rằng
chỉ
có
Thức;
và
Duy
tâm
(Chittamatra),
trường
phái
cho
cái
Tâm
là
độc
nhất
(Duy
Tâm).
Văn
học
Trí
huệ
Bát
nhã
Ba
la
mật
nói
chung
hình
thành
nền
móng
kinh
điển
của
trường
phái
Trung
Ðạo
(Madhyamaka).
Cũng
như
vậy,
kinh
Lăng
già
và
một
số
các
kinh
khác
hình
thành
nền
móng
kinh
điển
của
trường
phái
Du
già
và
Duy
thức
tông.
Cũng
xin
nhớ
rằng,
các
Pháp
của
trường
phái
này
cũng
có
thể
tìm
thấy
trong
các
Pháp
của
trường
phái
kia,
và
ngược
lại. Trang
150.
Giáo
lý
mà
nhờ
đó
kinh
Lăng
già
nổi
tiếng
là
tính
ưu
việt
của
(tâm)
thức.
Ðôi
khi
nó
được
gọi
là
giáo
lý
Duy
Tâm,
hay
cái
bản
thể
độc
nhứt
của
thức.
Kinh
nói
với
những
từ
rõ
ràng
không
nhầm
lẫn
rằng
3
cõi
dục
giới,
sắc
giới
và
vô
sắc
giới
là
chỉ
do
chính
tâm
mà
thôi.
Nói
một
cách
khác,
tất
cả
các
sự
vật
có
nhiều
dạng
của
thế
giới,
các
danh
và
các
sắc
của
kinh
nghiệm
chỉ
là
những
biểu
hiện
của
tâm.
Kinh
Lăng
già
nói
rằng
sự
bất
lực
của
chúng
ta
để
thoát
ra
khỏi
sự
phân
biệt
giữa
các
ý
niệm
‘chủ
quan
-
đối
tượng’
là
nguyên
nhân
của
tái
sanh
trong
luân
hồi
sanh
tử.
Ngày
nào
không
giải
thoát
khỏi
sự
phân
biệt
đó,
ngày
đó
ta
tiếp
tục
bị
tái
sanh
trong
luân
hồi.
Vì
thế
chính
cái
khả
năng
làm
ta
thoát
khỏi
các
ý
niệm
đối
đãi
‘chủ
-
khách’
là
chìa
khóa
giác
ngộ. Nhưng
‘Duy
Tâm’
là
gì
mà
Kinh
Lăng
già
muốn
nói
đến?
Ðó
có
phải
là
cái
tâm
quan
sát,
thực
nghiệm,
cái
tâm
tham
dự
vào
những
hoạt
động
của
6
thức
không?
Rõ
ràng
đấy
không
phải
là
cái
tâm
này.
Cái
tâm
mà
Kinh
muốn
nói
đều
vượt
qua
và
tiêu
diệt
các
ý
niệm
đối
đãi
về
hiện
hữu
-
phi
hiện
hữu,
giống
-
không
giống,
thường
-
vô
thường.
Nó
vượt
qua
các
ý
niệm
về
ngã,
bản
thể
và
nghiệp
quả.
Nó
cũng
vượt
lên
trên
ý
niệm
nhân
quả.
Theo
Kinh,
tất
cả
các
ý
niệm
đều
là
sản
phẩm
của
sự
tưởng
tượng
giả
tạo
hay
‘phân
biệt
sai
lầm’
(biến
kế,
vikalpa).
Cái
tâm
mà
Kinh
nói
không
tham
dự
vào
những
ý
niệm
đối
đãi.
Từ
điều
này,
rõ
ràng
cái
tâm
mà
Kinh
đề
cập
một
cách
chính
xác
là
‘tánh
không’
(shunyata)
mà
kinh
văn
Bát
nhã
Ba
la
mật
đã
diễn
đạt. Nếu
cái
tâm
mà
Kinh
Lăng
già
nhấn
mạnh
vượt
qua
các
ý
niệm
đối
đãi
về
hiện
hữu
-
phi
hiện
hữu,
giống
-
khác,
v.v...vậy
thì
cái
thực
thể
bất
nhị
của
nó
biểu
hiện
như
thế
nào
trong
các
sự
vật
đa
dạng
của
thế
gian?
Kinh
Lăng
già
và
cả
trường
phái
Duy
Tâm
đã
trả
lời
chi
tiết
bằng
hệ
thống
Tám
loại
thức.
Nó
bao
gồm
sáu
thức
ta
hằng
quen
thuộc
trong
tín
ngưỡng
Phật
giáo
nói
chung
(năm
thức
hiện
lên
cùng
với
năm
giác
quan,
và
thức
thứ
sáu,
tức
ý
thức,
hiện
ra
cùng
với
khả
năng
của
tâm).
Hai
loại
kế
là
thức
chứa
hay
tàng
thức
(A
lại
da
thức,
alaya-vijnana)
và
trí
phiền
não
(klishtamanas--
mana=mạn,
kiêu
căng).
Tám
thức
này
tạo
thành
căn
bản
triết
lý
của
Du
già
tông
(Yogachara)
và
Duy
thức
tông
(Vijnanavada). Kinh
này
đã
dùng
thí
dụ
để
mô
tả
tiến
trình
phân
chia
đối
nghịch
từ
một
tình
trạng
tâm
không
đối
đãi,
chơn
đế
thành
một
tình
trạng
tâm
tách
vỡ
ra
từng
mảnh,
do
bởi
6
thức
quan
sát
mà
chúng
ta
kinh
nghiệm
trong
đời
sống
hàng
ngày.
Thí
dụ
này
là
biển,
gió
và
sóng.
Dưới
biển
sâu
yên
tĩnh
thế
nào
thì
tàng
thức
A
lại
da
sâu
kín
cũng
thế.
Bị
gió
chuyển,
mặt
đại
dương
mới
khuấy
động
thành
sóng,
những
sóng
này
quay
tròn
và
quay
cuồng
mãi.
Cũng
vậy,
chiều
sâu
yên
tĩnh
của
tàng
thức
A
lại
da
bị
khuấy
động
bởi
ngọn
gió
phân
biệt,
gây
ra
sóng.
Sáu
thức
quan
sát
kia
cũng
vận
hành
tương
tự
như
vậy. Thủ
phạm
chính
là
‘trí
phiền
não’
(klishtamanas,
Trí
Mạt
na)
gây
khổ
sở
vì
ngọn
gió
phân
biệt.
Chính
vì
phương
tiện
của
trí
phiền
não
này
mà
sự
phân
biệt
mới
xãy
ra.
Trí
phiền
não
Mạt
na
là
trung
gian
giữa
Tàng
thức
và
6
thức
thực
nghiệm.
Chúng
ta
có
thể
gọi
trí
phiền
não
Mạt
na
là
cái
tôi
nguyên
tắc,
nguyên
tắc
của
tính
cá
nhân
hiện
hữu
(individuation)
hay
phân
biệt. Tàng
thức
giữ
một
vai
trò
đặc
biệt
quan
trọng
vì
nó
không
chỉ
hiện
hữu
giống
như
cái
chiều
sâu
tĩnh
mịch
của
đại
dương
mà
nó
còn
vận
hành
như
là
một
‘kho
chứa’
Ðây
là
lý
do
tại
sao
nó
được
gọi
là
‘kho
chứa’
bởi
vì
nó
thu
thập
các
hạt
giống
của
các
ấn
tượng
thuộc
về
cảm
giác
và
hành
động.
Chúng
ta
có
thể
hiểu
rõ
thêm
hệ
thống
Bát
thức
được
giới
thiệu
trong
Kinh
Lăng
già
nếu
chúng
ta
mường
tượng
được
chúng
trong
một
vòng
tròn,
giống
hệt
như
các
thành
phần
của
thuyết
Duyên
khởi.
Hiểu
được
vậy,
ta
sẽ
có
một
biến
hoá
từ
‘tàng
thức
không
đối
đãi’
tiến
qua
sự
vận
hành
phân
biệt
bằng
phương
tiện
môi
giới
của
‘trí
phiền
‘
(mạt
na)
và
tiếp
tục
đi
vào
‘sáu
thức
quan
sát’,
mà
chúng
lần
lượt
cung
cấp
cho
tàng
thức
các
ấn
tượng
về
hành
động,
hay
nghiệp
quả.
Như
vậy
là
ta
đã
có
một
tiến
trình
vòng
tròn,
nơi
đó
tàng
thức
phát
triển
qua
sự
phân
biệt
cho
sáu
thức
thực
nghiệm,
mà
chúng
lần
lượt
gieo
trồng
các
hột
giống
cho
các
hành
động
tương
lai
trong
mảnh
đất
phì
nhiêu
của
tàng
thức. Trang
152.
Tàng
thức
đặc
biệt
quan
trọng
trong
Kinh
lăng
già
và
quả
thật
cho
Phật
giáo
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Trong
bản
dịch
Tây
tạng,
tàng
thức
được
gọi
là
thức
cơ
sở,
làm
nền
tảng
cho
tất
cả
thức.
Ðiều
này
có
nghĩa
là
nó
có
tiềm
năng
cho
cả
luân
hồi
và
niết
bàn,
hiện
tượng
và
giác
ngộ.
Như
vậy
vì
tính
phân
biệt
mà
tàng
thức
phát
triển
tuần
tự
thành
sáu
thức
thực
nghiệm,
nhưng
cũng
nhờ
diệt
trừ
tính
này,
tàng
thức
trở
thành
hạt
giống
của
niết
bàn. Ðiều
quan
trọng
là
phải
xét
kỷ
sự
liên
hệ
giữa
tàng
thức
và
ý
niệm
Phật
tánh
(tathagatagarbha,
Như
lai
tạng).
Hẵn
bạn
cũng
biết
sự
liên
hệ
tự
nhiên
giữa
chúng
theo
những
gì
mà
tôi
đã
nói
về
tiềm
năng
niết
bàn
của
tàng
thức.
Kinh
Lăng
già
mô
tả
cái
tâm,
hay
thức,
tự
bản
chất
là
thuần
khiết.
Thuần
khiết
như
thế
nào?
Nghiên
cứu
tỉ
mỉ
Kinh
Lăng
già,
văn
học
kinh
điển
và
các
luận
thuyết
khác,
ta
thấy
rằng
thuần
khiết
có
nghĩa
là
‘tâm
không’.
Vì
thế,
‘cái
thuần
khiết
nguyên
thủy
của
tâm’
là
cái
tâm
thuần
khiết
ngay
từ
đầu,
từ
bên
trong,
không
có
các
đối
đãi
của
hiện
hữu
-
không
hiện
hữu,
giống
-
khác,
v.v..
Sự
thuần
khiết
này
tương
đương
với
‘tánh
không’.
Sự
thuần
khiết
này
chính
là
bản
thể
của
Phật
tánh,
của
tiềm
năng
về
niết
bàn
của
tàng
thức. Trang
153.
Chính
trong
bối
cảnh
này
mà
Phật
tánh
giống
như
vàng,
như
đá
quý,
hoặc
như
một
bộ
đồ
dơ
bẩn.
Sự
thanh
khiết
nội
tại
(tánh
không),
thấy
được
tiềm
năng,
nhận
ra
Phật
tánh,
khi
những
uế
trược
của
tính
phân
biệt
được
diệt
trừ.
Cái
trong
sáng
của
vàng,
đá
quý
hay
đồ
dơ
lộ
trần
ra
qua
sự
tinh
lọc,
rửa
sạch
các
uế
trược
cũng
giống
như
bản
chất
nguyên
thủy,
nội
tại,
trống
không
và
thanh
khiết
của
tâm
qua
sự
diệt
sạch
thói
quen
phân
‘chủ
thể
-
khách
thể’
bằng
lối
áp
dụng
kỷ
luật
của
một
vị
Bồ
tát. Tánh
Phật
là
tánh
của
tâm
không
và
thanh
khiết.
Chính
nhờ
tánh
không
và
thanh
khiết
chủ
yếu
này
của
tâm,
tất
cả
giống
vật
hữu
tình
đều
có
tiềm
năng
để
đạt
Phật
quả. Trang
153.
Một
khối
đồng
có
thể
tạo
thành
một
cái
bô,
một
vật
chứa
nước
ở
đài
tưởng
niệm,
hay
một
tượng
Phật,
cũng
giống
như
‘tánh
không’
của
tâm,
tùy
nhân
và
duyên,
có
thể
xuất
hiện
dưới
hình
thức
của
một
sinh
vật
bình
thường,
một
Bồ
tát
hay
môt
vị
Phật. Phật
Tánh
không
phải
là
ngã
hay
linh
hồn.
Cũng
không
phải
là
một
bản
thể
tịch
tĩnh.
Nó
có
thể
được
so
sánh
với
một
dòng
nước
bởi
vì
nó
luôn
luôn
thay
đổi,
có
nhiều
mặt
và
rất
năng
động.
Chính
vì
lý
do
này
mà,
trong
một
Kinh
nổi
tiếng
khác,
Kinh
Giải
thâm
mật
(Sandhinirmochana),
đức
Phật
có
nói
rằng
tàng
thức
sâu
sắc
và
tế
nhị,
chuyển
động
như
một
dòng
nước
với
tất
cả
những
hạt
giống
ấn
tượng
đầy
cảm
tính.
Ðức
Phật
nói
rằng
ông
không
dạy
cái
ý
tưởng
tàng
thức
cho
những
người
dại,
vì
sợ
rằng
họ
có
thể
tưởng
lầm
nó
ra
thành
một
cái
ngã.
Ðiều
thú
vị
để
chú
ý
rằng
trên
căn
bản,
tàng
thức
tương
tự
với
ý
niệm
tiềm
thức
tiệm
tiến
(bhavanga)
của
Nam
truyền
(Tiểu
thừa)
và
được
tìm
thấy
trong
Vi
diệu
pháp.
Tiềm
thức
này
mang
các
hạt
giống
của
những
hành
động
đời
trước.
Ý
niệm
này
được
nới
rộng
và
chi
tiết
hóa
trong
Kinh
Lăng
già
và
trong
triết
lý
của
trường
phái
Du
già
tông. Trang
154.
Kinh
Lăng
già
gợi
ý
thêm
một
giáo
thuyết
quan
trọng
khác
trong
thời
kỳ
hình
thành:
giáo
thuyết
tam
thân
của
Phật
quả:
pháp
thân
tức
kích
thước
siêu
việt
(dharmakaya),
báo
thân
tức
kích
thước
thần
thánh
(sambhogakaya)
và
hóa
thân
tức
kích
thước
thế
gian
(nirmanakaya).
Tam
thân
phản
ảnh
3
trình
độ
của
thực
tướng
giác
ngộ:
1.
kích
thước
siêu
việt
đồng
nghĩa
với
trình
độ
rốt
ráo
của
giác
ngộ,
nó
ra
ngoài
danh
và
sắc;
2.
kích
thước
thần
thánh,
tượng
trưng
và
lý
tưởng
của
Phật
quả,
chỉ
những
vị
đạt
được
tình
trạng
tâm
linh
cao
mới
với
tới
được;
và
3.
kích
thước
thế
gian
là
kích
thước
của
Phật
quả,
dựa
vào
đó
tất
cả
chúng
ta
dù
chưa
giác
ngộ
có
thể
với
tới
được,
có
thể
tham
dự
vào
thế
giới
hiện
tượng
bình
thường.
Chính
kích
thước
thế
gian
này
xuất
hiện
vô
số
các
hình
thức
để
nuôi
nấng
dưỡng
dục
và
giải
phóng
các
giống
hữu
tình. Bạn
có
thể
nhớ
lại
bản
thể
của
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
là
lòng
đại
từ
đại
bi.
Các
phương
tiện
thiện
xảo,
có
được
là
do
lòng
đại
từ
bi,
biểu
hiện
cho
việc
nghĩ
ra
các
giới
luật,
các
cỗ
xe
cũng
như
vô
số
các
hình
thức
khác
nhau
của
Phật
quả
mà
hóa
thân
trên
thế
gian.
Theo
Kinh
Lăng
già
và
những
bản
văn
Bắc
truyền
khác,
hóa
thân
Phật
quả
trên
thế
gian
có
thể
đảm
nhiệm
bất
cứ
hình
thức
nào.
Có
thể
là
một
hình
thức
đặc
biệt
có
thể
nhận
ra
được
như
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni
rất
quen
thuộc
với
chúng
ta;
có
thể
là
hình
thức
của
một
người
say
rượu,
đánh
bạc...để
giúp
đỡ
hay
giải
thoát
các
giống
vật
hữu
tình.
Nếu
Pháp
Phật
không
ảnh
hưởng
được
kẻ
say
rượu,
người
đánh
bạc,
cũng
không
lay
chuyển
được
qua
đạo
hạnh
của
một
vị
Bồ
tát
thì
Phật
hay
một
Bồ
tát
khác
sẽ
đảm
nhiệm
vai
trò
một
trong
những
người
đồng
hội
đồng
thuyền
với
anh
ta,
và
qua
việc
thực
hiện
các
phương
tiện
thiện
xảo
sẽ
giúp
giải
thoát
con
người
đó.
Ngoài
việc
giữ
vai
trò
các
vật
sinh
động,
Bồ
tát
có
thể
cũng
mang
hình
thức
các
vật
không
sinh
động,
như
đồ
ăn,
quần
áo,
thuốc
men,
cầu
đường
v.v...Ðiều
này
được
Shantideva
viết
thật
hay
trong
quyển
Bồ
tát
Hạnh
(Bodhicharyavatara)
của
ông.
Ông
nguyện
rằng
ông
có
thể
thành
đồ
ăn
cho
những
người
đói
khát,
thuốc
men
cho
những
người
bệnh,
chỗ
trú
ẩn
cho
những
kẻ
vô
gia
cư.
Vì
thế,
qua
những
phương
tiện
thiện
xảo
có
được
do
lòng
đại
từ
đại
bi,
đức
Phật
và
Bồ
tát
xuất
hiện
dưới
vô
số
hình
thức
mà
ta
không
biết
được
và
không
nhận
ra
được,
làm
việc
cho
sự
giải
thoát
các
loài
hữu
tình,
từng
việc
tùy
theo
nhu
cầu
và
khả
năng
của
các
vị
đó.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002