.
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVADA
Thoát đến thực tế
Ananda
Pereira
Phạm Kim Khánh dịch (1967)
Nguyên tác: "Escape to reality", The Wheel Publication
No. 46/47,
Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka
---o0o---
Lời nói đầu
Nhân ngày Rằm tháng bảy Ðinh Mùi (20-08-1967), toàn thể Phật tử hội viên
Hội Phật Giáo Nguyên Thủy ấn tống quyển "Thoát Đến Thực Tế" nhằm tạo một
Pháp thí cao thượng để hồi hướng đến thân nhân quyến thuộc quá vảng.
Cầu xin quả phúc này nâng đỡ chư thân nhân và hội viên quá cố được siêu
thoát lên cảnh giới yên vui, hầu tiếp tục tu hành cho mau đến đạo quả Niết
Bàn.
Toàn thể thí chủ cũng thành tâm hồi hướng pháp thí này đến hương linh của:
- Hai vị Cao Tăng đã dày công xây dựng giáo phái Phật Giáo Nguyên Thủy
từ buổi sơ khai là Ðại Ðức Tối Thắng và Ðại Ðức Giác Quang, và
- Hai vị Hội viên sáng lập kỳ cựu của bổn hội là: Bà Ðoàn Văn Quờn và cụ
Lâm Ngọc Bút.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
SỐNG HAY CHẾT
Người điên rồ bị hành động của chính
mình thiêu đốt
như một đám hỏa hoạn tàn khốc.
PHÁP CÚ KINH
Trong
bài diễn văn đọc tại Oslo, khi được trao tặng giải thưởng cao quí về những
hoạt động cho hòa bình, bậc vĩ nhân đầy lòng nhân đạo, Bác sĩ Albert
Schweitzer nói:
"Chúng ta phải ứng phó thực tế. Con người đã trở thành siêu nhân. Nhờ khoa
học và các tiến bộ kỹ thuật, chẳng những con người đã sáng tạo và điều
khiển những năng lực vật chất theo ý mình mà lại còn kiểm soát những tiềm
năng thiên nhiên. Tuy nhiên, các bậc siêu nhân ấy vẫn còn một khuyết điểm
không thể tránh là không tự vươn mình lên được đến trình độ lý trí siêu
nhân, tương xứng với sự hùng mạnh siêu nhân".
Ðó
là một lời tuyên bố hùng biện. Những năng lực tiềm tàng của thiên nhiên mà
con người hiện đã kiểm soát sẵn sàng phục vụ con người mà cũng sẵn sàng
tiêu diệt con người. Như một lưỡi dao cạo, tuy vô tri vô giác, nhưng thật
sự có hiệu năng. Chính con người phải quyết định dùng nó vào việc gì. Ðể
cạo râu hay để tự cắt lấy cuống họng. Lưỡi dao thì bất chấp, không cần,
thản nhiên, lạnh như tiền.
Chúng ta có thể tự vươn mình đến trình độ lý trí siêu nhân cần thiết để
sống sót trên hành tinh này không? Ta có đủ trưởng thành để nhận định rằng
chúng ta không thể tiêu diệt lẫn nhau mà không tự diệt chăng? Bao nhiêu sự
việc trong đời tùy thuộc nơi lối trả lời những câu hỏi trên. Chính những
lối trả lời ấy tạo nên sự khác biệt giữa hai cảnh: "thiên hạ một nhà" và
"nắm mồ chung của nhân loại".
Ta
không khỏi cảm nghĩ rằng các nhà bác học với những tiến triển kỹ thuật, đã
đưa quá sớm vấn đề này vào nhân loại. Những phán quyết tối quan trọng,
đáng lẽ phải do người thật sự trưởng thành định đoạt, lại nằm trong những
bàn tay non nớt. Trong bao nhiêu lời tuyên bố của các chánh trị gia có
quyền hành, khó tìm thấy ánh sáng trí tuệ, hay như bác sĩ Schweitzer gọi,
một "trình độ siêu nhân". Thỉnh thoảng con người quen suy gẫm phải lấy làm
khủng khiếp kinh ngạc nghe những lời lẽ ấu trĩ của các cấp lãnh đạo. Khi
nói đến chiến tranh, vài nhà lãnh đạo trên thế gian hình như còn hình dung
những đoàn kỵ mã, những pháo đài và rừng cờ phất phới của đám quân xung
phong. Họ vẫn còn đề cập đến chiến tranh như một phương tiện "để tạo một
thế gian an toàn và thái bình", theo học thuyết này hay chủ nghĩa kia, hay
một lý tưởng khác nữa. Hình như họ đã quên rằng nếu có một chiến tranh nữa
xảy ra trên phạm vi rộng lớn, thì những người còn sống sót sẽ không có thì
giờ để thắc mắc với học thuyết và chủ nghĩa. Chừng đó sẽ chỉ còn lại một
thế gian rộng lớn đẩy đầy sự chết chóc và đầu độc, và con người sẽ có
nhiều việc cấp bách hơn để lo nghĩ.
Ðức Phật nói: "Người thế gian thật là điên rồ", và chúng ta có thể chấp
nhận điều ấy như một chân lý giản dị. Nếu còn ngờ vực, ta chỉ cần giở ra
một tờ báo hoặc vặn lên máy thâu thanh. Tờ báo có thể xuất xứ từ phương
trời nào, làn sóng điện có thể phát đi từ đâu, cũng là một chứng minh hùng
hồn cho lời nói trên. Những kiểu chữ thật đẹp, những giọng nói rành mạch,
nói lên rõ ràng bằng những danh từ không thể làm lẫn được, rằng con người
làm đủ tất cả mọi việc, ngoại trừ suy gẫm.
Nhưng đến bây giờ thì ta phải suy gẫm. Xây lưng lại với vấn đề sống còn
của nhân loại và tìm nơi ẩn náu trong một loại nha phiến tinh thần hay vật
chất nào thì thật rất dễ dàng. Nhưng làm như vậy không phải là giải quyết.
Ta phải ứng phó thực tế. Nhân loại phải trưởng thành, bằng không sẽ tiêu
diệt. Trưởng thành thật mau hay tiêu diệt thật nhanh chóng. Không còn
nhiều thì giờ nữa. Ta phải dẹp qua một bên tất cả những học thuyết, những
chủ nghĩa chỉ thúc giục ta tiêu diệt những kẻ không đồng ý với ta. Hãy
loại bỏ những thứ tâm hồn yêu nước chỉ nhìn người quốc gia khác bằng cặp
mắt căm thù và ngờ vực. Từ nay ta hãy nhìn nhau như những con người cùng
chia nhau sống trong một thế gian. Phải khởi sự ngay từ giờ phút này. Nếu
không thì quá trễ. Nhưng làm cách nào để đạt đến mức trưởng thành tinh
thần?
Trên 2.500 năm về trước, Ðức Phật đã vạch cho ta lối đi. Ngài dạy cho từng
cá nhân, những cá nhân biết suy gẫm, những lời kêu gọi của Ngài vẫn thích
hợp cho toàn thể nhân loại. Ngài dạy: "Tất cả đều vô thường. Không nên
luyến ái. Hãy tiến hành và trở nên tự do".
Từ
bao giờ, chỉ có một trận giặc là chiến tranh chống tham ái. Tham ái về đất
đai, về thương mãi, về quyền lực, về tất cả những hiện tượng tạm bợ, vô
thường của đời sống. Tham ái chỉ đưa đến tranh chấp và hận thù. Hãy tiến
hành, thì mọi tranh chấp sẽ chấm dứt. Hãy nghĩ đến người khác như một
chúng sanh, một người không có gì đáng cho mình dành, ngoại trừ hạnh phúc
chung, thì mọi tranh chấp sẽ chấm dứt. Hãy giúp đỡ họ, đó là tự giúp lấy
ta. Không cần biết họ nói tiếng gì, không cần biết chánh kiến họ như thế
nào. Ta cùng với họ chung sống trên, một hành tinh, cùng thở một thứ không
khí, cùng cần dùng một loại vật thực. Ta không thể tiêu diệt họ và sống
sót. Số phận của ta và của họ nối liền nhau.
-ooOoo-
BẠN ÐÃ TRƯỞNG THÀNH CHƯA?
Nếu từ khước một hạnh
phúc cỏn con
mà có thể đạt được hạnh phúc to lớn hơn,
thì bậc thiện trí thức bỏ cái nhỏ để hướng về cái lớn.
PHÁP CÚ KINH
Cái
khả năng từ khước hạnh phúc nhỏ bé và cấp thời để tạo hạnh phúc to lớn hơn
trong tương lai là dấu hiệu của sự trưởng thành. Rất ít trẻ con có, nhưng
em nào có được khả năng ấy thật sự em đã trưởng thành hơn nhiều người lớn.
Nó có nghĩa là linh quan sáng suốt, phán đoán đúng và tự kiểm soát, tự làm
chủ lấy mình, những biểu tượng của một cái tâm trưởng thành.
Rất nhiều người sống trọn đời mà không bao giờ trưởng thành. Họ cảm thấy
không thể vững lòng cưỡng lại sức quyến rũ của những khoái lạc cấp thời.
Dưới sự hướng dẫn khôn ngoan và sự kiểm soát của các bậc niên trưởng tinh
thần, họ có thể từ bỏ thú vui tạm bợ ấy để cố gắng thu mình vào một nếp
sống khả dĩ đem lại nhiều hạnh phúc to lớn hơn trong tương lai, nhưng họ
không thể tự mình chọn lấy con đường đó. Vì lẽ họ có đủ tự do và cơ hội
cần thiết để quyết định nên họ lãng phí thì giờ và năng lực để chạy theo
hạnh phúc cấp thời, mặc cho tương lai định đoạt.
Ðối với hạng người này, cần phải tin tưởng một thần linh siêu phàm. Họ
cũng như trẻ con, cần phải có cha mẹ khôn ngoan theo dõi, bảo vệ và hướng
dẫn, ban thưởng những điều hay điều giỏi, hình phạt những lỗi lầm, khuyến
khích những cố gắng và la rầy những khi lười biếng.
Tuy nhiên, như Isgeroll nói, trong Thiên Nhiên không có thưởng cũng không
có phạt. Chỉ có hậu quả. Người kia trồng một cây ăn trái, săn sóc cẩn
thận, đầy đủ, và nhẫn nại trông chờ. Cây trổ trái, không phải là để "ban
thưởng". Người ấy có thể chết trước khi trái trổ, hay vì một biến đổi bất
ngờ, trái có thể không ăn được. Trái trổ không phải để tưởng thưởng người
trồng cây. Ðó chỉ là một sự kiện dĩ nhiên. Cùng thế ấy, người nọ nuôi một
con chó nhỏ mà không biết tập. Khi nó lớn lên, trở thành hung dữ quạu quọ.
Con chó có thể cắn chủ, có thể không cắn. Nhưng nếu có cắn thì cũng không
phải là để phạt chủ nó về cái tội không biết dạy dỗ nó. Ðó chỉ là hậu quả
dĩ nhiên của một phương pháp huấn luyện sai lầm.
Ðối với người Phật tử, tất cả hiện tượng đều là hậu quả. Hiện tượng có thể
là hạnh phúc hay khổ não, đau đớn hay vui sướng. Người Phật tử không xem
đó là sự thưởng hay phạt của một siêu nhân tối thượng, mà chấp nhận như là
hậu quả của cái nghiệp của mình, của những hành động, những tư tưởng mình
trong quá khứ. Người Phật tử đứng vững trên hai chân và yên tâm uốn nắn số
phận mình trong hiện tại và tương lai. Ðó là tôn giáo của người trưởng
thành, một tôn giáo quá tự do và thiếu sự che chở đùm bọc đối với những
tâm linh kém thuần thục. Trái lại, đối với những người trưởng thành, đó là
lối sống duy nhất hợp lý và có thể chấp nhận được.
Người Phật tử chấp nhận giáo lý chủ trương trách nhiệm cá nhân và thẳng
thắn, thành thật ứng phó đời sống. Người Phật tử có thể theo đuổi những
lạc thú cho nhỏ của nhục dục ngũ trần, hoặc nếu linh quan sáng suốt, phán
đoán đúng, và tự kiểm soát đầy đủ, có thể từ khước những thú vui cỏn con
để hướng về "một cái gì" vô cùng cao quý hơn. "Cái gì" ấy là gì? Là tiến
bộ tinh thần, là linh quan sáng suốt hơn, phán đoán càng đúng hơn, càng
ngày càng tự chủ hơn, và hơn nữa, đến sau cùng, như chư vị A-La-Hán, tới
chỗ tuyệt đỉnh của lịch trình tiến hóa tinh thần, đạo quả Niết Bàn. Ðó là
con đường mà chư Phật đã vạch. Con đường ấy không phải dễ đi mà cũng không
phải là ngắn. Phần đông chúng ta còn phải đi thật xa. Tuy nhiên, chúng ta
phải đi trên con đường ấy và khởi hành càng sớm thì càng mau đến đích.
Không nên đợi chờ nhiều kiếp sống nữa để bắt đầu cuộc hành trình. Không
nên mê hoặc tin rằng nếu ta nhẫn nại tin tưởng nơi một ngoại nhân nào thì
sẽ được ban hạnh phúc trường cửu. Không nên hành động như những đứa bé bẩn
thỉu, vẩn vơ đợi chờ cha mẹ hay bà vú đem đi tắm rửa, thay quần áo và đặt
lên giường. Làm như thế ấy ta phải đợi chờ mãi mãi.
-ooOoo-
NGƯỜI SẴN SÀNG
Chính ta phải cố gắng, chư Phật chỉ là
những vị hướng đạo.
Hành giả nào đi đúng "Con Ðường"
là đã thoát khỏi dây trói buộc của Ma Vương.
PHÁP CÚ KINH
Phật
giáo không phải là lớp đường bọc ngoài viên thuốc đắng "đời sống". Phật
giáo không bao giờ chủ trương rằng cái chết là cánh cửa để mở vào cảnh
giới hạnh phúc vĩnh cửu, không hứa hẹn sự cứu rỗi dễ dàng để đánh đổi lấy
một đức tin. Phật giáo dạy phải tự nương tựa nơi mình, và dạy một ý niệm
về trách nhiệm cá nhân.
Không có vị giáo chủ nào, dầu từ bi và trí tuệ đến đâu, mà có thể dạy được
một người không chịu học. Khi thực hành trọn vẹn mười Pháp Ba-La-Mật,
người có nguyện vọng trở thành Phật phát triển những đức tánh cần thiết để
trở thành vị Vô Thượng Thiên Nhân Sư. Như vậy không có nghĩa là Bồ Tát rửa
sạch tội lỗi, những hành động hung ác và điên cuồng, của người khác, mặc
dầu nhiều lần Ngài đã hy sinh mạng sống trong thời gian chuẩn bị dài đăng
đẳng này. Không có ai, dầu cao siêu và giàu lòng từ ái đến đâu, mà có thể
gội rửa những lỗi lầm của kẻ khác. Ðiều duy nhất mà ta có thể làm được là
tự cải thiện. Trong trường hợp của Bồ Tát, người có nguyện vọng và cố gắng
trở thành Phật, tiến trình của sự tự cải thiện vượt xa lên, ngoài mức cần
thiết để tự cứu rỗi. Ngài còn cứu độ kẻ khác, cứu độ ở đây chỉ có nghĩa là
dạy cho người khác tự cứu lấy họ.
Lời dạy có vẻ quá nghiêm khắc, nhưng thật ra rất hợp lý với thích ứng với
đời sống thực tế. Ta không thể ăn cho người khác no. Không thể tập bơi để
cho người khác biết lội. Không thể giữ mình cho người khác được khỏe mạnh.
Cùng thế ấy, ta không thể gội rửa những hành động hung ác và điên cuồng
của người khác. Mỗi người phải trả cái nợ của mình đã vay và uốn nắn tương
lai mình. Cho đến Ðức Phật cũng chỉ có thể vạch con đường cho ta mà thôi.
Ðức Phật là một vị Thầy, trong ý nghĩa chánh đáng và cao quí nhất của danh
từ. Giá trị của Ngài không thể có một giới hạn. Xuyên qua vô số chu kỳ, từ
kiếp sống này đến kiếp khác, chúng sanh sống trong đêm tối, cố bán lấy một
tà kiến này hay một thành kiến sai lầm khác, sống, chết và sống trở lại,
triền miên, mãi mãi. Khi thì ở trong cảnh giới hạnh phúc, lúc thì trong
khổ cảnh. Nhưng không bao giờ ta được biết phải làm thế nào để thoát ra
khỏi vòng lẩn quẩn.
Rồi, như buổi bình minh tươi sáng của một ngày vinh quang rực rỡ, một vị
Phật xuất hiện. Ngài vạch cho ta con đường đi đến tự do. Một vài người vội
vã thọ huấn và liền được hưởng. Các vị ấy là những người sẵn sàng, như chư
vị A-La-Hán thời Ðức Phật. Ðối với các Ngài, một bài kệ, một câu kinh, một
phật ngôn cũng có thể là đủ. Những người khác học chậm hơn. Cũng có người
không chịu học gì hết. Họ chưa được chuẩn bị đầy đủ để thọ hưởng Phật
Pháp. Cũng như một em bé lớp mẫu giáo chưa được chuẩn bị đầy đủ để lãnh
hội thuyết Tương Ðối.
Ai
là người sẵn sàng để thọ hưởng tức khắc khi có một vị Phật xuất hiện?
Theo lời dạy của Ðức Phật, các vị ấy là những người trầm tư đã có hành
thiền. Ðã lâu rồi, có lẽ trong nhiều kiếp sống, các Ngài đã suy gẫm rõ
ràng và đã triển khai trí tuệ. Ðối với các Ngài, thực hành giáo lý của Ðức
Phật là một niềm vui, một hạnh phúc. Các Ngài không khao khát ước mong
những cái mà ta gọi là phần thưởng của đời sống, như sự nghiệp, quyền thế,
những tiến bộ trong thế gian mà bao nhiêu người say mê đắm đuối. Các Ngài
nhận thấy giá trị cao quý hơn trong tâm trạng vắng lặng, trong sự tri túc
và tự do. Các Ngài đi dễ dàng trên "Con Ðường" và cắt đứt mọi sự trói buộc
của Ma Vương, của tham ái, sân hận và si mê. Các Ngài đã thoát tục, siêu
phàm.
-ooOoo-
VINH QUANG
Cao quý hơn quyền bá chủ trên thế
gian,
Cao quý hơn đời sống trên các cảnh trời,
Cao quý hơn là chinh phục vũ trụ.
Là đạo quả của bước tiến Nhập Lưu.
PHÁP CÚ KINH
Người
thế gian tìm vinh quang trong những thành công ở thế gian. Chúng ta thấy
bậc đế vương đang trị vì là vinh quang, triệu phú là vinh quang, một nghệ
sĩ kịch trường nổi danh, một bác sĩ, một trạng sư hay một họa sĩ lỗi lạc,
là vinh quang. Chúng ta đo lường sự vinh quang bằng cây thước quyền thế và
danh vọng của thế gian.
Ðối với Ðức Phật, vinh quang là một cái gì hoàn toàn khác hẳn. Ngài đã
thấy chúng sanh chết và tái sanh tùy theo Nghiệp quá khứ. Ngài biết rằng
một hoàng đế, sau khi chết cũng có thể tái sanh vào cảnh thú. Ngài thấy
rằng trong thế gian luôn luôn biến đổi này, những quyền lực phàm tục không
bao giờ được an toàn, những danh vọng phàm tục không bao giờ được bền
vững. Cái chết cũng đến với người quyền thế và người danh vọng y hệt như
nó đến với kẻ cô thân và hạng vô danh, không ai biết đến. Và khi chết thì
bao nhiêu quyền lực, của cải, sự nghiệp và bao nhiêu danh vọng, quyền thế
đều phải bỏ rơi lại. Ðó là một việc đã lập lại nhiều lần. Nhìn trên cái
bối cảnh vô thường, luôn luôn biến đổi, thì không có sự vinh quang nào của
thế gian này là thực. Chính tầm mắt chúng ta cũng có thể thấy như vậy, nếu
ta thấm nhuần giáo lý của Ðức Phật và cố gắng suy gẫm. Nhưng rất ít người
chịu khó làm như vậy. Vì thế, Ðức Phật dạy rằng: "Thế gian này mù quáng".
Rất ít chúng sanh thật sự thấy.
Bây giờ, nếu thấy rõ thực tướng của sự vật, ta không thừa nhận có mảy may
vinh quang nào trong quyền thế, danh vọng và những thành công phàm tục này
thì nên kết luận rằng chẳng có chi là vinh quang cả chăng?
Ðức Phật trả lời rằng "Có", và Ngài chỉ những vị đã bước vào dòng suối
chảy đến đạo quả Niết Bàn, những vị Nhập Lưu hay, theo danh từ Phật giáo,
chư vị Tu-Ðà-Huờn, và Ðức Phật dạy rằng những vị ấy vinh quang và cô cùng
cao quý hơn các bậc đế vương, các vị trời, dầu là trời Phạm Thiên. Trên
đạo quả Tu-Ðà-Huờn còn thêm ba bậc thánh đạo và thánh quả nữa để đến mức
giải thoát hoàn toàn, chứng ngộ đạo quả A-La-Hán.
Tại sao?
Một vị Tu-Ðà-Huờn có thể là một người nghèo, không danh vọng, không ai
biết đến. Ðứng về phương diện thế gian thì các Ngài có thể là hạng người
mà không ai màn đếm xỉa đến. Vậy thì vinh quang ở điểm nào? Cái vinh quang
của các Ngài là đã đạt đến mức tiến không còn thoái bộ nữa. Không bao giờ
các Ngài còn mê lầm chấp nhận có một linh hồn trường cửu, xem như một thực
thể trường tồn bất biến. Không bao giờ các Ngài còn hoài nghi về con đường
giải thoát. Không bao giờ các Ngài mù quáng tin tưởng nơi những lễ nghi
suông. Không bao giờ các Ngài còn phạm một lỗi lầm nào trong năm giới căn
bản. Không bao giờ các Ngài còn phải tái sanh vào một cảnh giới thấp hơn
cảnh người. Các Ngài phải còn tái sanh nhiều nhất là bảy lần, trước khi
chứng ngộ đạo quả A-La-Hán.
Một vị Tu-Ðà-Huờn cũng giống như người vượt qua sa mạc, nhìn xa xa thấy
dạng mức đến của cuộc hành trình khủng khiếp. Cát vẫn còn thiêu đốt chân,
ánh nắng mặt trời vẫn còn đè nặng trên đầu, khách lữ hành rất là mệt mỏi,
đói khát. Tuy nhiên, ở phía trước, cây to bóng mát, ao đầm nước trong đã
nằm trong tầm mắt. Khách hân hoan rảo bước, yên trí rằng mức đến sẽ không
còn bao xa. Người đã tiến đến trình độ này không bao giờ chịu đổi lấy một
cái gì ở thế gian, dầu đáng giá bao nhiêu, để phải còn lang thang, tuyệt
vọng, lạc loài giữa sa mạc mênh mông. Người kia có thể giàu sang quyền
quý, ăn mặc đẹp đẽ, đi đâu thì tiền hô hậu ủng. Người ấy chỉ có thể đáng
thương hại. Con đường của người ấy phải đi còn xa, xa lắm mới đến đích.
-ooOoo-
QUYỀN THẾ VÀ TỰ DO
Ðã
lâu rồi, và rất nhiều lần trong những kiếp sống liên tục trong vòng luân
hồi, hạng phàm nhân chúng ta chạy theo quyền thế, Quyền lực có sức hấp dẫn
mãnh liệt. Ta muốn thành vĩ nhân. Ta muốn thực hiện những công trình vĩ
đại. Ta muốn kiểm sát tất cả những gì ở xung quanh ta. Nhưng người muốn tự
mình kiểm soát lấy mình thì thật hiếm hoi.
Nếu có ai hỏi người trí tuệ: "Ông sẽ làm gì nếu được ban cho quyền làm bá
chủ thiên hạ?" thì vị ấy trả lời: "Lẽ dĩ nhiên là tôi sẽ từ chối". Bởi vì
người trí tuệ không tìm quyền thế. Quyền lực không có ảnh hưởng nào đối
với người trí tuệ. Bao nhiêu người trong chúng ta có trí tuệ? Chúng ta đi
tìm thế lực tưởng tượng rằng đó là chìa khóa để mở cửa vào cảnh giới hạnh
phúc. Chúng ta cố gắng, tận dụng tất cả năng lực để đạt quyền thế cho kỳ
được, và nếu được, thường ta lạm dụng nó.
Người có trí tuệ thì chỉ cố gắng làm chủ chính mình vì nhận định rằng đó
là con đường đi đến "Tự do". Ðạo quả Tu-Ðà-Huờn là nấc đầu tiên trong các
thánh quả. Ðó là ngưỡng cửa của Tự Do. Người đã bước chân vào dòng suối
của các bậc thánh đã vượt ra khỏi những ham muốn, những ước mơ ở thế gian,
đã dứt khoát một cách toàn vẹn những khát vọng quyền thế.
Các chánh trị gia, những người ôm ấp trong lòng một tham vọng về quyền
thế, đôi khi cũng đề cập đến tự do như một cái gì có thể mua được bằng lá
phiếu, hay có thể đạt được bằng một ván bạc đẫm máu như một cuộc cách
mạng. Tuy nhiên, dầu các người ấy có tuyên bố như thế nào, không thể có sự
giải thoát tập thể, không thể từng đoàn người đạt tự do cùng một lúc.
Không bao giờ có thể đó. Trong đám đông nhân loại, mỗi người như thế nào
là tùy theo người ấy đã như thế nào trong quá khứ. Và trong hiện tại, hình
như chúng ta đang đứng kề bên vực thẳm của khổ cảnh. Rất có thể là từ đám
đông, mỗi người chúng ta sẽ lao mình xuống vực thẳm và sẽ đau khổ chịu
đựng những hậu quả của nó trong một thời gian. Những trường hợp tương tợ
đã xảy ra nhiều lần và có thể còn lặp lại nhiều lần khác, vì đó mà mẫu
chuyện vô cùng tận của nhân loại vô minh.
Nhưng, từng cá nhân một, vẫn có cơ hội để đạt Tự Do. Ðó là Chân Lý thâm
diệu và vinh quang mà Ðức Phật đã dạy. Tự Do không phải là hậu quả của một
quyền thế phàm tục mà là kết quả của Giới, Ðịnh và Tuệ. Trên con đường
giải thoát, quyền lực cũng đến như một sản phẩm phụ, một thứ quyền năng lạ
lùng mà người phàm không khi nào mơ ước đến. Nhưng đó không phải là mục
tiêu. Nó chỉ là những dấu hiệu của một bước tiến, một khích lệ để cố gắng
thêm nữa. Tự Do mới là mục tiêu duy nhất và tối hậu. Ðức Phật có quyền
năng vô lượng. Chư vị A-La-Hán cũng vậy. Các Ngài chỉ dùng những quyền
năng ấy để giúp đỡ người khác. Không khi nào để thống trị.
-ooOoo-
BỐ THÍ
Bố
thí là một cái gì khác, nhiều hơn là sự cho ra suông. Ðức quảng đại phải
xuất phát từ đáy lòng, phải bắt nguồn từ tình huynh đệ và có thể biểu hiện
dưới trăm ngàn hình thức. Bố thí là bản chất của một tâm hồn vĩ đại.
Bố
thí không có tính cách bảo bọc người khác. Không có sự ban bố, cũng như
không có sự thọ ơn, giữa người cho ra và người nhận lãnh. Bố thí hoàn toàn
trong sạch và tinh khiết, không có mảy may ẩn ý. Hai đàng, cả người cho
lẫn người nhận, đều được tự do trọn vẹn.
Từ
tình huynh đệ phát sanh, đức quảng đại phát triển song song mật thiết với
tình thương, với thiện cảm. Người quảng đại rất lịch sự. Nếu trong một
buổi họp mặt vui vẻ mà có ai thuật một câu chuyện lý thú, được nhiều người
để ý và khen ngợi, thì người có lòng quảng đại không tìm một câu chuyện
khác, lý thú hơn, để người ta chú ý đến mình, quên người kia. Trong sự cho
ra, người quảng đại cũng rất tệ nhị. Nếu người bạn nghèo vừa thưởng một
đứa con ngoan cái máy ảnh rẻ tiền thì người có lòng quảng đại không vội
mua cho em bé ấy một cái máy ảnh mắc tiền hơn. Vì như vậy có thể làm khỏa
lấp giá trị của phần thưởng kia.
Bố
thí cũng không phải cho ra những sở hữu vật chất mà thôi. Cũng có thể bố
thí sự hiểu biết, sự khôn khéo, năng lực, hay thì giờ. Cũng có thể bố thí
trong khi nghĩ hay nói đến một người khác. Trong khi phê bình một người mà
quyền lợi không đụng chạm đến ta hay nghề nghiệp không cạnh tranh với ta
thì vẫn còn dễ cho ta phát biểu những ý tưởng quảng đại. Một luật sư có
thể dễ dàng hết lời tán dương một ông bác sĩ hay một điêu khắc gia, nhưng
thế thường, rất dè dặt khi phải ngợi khen một luật sư khác.
Cũng có thể quảng đại trong thái độ của ta trước những lời đồn đại dèm
pha. Có người được coi là quảng đại mà vẫn sẵn sàng tin những lời nói xấu
người khác, dầu người đó là bạn. Khi nghe thuật lại câu chuyện xấu của ai
thì họ liền vội vã chụp lấy để chuyển sang người khác và, trong khi trao
lại, không quên thêm vào đấy chút gì nữa. Người như vậy không thể thật sự
quảng đại. Sâu kín trong lòng, họ vẫn còn tầm thường, nhỏ nhoi. Những hành
động quảng đại của họ chỉ là một sự bỏ vốn làm ăn. Tỏ tình thương và thiện
chí giúp đỡ kẻ khác trong kiếp sống hiện tại với ý mong muốn hưởng lợi
trong một kiếp vị lai.
Người thật sự quảng đại cho ra mà không theo đuổi vật bố thí. Có thể giúp
người trong vật chất hay tinh thần, hay bằng thì giờ, người thật sự quảng
đại không hề ước mong được đền đáp. Bố thí. Cho ra. Rồi thôi. Không còn gì
khác nữa. Và nếu người thọ hưởng nhận lãnh vật bố thí như một việc phải
có, như mình bắt buộc phải giúp đỡ họ thì người quảng đại không lấy làm
chua cay như người thường. Người ta có thể nghĩ rằng hành động như vậy là
phải chịu thiệt thòi vô lý. Nhưng nghĩ vậy là lầm. Người có lòng quảng đại
vẫn tiến bước trên con đường của mình, và mỗi lần bố thí là vững mạnh và
tự do hơn một bậc. Nếu có ai ích kỷ lợi dụng lòng quảng đại của mình thì
họ cũng đi trên con đường của họ, và mỗi lần như vậy họ trở nên yếu hèn
hơn và bị ràng buộc thêm lên một bâc. Cũng vì những hành động tương tợ
trong quá khứ mà có người sanh ra được giàu sang và tự do, có kẻ lại nghèo
hèn và nô lệ. Người quảng đại không có mất gì hết. Người ích kỷ, lợi dụng
đức khoan hồng, cũng không thêm được gì hết.
Nếu không có ai quảng đại thì thế gian này hẳn là đen tối và trống không.
Cũng không thể có Phật Pháp, vì Phật Pháp và sự biểu hiện cao thượng nhất
của đức quảng đại. Phật Pháp là món quà mà Ðức Phật bố thí cho nhân loại,
là món quà Chơn Lý, Ánh Sáng, Tự Do.
-ooOoo-
TÁN DƯƠNG VÀ KHIỂN TRÁCH
Cũng dường như tảng đá to trước cơn
gió lốc
Bậc thiện trí thức không bao giờ xao động
vì những lời tán dương ca ngợi hay khiển trách chê bai.
PHÁP CÚ KINH
Câu
Pháp Cú trên đây có thể áp dụng trọn vẹn cho một vị A-La-Hán. Tuy nhiên,
hạng thường nhân cũng có thể hành pháp cao siêu ấy đến mức độ nào. Người
khôn ngoan không dễ gì bị một lời khen hay một tiếng chê của thế gian làm
chao động. Bậc thiện trí thức biết suy gẫm, biết nhận định đâu là lợi ích
và vững lòng tiến bước trên con đường của mình.
Hình như đã là một thói quen, người thế gian không khiển trách hay tán
dương một hành động vì cái giá trị cố hữu của nó. Trường hợp một luật sư
chẳng hạn. Người ta nói vị luật sư ấy giỏi hay dở là do những trường hợp
mà vị ấy biện hộ thắng hay là thất. Ðại chúng không thể nhận định được
chân giá trị của ông. Có thể ông rất thông minh và cần mẩn, nhưng rủi gặp
phải một loạt những trường hợp không may là ông phải mang tiếng bất tài.
Trái lại nếu biện hộ liên tiếp cho vài thân chủ được kiện là ông sẽ nổi
tiếng. Trong phần lớn các ngành sinh hoạt khác cũng vậy. Những cố gắng của
nhân loại chỉ được xét đoán xuyên qua kết quả của nó.
Con người kém khí lực sẵn sàng chấp nhận sự kiện ấy và ép mình sống trong
khuôn khổ. Họ thèm muốn thành công, những thành công của thế gian, và tận
lực cố gắng để thành tựu khát vọng. Họ biết rằng thế gian không cần tìm
hiểu chân giá trị của họ. Như vậy họ mua cái thành công của họ bằng đồng
tiền giả. Họ tưởng được chú ý đến trong cái mà đại chúng cho là lý thú.Họ
tưởng như vậy là họ thương người và sẽ được người giúp. Họ tưởng như vậy
là họ ở đúng nơi, mặc đúng y phục làm đúng việc. Và họ thành công. Rất ít
có người chịu khó quan sát và thí nghiệm đồng tiền giả. Tuy nhiên không
bao giờ họ có thể vượt lên đến cấp lãnh đạo, dầu trong những sinh hoạt ở
thế gian. Muốn lãnh đạo phải có đủ khí khái, đủ can đảm để đôi khi dám đi
một mình, phải có những tư tưởng riêng của mình.
Lẽ
dĩ nhiên, kỳ khôi không phải là khí khái. Ta có thể ngăn cản dễ dàng không
cho người kỳ khôi làm một việc gì bằng cách "chỉ huy", bắt buộc họ phải
làm điều ấy. Người khí khái không bị vướng mắc trong chiến thuật này.
Người khí khái không cần người ta nghĩ mình là thế nào. Thiên hạ có thể
cho mình là cứng cỏi, độc lập, hay yếu đuối, ươn hèn. Người có khí lực
nhất định đi trên con đường đã chọn, dầu có bị bắt buộc thế nào. Chính
trong đức hạnh khí khái có sự tự do.
Phần đông chúng ta bị ảnh hưởng sâu xa của những ức đoán người ta sẽ nghĩ
thế nào về mình. Chúng ta phán xét người xuyên qua hoàn cảnh của chính
mình. Nếu ta khâm phục và hâm mộ vài đức tính như sự khôn khéo, sự vui
tính, hay lòng quả cảm thì ta ước đoán rằng người khác cũng khâm phục và
hâm mộ các đức tính trên như vậy. Và ta cố làm ra vẻ như ta cũng có những
đức tính ấy. Làm ra vẻ có nghĩa là kềm hãm, ép buộc, luôn luôn cố gắng,
không dám ngừng nghỉ, không dám để lộ bản chất tự nhiên. Chúng ta cố làm
ra vẻ giống một vài lý tưởng thay vì thẳng thắn chấp nhận rằng đó chỉ là
lý tưởng, ta vẫn còn xa cách lý tưởng ấy, nhưng ta đang cố gắng đạt đến.
Bậc thiện trí thức có một căn bản liêm khiết, ngay thật, khinh thường
những cái giả dối bề ngoài. Ðó là sức mạnh, là khí khái, là cái khả năng
để giữ mình tương đối không xao động trước những lời ca tụng tán dương và
những tiếng chê bai khiển trách. Bậc thiện trí thức cũng có lý tưởng,
nhưng không bao giờ làm ra vẻ mình là kết tinh của lý tưởng ấy. Trái lại,
cố gắng, nhẫn nại, lần bước trên con đường dẫn đến đó với một niềm tin
vững chắc. Nếu có ai khen ngợi cũng không hãnh diện hay lộ vẻ vui mừng.
Nếu có ai khiển trách cũng không vì đó mà lo âu sầu muộn. Bậc thiện trí
thức nhận lãnh lời phê bình một cách trầm tĩnh và hiểu biết, và suy gẫm,
tìm hiểu lời phê bình có đúng không, người phê bình có đủ tư cách không.
Và khi đã quan sát tận tường lời phê bình, tức nhiên người thiện trí thức
nhận định rõ con đường của mình.
Ðôi khi lời khen hay tiếng chê là một sự hướng dẫn hữu ích. Nhưng không
phải luôn luôn như vậy. Nếu là một lời phê bình không nhằm lối, thì ta nên
gát qua một bên, không cần để ý đến nó. Cũng như một tâm trí lành mạnh
không cần để ý đến những lời chưởi rủa của người điên.
-ooOoo-
SÂN HẬN
Khi lòng sân nổi dậy như một con
ngựa chứng,
Người nào kềm chế nó được thì Như Lai gọi là mã kỵ.
Những kẻ khác chỉ là những người cầm cương.
PHÁP CÚ KINH
Mỗi
người chúng ta đều có thể hồi nhớ lại một lần nào ta đã giận dữ. Sân hận
là cảm xúc mà loài người chia sẻ với loài cầm thú, có lẽ ngoại trừ một vài
loại côn trùng, sò ốc, hay các loại sứa. Thế gian này vẫn còn cách xa sự
toàn thiện toàn mỹ. Về những sự việc đã xảy ra, ta có cảm nghĩ rằng những
việc ấy có thể xảy ra một cách khác nếu đương sự thông minh và ôn hòa hơn,
bớt ích kỷ và bớt tham lam hơn một chút. Trong những trường hợp tương tợ,
cái sân của ta lồng lộn nổi dậy, tựa hồ như một tuấn mã bất kham, và chúng
ta có một thái độ thấp kém hơn loài người một bậc.
Ðể
cho tâm sân mặc tình nổi lên và mặc tình phát triển thì thật là dễ. Con
ngựa sân đã tế nước lớn thì rất dễ mà giục nó càng tế mau hơn nữa nếu ta
dùng ngọn roi "tự cho là chánh đáng" để đập vào lưng nó. Nếu con ngựa chạy
điên không bị đụng chết ở đâu thì nó sẽ mệt dần, bớt dần tốc độ, và đến
một lúc nào nó sẽ trở lại trạng thái bình thường, nhận ra mình hơi điên rồ
và tự thấy trơ trẽn. Có lẽ không có gì xấu xa hơn là phô bày cho người xem
sự thô lỗ bất lịch sự của mình.
Tuy nhiên, những con ngựa điên như thế thường bị đụng chết trước khi mệt.
Ở Tích Lan, lãnh thổ của Phật Pháp, hàng năm số người giết nhau trong
những vụ cãi vã đã lên đến mức đáng lo ngại. Ðáng sợ hơn nữa là, phần lớn
các trường hợp, lý do để sát hại nhau thật không có gì hết. Một va chạm
tưởng tượng trong tiệc cưới, một vụ khất nợ không quan trọng, một cuộc cãi
vã về quyền sở hữu một cây hay một trái đi nữa cũng đủ làm đầu dây mối nhợ
cho một vụ chém giết nhau tàn nhẫn.
Tại sao vậy?
Rõ
ràng nguyên nhân chánh không phải là đầu đề tranh chấp, mà là thái độ của
đương sự. Nếu là người có tánh trẻ con, ưa quạu quọ hay kém trí xét đoán,
kém hiểu biết, thì một việc hết sức nhỏ nhặt có thể dễ dàng dẫn đến cảnh
ngục tù hay sự hành quyết.
Giáo lý của Ðức Phật đã hiến cho ta một phương pháp vô song để xây dựng
một con người hùng mạnh, trí tuệ và hiền lương. Tại sao rất nhiều người
sống trên đất lành của Phật giáo mà không hấp thụ được bẩm tánh quý báu
ấy? Chắc chắn rằng họ không hiểu giáo lý của Ðức Phật mặc dầu sống trên
một phần đất Phật Giáo. Họ được coi là phạt tử. Họ đã có tham dự những
buổi lễ Phật Giáo. Một đôi khi họ có nghe thuyết pháp. Nhưng giáo lý không
thấm nhuần họ, giáo lý không có thâm nhập vào bên trong họ để đưa vào cho
họ sự mát mẻ và sự thanh tịnh. Họ cũng như những đứa trẻ, khi thì vui vẻ,
rộng rãi, dễ thương, nhưng đến lúc nổi cơn sân lên thì trở thành dữ tợn,
hung ác, thật là đáng sợ. Trong những giai đoạn đen tối ấy, họ hành động
như không có bao giờ Ðức Phật sống trên thế gian này, như Ðức Phật không
bao giờ gởi đến cho nhân loại lời kêu gọi từ bi và trí tuệ.
Là
phàm nhân, chúng ta không mong có thể hoàn toàn chế ngự được tâm sân. Ðối
với ta sân hận là một vấn đề nan giải. Tuy nhiên nhiều việc còn có thể làm
được. Có một lối suy tư giúp ta kiểm soát tâm sân dễ dàng hơn. Ðầu tiên,
phải nhận định rằng không chế ngự được nó là dấu hiệu của sự yếu hèn,
không khi nào là dấu hiệu của sức mạnh. Chúng ta thích được xem là tự chủ,
là hùng mạnh. Khi nổi sân, ta có cảm tưởng như ta mạnh và tự chủ hơn lúc
thường. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng, một sự lầm lạc, một tai họa. Thật ra
trong những lúc tương tợ, ta yếu hèn và kém hiệu năng hơn thường. Nếu một
võ sĩ biết rằng đối thú của mình nóng tính thì chắc chắn anh sẽ hết sức cố
gắng để khiêu khích, chọc giận cho kỳ được, vì biết rằng một khi tức giận
thì đối thủ anh sẽ có chỗ hở, dễ dàng bị hạ hơn. Mỗi khi giận ta phải nhận
định rằng cái sức mạnh mà ta cảm thấy lúc bấy giờ không phải là sức mạnh
của tay mã kỵ. Nó chỉ là sức mạnh của con ngựa chứng chạy điên. Như vậy
tức khắc ta phải cố gắng kềm cương, thuần vó ngựa. Nếu thành công thì ta
là chủ. Nếu thất bại tức nhiên ta là nô lệ.
Ta
cũng nên suy luận rằng, và đây là một điểm cần thiết, thật ra sự việc
không được đến phân nửa phần quan trọng mà ta đã gán cho nó. Có nhiều
người tự quan trọng hóa mình một cách quá đáng. Những người ấy nên nhận
định rằng những cơn giận dữ mà họ đã bộc lộ không làm xúc động người khác
như họ tưởng. Người đang sân trông rất xấu xa và có thể là một tai họa.
Cái sân chỉ làm cho người ta cười chớ không làm cho người ta sợ. Người
khôn ngoan thỉnh thoảng phải biết cười mình. Nếu không, người khác sẽ
cười.
-ooOoo-
ÐỘ THỰC
"Một là gì?
- Là tất cả chúng sanh phải nhờ vật thực để sống".
Ðó
là câu hỏi và câu trả lời đầu tiên trong mười câu mà một thầy sa-di phải
học. Ðó là chân lý căn bản có thể áp dụng cho tất cả chúng sanh. Từ chúng
sanh to lớn nhất đến chúng sanh nhỏ bé nhất, từ cao nhất đến thấp nhất,
tất cả đều sống nhờ vật thực. Nếu lột bỏ tất cả những lớp ngoài cho đến
phần tinh túy nhất của nó thì đời sống là một tiến trình ăn và cố tránh
khỏi bị ăn.
Ðặt một giọt nước dơ dưới ống kính hiển vi thật mạnh, sự thật sẽ được
chứng minh một cách rõ ràng. Xuyên qua ống kính, ta sẽ thấy bao nhiêu sinh
vật tý ty, mỗi sinh vật là một chúng sanh, một cá nhân. Mỗi sinh vật đều
lăn xăn lích xích, rối rích nhộn nhịp để giành lấy sự sống. Những hoạt
động ấy là gì? Là ăn có cố tránh khỏi bị ăn. Nếu quan sát kỹ từng con vật
bé nhỏ ấy ta sẽ thấy rằng cuộc tranh đấu của chúng nó để giành quyền sống
vô cùng gay cấn, vô cùng ác liệt, không khác nào cuộc tranh hùng giữa hai
con cá kình. Con này vồ lấy con kia. Con kia cố sức vùng vẫy để thoát. Một
đàng cố bắt cho kỳ được. Một đàng cố chạy để khỏi chết. Cả hai đều tận
lực, dằn co cho đến lúc con yếu hơn quá mệt mỏi, bỏ cuộc và bị ăn. Ðó là
thảm kịch của đời sống, và thảm kịch này tiếp tục diễn tiến trong mỗi giọt
nước chưa có nấu chín, trong mỗi ly khối đất. Cao hơn một bậc, trong thế
gian hữu hình, cuộc tranh đấu lại càng ác liệt. Trong lòng đất, dưới nước,
trên mặt đất, giữa không trung, từng phút, từng giây, đều có những sinh
vật đang ăn và những con khác đang bị ăn.
Xuyên qua những cảnh tượng khủng khiếp của đời sống, đức tính ôn hòa hiền
lương và dịu dàng rất là ly hữu, tựa hồ như không bao giờ có. Khi mà tiến
trình của đời sống chỉ có nghĩa là bảo vệ mạng sống và căn cứ trọn vẹn
trên sự ăn và cố tránh khỏi bị ăn thì những đức tính như ôn hòa, hiền
lương và dịu dàng chỉ dẫn đến chỗ tự sát. Một con vật hiền lương sẽ không
sống được lâu, dầu ở trong trí nhớ của một con khác đã ăn nó. Một con cọp
hay một con cá mập cũng vậy. Ái dục (Tanha) là loại tâm mạnh nhất trong
mỗi chúng sanh. Ái dục là ham ăn. Càng ăn nhiều càng to lớn, càng mạnh
bạo, càng lánh xa tai họa bị kẻ khác ăn, càng có nhiều hy vọng được sống
sót.
Ðó
cũng là một chân lý đối với đời người mặt dầu hiện tượng sống của con
người phức tạp hơn nhiều. Trong thời sơ khai của nhân loại, con người phải
săn bắn để tìm thức ăn. Con người cố gắng để trở thành một người thợ săn
thiện xạ. Con người cũng cố gắng trở thành một tay thiện chiến để rồi cưới
được nhiều vợ và sanh được nhiều con, hơn người bạn yếu kém. Nhưng xã hội
đã tiến hóa, đổi thay, và trở nên phức tạp vì nhiều yếu tố mới đã chen vào
đời sống. Như người kia ăn ít, nhỏ bé, nhưng khéo tay khéo chân, sản xuất
được những vật đặc biệt, làm ra tiền nhiều hơn anh thợ săn. Nhưng bên
trong, con người của anh cũng bị định luật trên chi phối, anh có nhiều hy
vọng sống sót hơn những người kém khả năng.
Trong xã hội sang trọng hơn của loài người, người ham ăn, người ăn nhiều,
được thay thế bằng người đến mức, hãnh tiến, vô sở bất vi. Con người ấy
biết mình muốn gì và có đủ khôn ngoan, đủ khéo léo, đủ thủ đoạn để thành
tựu nguyện vọng. Ðó cũng là một lối ăn. Quyền lực và danh vọng là một thức
ăn. Càng có thế lực càng được trọng vọng. Trò chơi ăn và cố trách khỏi bị
ăn vẫn tiếp tục diễn tiến, trong một ý nghĩa rộng rãi hơn. Thay vì ham ăn,
người ta ham quyền thế, địa vị, của cải, sự nghiệp và những cái mà ta gọi
là "những vật tốt đẹp của đời sống". Người ta chiến đấu để giành những
điều ấy.
Ngược hẳn với tất cả, Giáo Lý của Ðức Phật dạy một tiến trình "lên đường"
để đi đến tự do. Ðức Phật vạch ra cái chân lý căn bản của thế gian là phải
tùy thuộc nơi vật thực, nơi sự kiện ăn và tránh khỏi bị ăn. Nhưng Ngài
cũng vạch ra một con đường, một lối sống để đạt đến tự do, để thoát ra
khỏi những hoạt động thô bỉ, ra khỏi vòng sanh, lão, bệnh, tử đáng ghê sợ.
Ngài dạy một lối tranh đấu trường kỳ để đạt cho được cái cần thiết và cố
giữ cái đã đạt được. Một cách rất giản dị ta nói rằng Giáo Lý của Ngài
nhấn mạnh trên điểm: Tự Do (Giải Thoát) là mục tiêu tối hậu mà người thông
minh đặt nguyện vọng cố đạt cho kỳ được. Ngoài ra, tất cả đều là vô
thường, tạm bợ, không đáng cho ta mong muốn, tất cả chắc chắn đều phải
diệt. Không nên bám bíu vào bất luận cái gì trên thế gian này.
-ooOoo-
NGHI THỨC
Không phải chỉ trong nghi thức lễ bái
cúng dường,
cũng không phải học rộng hay tham thiền nhập định, hay tu ẩn sĩ,
hay nghĩ rằng "ta đang thọ hưởng hạnh phúc của sự xuất gia",
Này hỡi Tỳ Khưu,
các thầy chớ nên thỏa mãn mà không lo dập tắt các pháp trầm luân.
PHÁP CÚ KINH
Người
chưa thấu hiểu giáo lý của Ðức Phật đôi khi nhận định sai lạc về các nghi
thức ở chùa. Lễ dâng bông cúng dường Ðức Phật, kinh thọ giới mà người cư
sĩ đọc đi đọc lại, kinh cầu an (Paritta), đảnh lễ chư sư và nhiều nghi lễ
khác, được xem là những bằng chứng hiển nhiên chỉ rõ Phật Giáo chỉ chú
trọng đến nghi thức.
Lầm lẫn như vậy vì thiếu hiểu biết. Ðức Phật dạy rằng cũng như mỗi giọt
nước trong biển cả đều có một vị là vị mặn của muối, trong toàn thể giáo
lý của Ngài chỉ có một vị là vị giải thoát. Trong câu Pháp Cú trích lên,
Ðức Phật chỉ rõ rằng những hình thức lễ bái cúng dường không phải trọn vẹn
là lối sống của Ngài đã dạy. Những xáo động mà ta phải tận diệt là 4
asavas (Tham ái, luyến ái đeo níu theo đời sống, tà kiến và vô minh) xem
như bốn dòng nước lũ, xoay tròn thành một cái xoáy vĩ đại, lôi cuốn chúng
sanh vào khổ cảnh. Diệt tận bốn dòng nước ấy là thoát ra khỏi vòng sanh tử
triền miên. Trên con đường, khi đắc quả Tu-Ðà-Huờn rồi, thì không còn tin
tưởng nơi sự cần thiết của các nghi thức lễ bái ấy nữa. Như vậy, dầu ta có
cố tình kéo dài trí tưởng tượng đến đâu cũng không thể cho rằng Phật giáo
đặt tất cả giá trị tôn giáo vào nghi lễ suông.
Tuy nhiên, chắc chắn rằng đối với ai còn là phàm nhân, đối với ai chưa
bước vào dòng suối của các bậc thánh, thì nghi thức lễ bái vẫn còn có giá
trị. Nó là phương tiện đưa ta đến cứu cánh. Trong những cơn phong ba bão
táp, nó là cái neo. Trong những lúc sầu muộn, nó là một niềm an ủi. Trong
những khi bị quyến rũ, nó là một lời nhắc nhở rằng trong đời còn có cái
chi cao siêu quý trọng hơn là những khát vọng vật chất tầm thường.
Người Phật tử góp nhặt những cành hoa đủ màu sắc để dâng dưới cội bồ đề
hay dưới chân tượng Phật, trong khi ấy suy tưởng đến sự toàn thiện vô song
của bậc Toàn Giác. Người Phật tử lúc ấy cũng suy niệm đến lý vô thường,
xuyên qua cái đẹp nhất thời của hoa. Với những tư tưởng tương tợ, tâm trở
nên lắng dịu và vững chắc.
Người Phật tử đọc đi đọc lại những câu kinh thọ ngũ giới, ngày này qua
ngày khác, để tự nhắc nhở lấy mình những điều mình đã tự nguyện cố giữ.
Người Phật tử đọc và nghe kinh cầu an (Paritta) vì nó là những chân lý kết
tinh trong lời nói của chính Ðức Phật.
Người Phật tử đảnh lễ chư sư vì các Ngài và bộ y vàng mà các Ngài đắp lên
mình tiêu biểu cho lối sống cao thượng nhất của con người.
Ðó
là những nghi thức, nếu ta thích gọi như vậy. Nhưng đó không phải là những
nghi thức vô ý nghĩa. Những nghi thức ấy nhất định là những phương tiện để
đến cứu cánh. Chỉ có những người nông cạn, những người không biết suy tư,
mới vội vã kết luận, khi thấy người kia mài búa, rằng mục tiêu cứu cánh
nằm trong việc mài cái búa.
Lẽ
dĩ nhiên là cũng như nhiều phương tiện hữu ích khác, hạng người cuồng
nhiệt có thể đặt nghi thức trên một địa vị quá đáng. Ta phải cẩn thận,
không nên lầm lẫn phương tiện với cứu cánh. Chính Ðức Phật, trong câu Pháp
Cú trích ở trên, cũng chỉ rằng lời khuyên có thể áp dụng cho sự tu học, sự
tham thiền nhập định, cho đời tu ẩn sĩ và hạnh phúc xuất gia. Không có
điều nào là cứu cánh. Tất cả những điều ấy chỉ là cái bè để đưa ta qua
sông. Khi qua đến bờ bên kia thì ta bỏ lại chiếc bè.
SỢ SỆT
Người nhận thấy cái sợ trong những
việc không đáng sợ,
Và không sợ những việc đáng sợ,
Là còn mang tà kiến và phải chịu trạng thái đau khổ.
PHÁP CÚ KINH
Theo
lời dạy của Ðức Phật, chỉ có một việc ta cần phải sợ. Nhưng bất hạnh thay!
Chính đó là điều mà phần đông những người phàm như chúng ta ít sợ nhất.
Ðiều duy nhất đáng cho ta sợ là hành ác, tạo nghiệp bất thiện (Akusala
Kamma), bất luận dưới hình thức nào. Hành động (Kamma) bất thiện là những
hành động bắt nguồn từ tham, sân, si, là những hành động có khuynh hướng
tăng trưởng lòng tham, sân, si vì nó cũng tăng trưởng và kéo dài sự đau
khổ trong vòng luân hồi, sanh tử triền miên. Bậc trí tuệ thì rất sợ và cố
gắng lánh xa những hành động bất thiện, những hạng cuồng si thì thấy không
có gì hại, lắm khi còn thấy vui sướng và đáng làm, đáng khen. Do đó có
những hạng phụ huynh khuyên dạy con em "lăn xả vào đời", làm bất luận việc
gì, có ngờ đâu đứa trẻ phải trả một giá rất đắc và rất đáng ghê sợ về sau,
để hưởng trong hiện tại những tiến bộ vật chất tạm bợ, nhất thời, thật ra
không đáng.
Một đàng khác người thế gian ghê sợ những điều mà đối với Ðức Phật, không
có gì đáng sợ. Ta sợ những tai họa vật chất, những lỗ lả về tài chánh, ta
sợ bệnh, sợ mất quyền thế, mất tiếng tăm và bao nhiêu cái sợ khác phụ
thuộc vào hoàn cảnh ta đang sống. Ðối với Ðức Phật những cái sợ ấy và vô
căn cứ. Khi nó phát sanh Ngài tự nghĩ "nó chỉ phát sanh ở hạng cuồng si,
không thể phát sanh ở bậc trí tuệ". Ðó là một bài học cho người còn nhận
thấy cái sợ trong những việc không đáng.
Ngày kia, có một đạo sĩ Bà-La-Môn đến hỏi Ðức Phật rằng người tu ẩn sĩ,
một mình ở giữa rừng vắng vẻ quạnh hiu, khi mà chưa nhập định được thì có
sợ không? Câu trả lời của Ðức Phật thật là sáng tỏ. Ngài nói "Thầy đã trả
lời, này đạo sĩ, Thầy đã trả lời, và Ngài giải thích rằng những người tu
ẩn sĩ, vì một lý do nào, chưa được chuẩn bị đầy đủ để sống đời cô độc ở
giữa rừng sâu sẽ còn sợ sệt. Lúc chưa đắc quả Chánh Ðẳng Chánh Giác, Bồ
Tát hằng tìm những nơi rùng rợn, ghê tởm sợ và sống một mình ở đó chờ cảm
giác ghê sợ phát sanh để cố gắng chẽ ngự và dập tắt nó. Lúc ấy Ngài đã có
tham thiền nhiều làm rồi và đã đạt được nhiều kết quả tinh thần rất cao,
nên mỗi khi cái sợ phát sinh thì Ngài cố gắng vận dụng tâm lực để dập tắt
và lần lần tiến đến mức thanh tịnh tuyệt đỉnh, chỉ có thể so sánh với một
vị Phật. Tuy nhiên, Ðức Phật xác nhận rằng có sợ, đã nhìn thấy nguyên nhân
của nó và Ngài nhìn nhận đối với người thế gian, tinh thần chưa được vững
bền, đạo đức chưa được chắc chắn thì sợ là một sự thật. Thi sự có sự sợ
sệt.
Ðành rằng, như Ðức Phật dạy, cái sợ chỉ phát sinh cho hạng cuồng si. Nhưng
người thế gian thật sự là cuồng si. Cũng vì thế mà ta còn là người thế
gian. Chúng ta luyến ái vật kia vật nọ, cố bám bíu lấy nó, giành giựt,
ganh ghét lẫn nhau vì nó, và càng đi sâu càng bị màn vô minh che lấp. Vì
thế ta đâm ra sợ. Nếu đôi khi chúng ta quyết can đảm lên, thế thường sự
can đảm ấy có những lý do lầm lạc. Thí dụ như người thợ săn can đảm, với
những khí giới tối tân, không sợ một thớt tượng. Trong khi mang theo súng
ống đầy đủ để trừ một cái sợ nhỏ trong những cái không đáng sợ thì người
thợ săn lại không sợ cái đáng lẽ phải sợ là tạo nghiệp bất thiện. Sự si
cuồng tăng lên gấp đôi.
Chỉ có một con đường để thoát ra khỏi cái sợ. Ðó là con đường mà Ðức Phật
đã vạch. Ngày nào mà ta chưa đến mức cuối cùng của con đường ấy, chừng nào
mà ta chưa được hoàn toàn giải thoát, thì ta còn sợ. Nhưng ít ra, từ bây
giờ ta hãy nhận ra nó và tìm hiểu nó là gì. Có phải là hậu quả bất hạnh
của tham, sân, si không?
-ooOoo-
THOÁT RA KHỎI CÁI SỢ
Tất cả đều sợ hình phạt.
Tất cả đều sợ chết.
Hãy so bụng ta với bụng người,
Không nên sát sanh và không nên làm cho người khác sát sanh.
PHÁP CÚ KINH
Người
có đạo đức, nhờ căn bản đạo đức, làm cho người khác yên tâm khi nghĩ đến
mình. Con người đạo đức không khi nào là một dọa nạt, không khi nào giết
người, không khi nào cướp giựt của ai, không cám dỗ, không nói xấu hay xay
sưa phá rối. Một người đã nghiêm trì ngũ giới hẳn là trong sạch, là một
người bạn láng giềng dễ chịu.
Có
người cố làm giảm thiểu giá trị của 5 giới căn bản, cho rằng đó là những
quy tắc "tiêu cực". Họ không chịu nghĩ đến hậu quả tích cực của nó là cái
không khí yên lành mát mẽ mà người trì giới nghiêm chỉnh tạo quanh mình.
Ðôi khi ta quên rằng điều mà phần đông mong mỏi không phải là sự trợ giúp
tích cực mà chính là sự tự do, không bị phiền phức, không bị ai chen vào
công việc mình. Người ta có thể tự mình lo công việc của mình và muốn được
để yên. Ðó cũng là một điều mà người có tâm nhiệt thành với công tác xã
hội nên lưu ý. Trong cái thế gian tranh chấp và phiền não lo âu này, không
khí vui vẻ thuận hòa và yên tĩnh hẳn là đáng quý. Người nào có thể tạo nên
một hoàn cảnh tương tợ là đã phục vụ nhân loại rất nhiều.
Ðã
có bao nhiêu nhà tu ẩn sĩ, sống cô độc ở giữa rừng sâu mà không mang theo
mình một loại khí giới nào. Vậy mà rất ít khi, nếu không phải là chưa bao
giờ, ta nghe nói có vị nào bị thú dữ hành hung. Ðó vì chính những con thú
rừng cũng nhạy cảm và tương ứng với không khí an lành từ ái mà các vị ấy
đã tạo. Về điểm này, có nhiều lý do để tin rằng thú rừng tốt hơn người.
Rất có thể loài thú không bao giờ làm tổn thương đến những nhân vật như
chúa Jesus hay Giordano Bruno.
Người Phật tử tin chắc rằng một hành động có phương hại đến người khác
không khi nào đem lại lợi ích cho mình. Vì vậy mà trong toàn thể lịch sử
Phật Giáo không có trang nào bị máu làm hoen ố. Không có một người nào bị
giết chóc hay bị hành hung vì không tin ở Ðức Phật. Phật Pháp là một lối
sống tự do và cao thượng, chỉ thích hợp với một hạng người. Người Phật tử
không tìm cách bắt buộc người khác phải chấp nhận lối sống ấy, bởi vì bắt
buộc là đi ngược lại với tự do. Người Phật tử cũng không chủ trương rằng
muốn được giải thoát hoàn toàn thì phải theo đạo Phật tức khắc. Vẫn còn
thì giờ. Còn rất nhiều thì giờ. Còn cả một thời gian vô hạn. Những người
không chấp nhận được Giáo Lý của Ðức Phật ngày hôm nay sẽ chấp nhận một
ngày khác. Ta không cần phải lo sợ cho họ, cũng không nên làm ra vẻ ta đây
là Cứu Tinh. Họ sẽ tự cứu lấy họ, mặc dầu chậm trễ, mặc dầu không phải
bằng những phương tiện mà hiện nay họ đang tin tưởng.
Bây giờ, người Phật tử phải có thái độ như thế nào đối với người khuyên
mình đổi tôn giáo theo về với họ? Thái độ của ta phải là hiểu biết, từ ái
và nhẫn nại. Dầu sau, dẫu có trá hình đi nữa, đó cũng là một cử chỉ thân
thiện. Người Phật tử phải lấy thiện ý đáp lại thiện ý. Ta hãy nói qua cho
họ biết một ít về Phật giáo.
-ooOoo-
TINH THẦN QUỐC GIA
Không phải trên không trung, giữa biển
sâu,
Hay trong hang đá của ngọn núi nào,
Cũng không thể tìm ra một nơi nào trên thế gian này để ẩn náu,
Mà khỏi phải chết.
PHÁP CÚ KINH
Lời
kêu gọi của Ðức Phật gởi đến mọi người, mọi thời đại. Ngài sanh trưởng
trong hoàng tộc dòng Thích Ca (Sakya), ở miền Bắc Ấn Ðộ. Nhưng khi tưởng
niệm đến Ngài, chúng ta không hề nghĩ rằng Ngài là người Ấn hay là một
người của dòng họ Thích Ca. Ngài quá cao quý và đã vượt lên khỏi những
điều ấy.
Ðối với người đi theo con đường của Ðức Phật thì tinh thần quốc gia không
có ý nghĩa gì. Tại sao ta cất tiếng lên hát bản quốc nhiều với tất cả tâm
hồn và một niềm tin đầy thiện cảm khi mà, theo lời dạy của Ðức Phật, chắc
chắn ta phải chết một ngày nào, và sau khi chết, ta có thể tái sanh trong
một quốc gia khác. Tinh thần quốc gia có thể có đầy đủ ý nghĩa đối với
người không thể nhìn xa hơn kiếp sống này. Những người không tin ở sự tái
sanh. Hơn nữa, tinh thần quốc gia bắt nguồn từ ý niệm lầm lạc về "Ta" và
"của Ta". Ðức Phật dạy rằng không có cái gì trường tồn bền vững trong một
chúng sanh. Không có cái chi mà ta có thể nói rằng "đây là Ta" "Cái này là
của Ta". Vậy thì làm sao người Phật tử thành thật có thể nói đây là "quốc
gia của Ta" hay đây là "dân tộc của Ta". Nếu thật sự ta đã chấp nhận giáo
lý của Ðức Phật thì ta không thể nghĩ rằng ta là người của một quốc gia
riêng biệt nào. Một cách chính xác, ta cũng không thể nghĩ đến ta như một
con người, vì cho đến cái trạng thái người của ta cũng là tạm bợ, nhất
thời. Ta chỉ có thể coi ta như là một chúng sanh, nghĩa là một diễn tiến
của dòng Danh Sắc, Tâm Thể Xác, luôn luôn biến đổi, luôn luôn sanh, trụ
rồi diệt.
Trên nhiều phần đất của thế gian ngày nay tinh thần quốc gia hẹp hòi hình
như càng ngày càng bành trướng. Con người có khuynh hướng càng ngày càng
mạnh rằng mình có dân của quốc gia này hay quốc gia khác, thay vì là một
chúng sanh sáng suốt. Cũng như một cái ung thư nguy hiểm, tinh thần quốc
gia hẹp hòi ấy ăn dần vào tất cả cái gì cao quý và quảng đại nhất của con
người, khoét dần tình thương và đức tính liêm khiết, thanh bạch, để thay
vào đó bằng những tế bao xấu xa bẩn thỉu. Nhiều người xem đó là một thay
đổi trong sạch. Nhưng không có người Phật tử chân chánh nào giẫm chân trên
con đường lầm lạc ấy.
Trong lúc đang sống kiếp người hãy có đủ sáng suốt để tự nhận là một con
người, thay vì là người Tích Lan, người Hoa Kỳ, người Miến Ðiện hay là
người Nga. Không nên có những ý tưởng ty tiện về ngôn ngữ, y phục, tập
quán, nghi thức, lễ tiết.
Ðức Phật như mặt trời. Pháp của Ngài như ánh sáng, bao trùm tất cả mọi
người, không cần biết ai nói tiếng gì, mặc y phục gì hay ở xứ nào. Ngôn
ngữ Ðức Phật là Chân Lý, y phục của Ngài là Chân Lý và quê hương của Ngài
là vũ trụ bao la, bởi vì Chân Lý là một, ở mọi nơi, mọi thời đại.
-ooOoo-
DANH TỪ
Chỉ một câu mà đem lại sự vắng
lặng cho người nghe.
Còn hơn cả bài Pháp dài hàng ngàn chữ
Mà không chứa đựng ý nghĩa bổ ích nào.
PHÁP CÚ KINH
Nó
tràn ngập chúng ta. Mỗi khi ta giở ra một tờ báo, mỗi khi ta vặn máy phát
thanh thì nào là danh từ, danh từ, danh từ... Ai nói lên những danh từ ấy?
Ai viết nó ra trên giấy? Lắm khi chúng ta cũng không màn tìm hiểu. Ta
không có thì giờ. Nhưng âm thầm, lặng lẽ, tế nhị và khôn ngoan, những danh
từ mà ta nghe, những danh từ mà ta đọc dần dần gieo ảnh hưởng đến ta. Cũng
vì lẽ đó mà người ta chịu tốn bao nhiêu tiền để đăng mấy cột quảng cáo
trên mặt báo hay để được phát thanh trong chương trình thương mại. Người
ta biết rằng danh từ làm được rất nhiều việc. Những danh từ khéo chọn và
khéo ráp lại với nhau có thể đưa trí tưởng tượng của ta đi dễ dàng. Người
ta biết rằng những danh từ khêu gợi, lặp đi lặp lại nhiều lần, sẽ được
chấp nhận như một chân lý.
Ai
là người bền công, chịu khó tận dụng sự công hiệu của danh từ? Chắc chắn
rằng đó là những người muốn bán một món hàng. Hàng có thể là một dược
phẩm, có thể là một năm bảo hiểm, có thể là một ý thức hệ chánh trị. Họ cố
gắng tung ra thị trường một món hàng và họ dùng những danh từ - danh từ
hãi hùng rùng rợn, những danh từ khêu gợi sự thèm muốn và kích thích cảm
xúc. Ít khi, nếu không phải là không khi nào, có những danh từ khêu gợi lý
trí và trí tuệ.
Khêu gợi lý trí và trí tuệ là khuyến khích người nghe suy gẫm và đó là một
điều tối kỵ đối với ai muốn bán một món hàng. Gợi những khát vọng và kích
thích những cảm xúc của khách hàng hẳn là có lợi hơn.
Khát vọng thì mênh mông, cảm xúc thì có rất nhiều loại, phạm vi hoạt động
của khách rao hàng thật là rộng rãi. Nghiên cứu kỹ càng một bài quảng cáo
đăng trên mặt báo ta sẽ thấy nó vừa bổ ích vừa lý thú. Ta được biết rằng
chỉ có những người "sang trọng nhất" mới mặc cái áo "hiệu này" hay "hiệu
nọ". Người ta không cho ta biết tại sao, cũng không khuyến khích ta tìm
hiểu tại sao. Ta chỉ được biết rằng trong xã hội có một hạng người gọi là
"sang trọng nhất" và chỉ có hạng người này mới mặc cái áo "hiệu này" hay
"hiệu nọ". Bao nhiêu đó đủ khêu gợi đủ làm cho người ta muốn cũng mặc cái
áo như vậy. Phần lý thú của câu chuyện là đánh giá cái bản chất của nhân
loại như vậy tỏ ra là xác đáng. Bởi vì hiệu áo này bán chạy một cách khả
quan.
Rồi lại có sự khêu gợi bản tính sợ sệt. Các công ty bảo hiểm khai thác cái
bản tính này một cách quá đáng. Người ta thúc giục nên đi bảo hiểm mọi tai
họa. Người ta không cho biết tại sao công ty bảo hiểm lại hết sức sốt sắng
muốn bảo hiểm cho ta và cũng không gợi ý tò mò của ta. Người có hùn vốn
trong công ty thì biết tại sao, vì mỗi tháng câu trả lời nằm trọng vẹn
trong bản báo cáo chia lời. Phần đông những người đi bảo hiểm không cần
phải được bảo hiểm. Nếu không phải vậy thì các công ty bảo hiểm đã phá
sản.
Trong giới chánh trị cũng vậy. Muốn bán món hàng của mình người ta khêu
gợi sự thèm thuồng và kích thích cảm xúc nhiều hơn là lý trí và sự sáng
suốt. Người ta dùng danh từ, ngàn này đến ngàn kia danh từ khêu gợi, có
khuynh hướng bóp chết khả năng suy gẫm, phê bình. Người ta lặp đi, nhắc
lại nhiều lần trên diễn đàn, trên mặt giấy, trên những làn sóng điện và
rốt cùng, người khác sẽ chấp nhận những danh từ ấy như sự thật. Người ta
làm như vậy một cách quả quyết. Bị chận ngăn bên trong làn sóng tuyên
truyền thì rất khó mà nhận định rõ ràng và mạch lạc. Và các chính trị gia
đã hiểu như vậy. Công việc của họ không phải là khuyến khích người ta suy
gẫm rõ ràng và mạch lạc.
Tuy nhiên, từng cá nhân, chính ta phải suy gẫm. Ðó là bổn phận của chúng
ta nếu ta muốn giữ mình được liêm khiết, trong sạch. Trong tất cả bao
nhiêu ngàn danh từ mà người buôn hàng tung ra tràn ngập ta, không có một
chữ có thể đem lại cho ta sự vắng lặng của tâm. Chỉ có những danh từ làm
cho ta muốn vật này hay vật kia, những món hàng mà người ta muốn bán.
Nhưng sự vắng lặng của tâm thì không có ai bán. Nó chỉ là một món quà mà
ta tự cho ta. Nếu ta có trí tuệ, nó là món quà mà từ ngàn xưa hạng người
trí tuệ tự cho mình. Nếu ta có thể đóng những cái cửa của tâm lại, gát ra
ngoài bao nhiêu lời kêu gọi, rao hàng, của những người cố gắng bán cho ta
những vật không có giá trị nào thì chừng ấy ta có thể nghe câu nói đầy ý
nghĩa, câu nói đem lại cho ta sự vắng lặng, câu nói mà Ðức Phật đã dạy:
"Trong thế gian này, người nào kiểm soát được cái khát vọng vô lối và bất
kham của mình thì phiền não sẽ rời mình cũng như những giọt nước rời lá
sen để rớt xuống".
-ooOoo-
SI MÊ
Tất cả những bợn nhơ trong tâm hẳn
là xấu xa,
trong thế gian này và trong thế gian kế.
Cái bợn nhơ to lớn và tệ hại hơn tất cả là si mê.
Này hỡi các Tỳ Khưu, hãy gội rửa bợn nhơ ấy
Và trở nên toàn thiện.
PHÁP CÚ KINH
Ðôi
khi người ta hỏi người Phật tử tại sao Ðức Phật không dạy những điều chúng
ta đã khám phá ra ngày nay mà lúc bấy giờ chưa ai biết. Người ta hỏi, nếu
Ðức Phật là toàn tri toàn giác thì hẳn Ngài đã thông suốt tất cả các hiện
tượng trong vũ trụ, và đã biết rõ Thái Dương Hệ, Giãi Ngân Hà v.v... Như
vậy tại sao Ngài không sửa chữa lại những tin tưởng sai lầm của thời bấy
giờ.
Một câu hỏi như vậy thật là hợp lý, bởi vì người nêu lên nó cảm thấy đầy
đủ, cảm thấy bằng lòng với sự biểu biết của mình ngày hôm nay và bằng lòng
với sự không biết một điều nào về mục đích của đời sống Ðức Phật. Trước
tiên, ta có nên thật sự quả quyết một cách độc đoán rằng những hiểu biết
của chúng ta ngày nay sẽ không bị chứng minh là sai lầm một ngày nào
không? Bởi vì những điều mà ta biết ngày hôm nay có thể cũng cách xa chân
lý như những hiểu biết của người ở thời đại thạch khí. Ngàn năm sau, nếu
khí giới nguyên tử không biến quả địa cầu ra một hành tinh chết thì người
ta sẽ sắc nhắc đến những tư tưởng ngày nay cũng tương tợ như hiện nay ta
nhắc lại tư tưởng của người sống trước thời Copernic. Ðối với trí tuệ của
Ðức Phật những tư tưởng sẽ thạnh hành trong một ngàn năm sau vẫn còn chưa
được vững.
Tuy nhiên, những điều mà Ðức Phật muốn dạy ta còn quan trọng hơn những
thắc mắc ấy nhiều, vì là tối cần thiết để giải thoát. Ngày kia, khi đi
ngang qua một cụm rừng, Ðức Phật nắm trong tay một nắm lá và nói rằng
những điều Ngài dạy chỉ như số lá trong tay và sự hiểu biết của Ngài thì
cũng như tất cả lá trong rừng. Tuy nhiên bao nhiêu điều dạy ấy rất đầy đủ
để giúp cho ta giải thoát. Ngài không bỏ sót một điều cần thiết nào.
Bây giờ chắc chắn rằng ta không còn ngây ngô quả quyết rằng một nhân vật
như Ðức Phật lại còn thắc mắc ái ngại với những việc như sửa sai quan niệm
lầm lạc của chúng sanh về những hiện tượng vật chất và những cơ cấu vũ
trụ. Cũng như làm cha mẹ, thấy con vui mừng tin tưởng nơi ông già Noẽl thì
cho đó là không có gì hại, Ðức Phật thấy rằng những tin tưởng lầm lạc về
cơ cấu của vũ trụ cũng không có gì là hại. Ðối với Ngài, dầu chúng sanh
tin rằng mặt trời xoay chung quanh quả địa cầu hay là trái đất xoay quanh
mặt trời thì cũng không sao. Mặc dầu tin rằng nếu đi mãi, đi mãi, một ngày
kia ta sẽ đến chân trời, người kia vẫn có thể hiền lành và thông minh sáng
suốt. Có rất nhiều người trí tuệ và hiền lành hơn ta biết mấy mà vẫn tin
như thế.
Ðức Phật không quan niệm rằng chính sự hiểu biết là mục đích cứu cánh.
Nhưng tại sao Ngài dạy rằng si mê là cái bợn nhơ vĩ đại và tệ hại hơn tất
cả. Bởi vì chính si mê nằm chẻn ngang trên con đường giải thoát của chúng
sanh. Chính si mê nuôi dưỡng lửa tham và lửa sân. Chính si mê dẫn dắt
chúng ta triền miên trôi vạt trong vòng luân hồi, hết kiếp này đến kiếp
khác.
Mặc dầu nghĩ thế nào về sự khôn ngoan sáng suốt của ta, tất cả chúng ta
vẫn còn chìm đắm trong si mê. Chúng ta vẫn chưa chứng nghiệm được rằng vạn
hữu là vô thường, không đáng cho ta ham mê bám bíu, rằng tất cả đều biến
đổi và tiêu tan, tất cả đều tạm bợ. Như vậy ta ưa thích, luyến ái, rồi bám
bíu, rồi hy vọng, rồi mưu toan, thảo kế hoạch. Ta gieo những hạt giống,
tạo những kiếp sống tương lai trên một thế gian đầy phiền não, trong cảnh
giới ảo huyền, giữa những hình bóng luôn luôn biến đổi. Như vậy thì biết
rằng trái đất xoay quanh mặt trời có lợi ích gì? Tất cả những gì mà khoa
học đã khám phá không giúp cho nhân loại tiến lên được tấc đất nào trên
con đường hạnh phúc. Thật vậy, sự điên cuồng của con người quả là trọng
đại. Càng hiểu biết thêm cái thế gian vật chất này ta càng nhận ra là mình
bé nhỏ và bần tiện. Ngày nay nhân loại đã trở thành bần tiện đến đỗi chúng
ta có cảm giác như đang luận phiên tự sát, giống như loài bò cạp, tự chích
lấy đuôi mình đến chết, chết vì nọc độc của chính mình. Nếu đó là hậu quả
của sự hiểu biết thì thà kém hiểu biết còn hơn. Có lẽ Ðức Phật đã thấy
trước như vậy khi Ngài giữ lại bao nhiêu hiểu biết mà không dạy thế gian.
Ngài dạy một lối sống khả dĩ mở mang trí tuệ mà không đề cập đến những
hiểu biết vô ích và có thể nguy hại.
-ooOoo-
NĂNG LỰC CỦA CHÂN LÝ
Trên thế gian này chắc chắn là có
đạo đức, có thiện tâm.
Có sự gội rửa, có sự cải thiện
Do nơi sự kiện này ta quả quyết xác nhận chân lý.
TÚC SANH TRUYỆN
Người
phương Đông từ lâu nay vẫn tin rằng có một năng lực phi thường trong sự
"xác nhận chân lý". Có rất nhiều trường hợp được ghi nhận trong kinh điển
Phật Giáo chỉ rằng năng lực của chân lý được sử dụng với những mục đích
khác nhau, như để chữa bệnh chẳng hạn. Chân lý đặc biệt có hiệu năng khi
người xác nhận nó rõ ràng có đầy đủ tư cách, như khi người biền lương đạo
đức nói lên hoặc quán tưởng: "Do nơi oai lực của Chân Lý cho rằng có đạo
đức và thiện tâm trên thế gian, mong rằng bệnh tật của ông... được tiêu
tan". Ta có thể hiểu được rằng người hiền lương đạo đức như vậy xác nhận
chân lý với một niềm tin vững chắc hơn là một người xấu xa gian ác, và tâm
của người ấy chuyển đạt năng lực chân lý dễ dàng hơn. Chắc chắn rằng niềm
tin rất là thiết yếu.
Có
một thời nào, người ta cho rằng ai là người tân tiến, theo kịp thời đại,
phải chê bai và chế nhạo, không tin những gì mà ngũ quan không ghi nhận
được. Như tâm lực chẳng hạn. Nhưng ngày nay, ở Á Ðông, cho đến người sống
theo chủ nghĩa duy vật cũng được cnảh tỉnh nhận rằng tâm thật sự có một
năng lực phi thường mà khoa học hiện tại không thể giải thích được. Ngay
đến vật chất cũng đã không còn là một cái gì bền vững trường tồn như một
vài năm trước và đã phản bội con người duy vật. Vật chất chỉ còn là một
biểu hiện của năng lực. Vậy năng lực là gì? Không ai biết. Người ta chỉ
gọi nó bằng những danh từ khác nhau và nêu lên thí dụ của những hình thức
biểu hiện của nó như điện, từ tính, sức hấp dẫn, sức nóng và ánh sáng. Như
vậy có hợp lý chăng, khi ta giả thiết rằng tâm cũng là một hình thức năng
lực và tâm lực của thể ảnh hưởng đến cái mà ta gọi là thế gian vật chất.
Lẽ
dĩ nhiên, không phải là tất cả mọi người đều có thể dùng tư tưởng của mình
mà chẻ đôi được một tảng đá hay cất lên một vật nhẹ như cái lông chim đi
nữa. Tuy nhiên ta hỏi lại, bao nhiêu người biết làm cách nào để phát sanh
ra đầy đủ điện lực để chẻ đôi một tảng đá hay cất lên một cái lông chim?
So với số đông đảo dân chúng, tỷ số thật là thấp, rất thấp. Vậy mà không
ai phủ nhận năng lực của điện.
Ðiểm khác biệt trọng yếu giữa tâm lực và điện lực là trong cái thế gian
tân tiến này, điện lực đã trở thành khí cụ cho bất luận kẻ điên cuồng nào
biết bấm một cái nút, còn tâm lực thì chỉ phát sanh trong từng cá nhân.
Từng cá nhân phải tự mình cố gắng để phát động tâm lực vì không thể giúp
ai có được tâm lực, ngoại trừ bằng những lời khuyên thích hợp. Mỗi người
phải tạo lấy cho mình cái máy phát tâm lực và tự luyện tập để sử dụng nó.
Mỗi người phải là một chuyên viên và một trắc nghiệm viên lành nghề.
Ở
phương đông, chúng ta không thiếu gì huấn luyện viên, và ngày nay nhiều
phương pháp đã được trình bày rành rẽ trong sách vở. Vị thầy cao cả nhất
là Ðức Phật. Ngài đã thấu triệt bản chất của tâm lực hơn tất cả và Ngài
biết một phương pháp tương đối dễ để phát động tâm lực. Phương pháp ấy là
"Xác Nhận Chân Lý". Tuy nhiên, ta phải nhận định rằng mục đích duy nhất
của Ðức Phật là dạy chúng sanh làm cách nào để thoát ra khỏi cảnh khổ não
triền miên dính liền với kiếp nhân sinh chớ không phải là để phát triển
tâm lực. Tâm lực chỉ đến tự nhiên như một sản phẩm phụ. Ðức Phật không cho
riêng nó một giá trị.
Dầu sao ta không thể phủ nhận rằng phàm nhân chúng ta đôi khi phải cần đến
tâm lực để giúp đỡ kẻ khác. "Xác Nhận Chân Lý" một cách thích đáng tất tạo
nên năng lực. Nhưng ta phải có đủ tư cách. Hành động của ta phải biểu lộ
cái Chân Lý mà ta muốn tạo năng lực để xử dụng. Ðịnh luật thiên nhiên
không cho phép một người chơi bời phóng túng lạm dụng chân lý về đạo đức
hay một người bỏn xẻn keo kiết lạm dụng chân lý về thố thí. Nếu ta có đủ
tư cách để sử dụng nó thì sự xác nhận chân lý là một nguồn năng lực chẳng
sai.
Với năng lực ấy ta có thể giúp một người bệnh được khỏe mạnh, làm cho
người điên được tỉnh trí, đưa những tia hy vọng đến cho người thất chí và
đổi sận hận oán ghét ra tình thương.
Ngày nay, đối với người có đủ lương tri để giúp cho thế gian này khỏi trở
thành một lò sát sanh, thì "thiện tâm lực" là điều tối cần. Bài này được
viết ra với hy vọng rằng tất cả những người có thiện tâm, bất luận thuộc
tôn giáo nào, sẽ tận dụng tâm lực mình để phục vụ nhân loại.
-ooOoo-
CON ÐƯỜNG HẠNH PHÚC
Ai đã dứt bỏ các thằng thúc ở cảnh
người
và vượt ra khỏi những vấn vương ở cảnh trời
là đã hoàn toàn thoát ra khỏi mọi ràng buộc.
Như Lai gọi người ấy là bậc thiện trí thức.
PHÁP CÚ KINH
Ðức
Phật đã vạch con đường để thoát ra khỏi mọi sự trói buộc ở cảnh giới người
và trời, con đường dẫn đến tự do tuyệt đối. Ðối với người thế gian, còn
vấn vương trong những thằng thúc của thế gian như khát khao danh vọng,
tiền tài, thì chắc là khỏi cần phải đề cập đến các dây trói buộc ở cảnh
trời. Người như vậy chưa kịp nhận ra ý nghĩa của tự do thì cái chết đã sù
sù đến trước mặt. Họ sống với những rung động của lòng tham trần tục, và
chết với những rung động ấy. Nếu đến giờ lâm chung mà những khát vọng ấy
chưa được thỏa mãn như bao nhiêu trường hợp đã xảy ra - vì có bao giờ ta
biết là đủ - thì hy vọng có được một tái sanh tốt đẹp thật là mỏng manh.
Tuy nhiên cũng có người sáng suốt, biết từ khước những khát vọng thô lỗ
của thế gian để tìm cái gì thanh tao cao quý hơn. Những người ấy nhận định
rằng cái chết phải đến với tất cả mọi người, và chết nghĩa là bỏ tất cả
của cải, sự nghiệp, danh vọng và quyền thế trần gian. Thay vì nghĩ đến
những thành công ở hiện tại, họ sống với một con mắt hướng về tương lai.
Người ta có thể cho rằng họ không thực tiễn, là họ sống ngoài thế gian.
Thật ra họ chỉ thấy xa. Hơn là không thực tiễn. Họ cũng như người kia nhịn
xài, để ra một số tiền, tạo vốn làm ăn, thay vì làm ra bao nhiêu thì xài
hết. Như vậy họ vẫn thực tiễn, vẫn sống trong thế gian này.
Thấy xa vẫn có lợi, trong hiện tại và trong các kiếp tương lai, Ðức Phật
dạy như vậy. Sáng suốt vẫn có ích. Người tối tăm khờ dại không có lý do
nào để cảm thấy mình hơn người trí tuệ vì mình không cần nghĩ đến ngày
mai. Và khi ngày mai đến, người khờ dại không có lý do nào để bào chữa cho
sự rung sợ của mình trong những hoàn cảnh bất hạnh.
Người trí tuệ bỏ vốn trong hiện tại để hưởng lợi ở tương lai thì không
phải là không thực tiễn. Người ấy sẽ gặt hái quả lành như là phần thưởng
cho sự thấy xa của mình. nhưng dầu có được tái sanh trong cảnh trời đi
nữa, nhưng phần thưởng ấy vẫn còn là phàm tục. Người ấy vẫn còn vấn vương
trong những dây trói buộc và vẫn còn phải chết. Tuổi thọ trong những cảnh
trời thật là dài, dài lắm. Nhưng rồi một ngày nào, khi duyên kỳ đến,
nghiệp lực dứt, thì người kia phải chết, và từ cảnh trời sẽ tái sanh vào
cảnh giới tương xứng với chiều hướng của luồng nghiệp lúc lâm chung. Người
ấy có thể tái sanh vào cảnh người trở lại mà cũng có thể tái sanh vào một
cảnh giới thấp hơn. Và như thế mẫu chuyện của đời sống liên tục tiếp diễn,
mãi mãi, triền miên, đến khi chứng ngộ đạo quả Niết Bàn. Tất cả chúng ta
đều sống ở thế gian và tất cả những ước vọng của chúng ta về một kiếp sống
hạnh phúc và an toàn là phàm tục, nếu ta không thể vượt lên và đi xa hơn
nữa.
Cái nguy cơ đáng sợ là tính cách biến đổi không ngừng của tâm. Người kia
có một đời sống lương thiện và sáng suốt, tích trữ nghiệp lành, và nhờ đó,
tái sanh vào cảnh trời. Nhưng có thể là trong cảnh giới đầy lạc thú này
người ấy không còn lương thiện và sáng suốt nữa. Giai đoạn nhộng của người
tinh tấn, vững bước trên đường tiến bộ ở kiếp sống này có thể biến thành
giai đoạn bướm trong cảnh trời, ở kiếp sống kế. Và nếu tái sanh trở lại
vào cảnh người, quên hết dĩ vãng, người ấy không biết tại sao mình được
giàu sang may mắn và có thể trở nên phóng túng hư hèn.
Vì
lẽ ấy, Ðức Phật khuyên ta nên tháo bỏ mọi trói buộc ở cảnh người và cảnh
trời để tiến đến mức giải thoát hoàn toàn. Bỏ vốn để hưởng lợi trong kiếp
tương lai là tốt, nhưng chưa đủ. Trong khi bỏ vốn ra, ta phải hướng nó về
con đường dẫn đến Niết Bàn. Hạnh phúc tương lai và an toàn phải là những
phương tiện đưa ta đến cứu cánh. Cứu cánh là Tự Do, là Giải Thoát Hoàn
Toàn.
-ooOoo-
XUẤT GIA
Không nên mật thiết với người thân.
Không bao giờ mật thiết với người mình không thích.
Xa lìa người thân và chạm mặt với người không thích đều là phiền não.
PHÁP CÚ KINH
Những
tư tưởng về "Ta" và "Của Ta" là nguyên nhân của tất cả sự ưa thích và oán
ghét. Ta có thể nghĩ rất tốt về một người, vì đức hạnh cao quý của người
ấy, và có những ý nghĩ xấu xa về người khác vì các tệ đoan của họ. Nhưng
ta không thể thương yêu người này hay oán ghét người kia nếu không tiếp
xúc với họ. Khi xa lìa người thân yêu, ta cảm thấy như mất một cái gì. Khi
bị bắt buộc phải chung sống với người mà ta ghét thì ta cảm thấy khó chịu.
Cả hai cảm giác (thọ) đều là phiền não.
Ðức Phật thấy rằng các cảm giác ấy phát sinh từ ảo kiến về cái "Ta" và
được kích thích do sự tiếp xúc bản thân. Cái khái niệm về bản ngã là một
yếu tố không thay đổi và tồn tại đến chừng nào ta nhận ra thực tướng của
vạn hữu. Trong những bước đầu tiên trên con đường Giác Ngộ, dầu ta có tự
hào là đã diệt được cái khái niệm sai lầm ấy cũng vô ích. Vậy ta hãy chấp
nhận nó và ứng phó với những tiếp xúc bản thân, làm cho sự va chạm càng
nhẹ càng hay.
Sự
kết hợp mật thiết với người thân yêu, cũng như với người mình oán ghét, là
nguyên nhân của sự khổ. Ðàng khác, sự lánh xa có khuynh hướng làm nhẹ bớt
mức độ của những cảm xúc ấy và do đó, giảm phần khổ não. Ðó là lời dạy của
Ðức Phật, rõ ràng, minh bạch và không thể lầm lẫn. Mỗi người chúng ta đều
có đủ tự do để chọn lối sống cho ta. Có thể có người chỉ trích rằng lời
dạy của Ðức Phật là lạnh nhạt và vô nhân đạo. Người ta có thể nói: "Thà đã
có thương yêu rồi mất còn hơn là không có thương gì hết". Những người ấy
có đủ tự do để thương yêu rồi mất, bao nhiêu lần cũng được, trong đời sống
hiện tại và trong các kiếp sống tương lai, đến chừng nào họ nhận định rằng
họ đang làm những việc điên cuồng. Cũng có kẻ lấy làm hãnh diện thấy mình
oán ghét nhiều người. Những người này cũng vậy, có đủ tự do để tiếp tục
cuộc hành trình trên con đường của họ, đến khi nào hoàn cảnh đau thương
tấp nập tới, dạy cho họ biết rằng người có tật ưa oán ghét làm hại mình
nhiều hơn là người mình ghét.
Có
rất ít, thật là ít người hưởng ứng mạnh mẽ lời kêu gọi của Ðức Phật. Họ là
những người trưởng thành, những lữ khách quen thuộc từ bao giờ trong vòng
luân hồi, những người đã quá chán chê với mọi cảm xúc thương và ghét. Họ
đã bắt đầu cảm thấy rằng muốn đạt tự do phải ra đi, lánh xa. Ðó là những
người mà Ðức Phật muốn nhắn nhủ. Những người khác chỉ tình cờ có mặt để
nghe những lời vàng ngọc ấy, nhưng họ nghe bằng tai, không phải bằng tấm
lòng.
Ta
có thể nói rằng hành động như vậy là ích kỷ không? Chắc chắn là không, vì
đó là lối sống dẫn đến sự diệt kỷ. Kết hợp mật thiết với người khác không
phải là vị tha. Ðó là loại phân bón để bồi bổ cái cây "Ta", giúp cho cây
chóng to và trổ quả sum suê, những quả khổ của đời sống. Lánh xa thì trái
ngược lại. Lánh xa là loại phân bón để bồi bổ cái cây "Trí Tuệ", giúp cho
nó chóng to và trổ quá sum sê, quả Giác Ngộ.
Ta
không nên lầm lẫn, mải mê trong ảo tưởng. Cái thế gian mà ta sống đây được
xây dựng trên khái niệm sai lạc về cái "Ta". Ðức Phật dạy nên diệt bỏ khái
niệm ấy. Tất cả những sinh hoạt của thế gian, tất cả những lợi lộc của thế
gian đều dính liền với ý niệm căn bản ấy. Người nào từ khước lối sống của
phần đông bị coi là phản xã hội. Lánh xa là từ khước lối sống của phần
đông. Người trí tuệ có cần phải đổi thái độ không?
-ooOoo-
VẮNG LẶNG
Cũng như ở giữa lòng đại dương thì
không có sóng gió.
Tất cả đều yên lặng.
Này hỡi các Tỳ khưu, hãy giữ tâm bình thản;
Không nên để tính ngã mạn chi phối.
TUVATAKA SUTTA
Sâu
dưới lòng đại dương, nơi mà biến thật là sâu, ở nửa cây, một cây, hai cây
số cách xa mặt nước, tất cả đều yên lặng. Không sóng gió. Không bão bùng.
Ở đây không có những phiền phức, những xáo động ầm ĩ như ở phía trên.
Trạng thái của những vị đã hoàn toàn giải thoát cũng dường thế ấy. Những
vị ấy đã đạt đến mức vắng lặng cùng tột. Các vị ấy không còn bị xáo động
ầm ĩ, phiền phức, không còn lo âu sợ sệt, không còn ham muốn, thèm thuồng
những sinh hoạt vô lý của thế gian.
Trong câu Pháp Cú trên, Ðức Phật khuyên nhủ các vị tỳ khưu nên sống yên
tĩnh. Lời khuyên này vẫn thích hợp với hàng cư sĩ. Mặc dầu người thế gian
chúng ta chưa đạt đến trạng thái vắng lặng hoàn toàn, nếu cố gắng luyện
tâm được thanh tịnh thì ta cũng có thể, đến mức độ nào, chứng nghiệm được
cái bóng lu mờ của sự vắng lặng ấy.
Tại sao phải tập luyện để giữ tâm thanh tịnh? Câu trả lời rất là giản dị.
Trong khi di chuyển, ta không thể nhận định rõ ràng những chuyển động ở
quanh ta. Hai chiếc xe chạy song song cùng một tốc độ, một chiều hướng,
ngồi trong xe ta có cảm tưởng như cả hai chiếc đều dừng lại. Trái lại, cây
cối hình như chuyển động. Cảm tưởng của ta về cảnh vật xung quanh luôn
luôn bị sự di chuyển của chính ta chi phối. Tâm của ta cũng vậy. Khi tâm
bị xáo động thì khó mà nhận định được những chân lý cao thâm và vĩnh viễn.
Chấp nhận là vững bền, những pháp luôn luôn biến đổi. Trái lại, các pháp
thật sự trường cửu, như những chân lý vô thường, khổ não, vô ngã (Anicca,
Dukkha, Anatta) thì không hề nhận ra. Tâm của ta mãi bận rộn với những
hiện tượng luôn luôn biến đổi, luôn luôn bị phiền phức, không thể nhận
định rõ ràng và không thể thấu triệt chân lý.
Vì
thế Ðức Phật khuyên nên giữ tâm yên lặng. Toàn thể những đề mục mà Ngài
dạy ta quán tưởng đều nhằm vào mục đích làm cho tâm yên lặng (Samatha
bhavana, Thiền vắng lặng). Khi mọi tư tưởng trần tục đều được gội rửa, tâm
an trụ gôm vào một đề mục thiền định (Kammatthana, Đề mục thiền định) và
trở nên vắng lặng. Tâm lực càng ngày càng hùng mạnh, đến mức độ có thể
phát triển thần thông như thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng
minh v.v.. Tuy nhiên những năng lực ấy chỉ là những sản phẩm phụ của thiền
Samattha Bhavana. Mục đích duy nhất của thiền này là làm cho tâm trở nên
vắng lặng. Sự vắng lặng đem lại quan kiến rõ ràng, sáng suốt, sâu sắc và
chân thật.
Người cư sĩ thường bị trở ngại trong đời sống hàng ngày. Phần lớn các trở
ngại ấy không phải là những phận sự xã hội, mặc dầu công việc này chiếm
mất rất nhiều thì giờ. Trở ngại quan trọng nhất là sự lo âu sợ sệt. Ta
thường lo âu về những việc đã làm, đang làm và những việc mà ta dự định sẽ
làm. Ta sợ cho những điều đã hay đang xảy ra và những điều có thể sẽ xảy
ra. Ðức Phật dạy rằng những lo âu sợ sệt ấy là vô ích và điên cuồng.
Làm thế nào để chặn đứng nó? Một hình ảnh thích hợp có thể giúp ta. Trong
những lúc lo âu, ta hãy hình dung cảnh vắng lặng ở giữa lòng đại dương.
-ooOoo-
NHIỆT TÂM
Này hỡi các Tỳ khưu,
Như Lai ân cần nhắc nhở các thầy.
Tất cả các pháp đều vô thường.
Với tâm đạo nhiệt thành, hãy cố gắng đạt đến mục tiêu.
MAHA PARINIBBANA SUTTA
Ðó
là lời dạy tối hậu của Ðức Phật. Những lời giản dị, rõ ràng, thẳng thắn,
đưa ngay vào đề. Ngài đã trải qua vô lượng kiếp sống, tự trau giồi, tiến
đến mức toàn thiện, để rồi dạy chúng sanh một lần cuối cùng, con đường
thoát ra khỏi sự đau khổ. Trong kiếp sống cuối cùng của vòng luân hồi, Ðức
Phật đã dành tất cả năng lực hùng hậu của Ngài đê dắt dẫn chúng sanh,
không bao giờ tiếc công, không bao giờ gát lại ngày mai những gì có thể
làm hôm nay. Và sau cùng, trong giờ phút tối hậu của một kiếp sống vô cùng
vinh quang rạng rỡ, đó là lời dạy của Ngài. Tất cả giáo lý của Ngài nằm
vỏn vẹn trong câu phật ngôn ấy. Mọi người Phật tử đều có thể coi đó là cái
tinh hoa của Phật Giáo và lấy đó làm phương châm cho việc tu học.
Nếu so với Ðức Phật và chư vị A La Hán thì chúng ta quả thật là yếu kém.
Phần đông chúng ta quan niệm rằng đời sống đáng được ưa thích và chúng ta
luyến ái, bám bíu lấy nó, chúng ta muốn sống, ham sống. Ta cũng đọc đi,
lập lại những lời của Ðức Phật và yên trí là đang đi theo dấu chân Ngài.
Nhưng bất hạnh thay! hành động của ta còn thiếu nhiệt thành, cố gắng của
ta không do đạo tâm trọn vẹn làm nòng cốt. Một cách thê thảm, chúng ta còn
thiếu những yếu tố cần thiết để thành công. Chúng ta cũng tựa như những
người nối đuôi nhau nhẫn nại đứng chờ xe buýt. Chuyến xe "Phật Gotama" vẫn
chưa thấy đến. Chúng ta vẫn còn mong đợi, kẻ trước người sau, sắp thành
hàng dài và, để tiêu khiển thì giờ, chúng ta đem những chuyện xe cộ, những
vấn đề tổ chức xe buýt ra bàn nhãm, nói khào. Chúng ta đang chờ đợi để bỏ
ra vài đồng tiền, mua lấy cái vé đi Niết Bàn và, khỏi cần phải cố gắng ti
ti nào, ta chỉ nhẫn nại chờ Ðức Phật Di Lạc đến, đưa ta đi với đầy đủ tiện
nghi. Trên thế gian này không còn gì khuyến khích ta rảo bước trên đường.
Nhưng thảm đạm thay, những công tác thật sự không phải là một loại xe buýt
hay một phương tiện di chuyển có thể đưa ta đến Niết Bàn. Chư Phật chỉ là
những vì hướng đạo, theo ý nghĩa đầy đủ và cao quý nhất của danh từ. Các
Ngài dẫn dắt chúng ta đi trên "Con Ðường Giải Thoát". Giáo Pháp của Ðức
Phật Gotama vẫn còn tồn tại. Nếu chúng ta không thể lãnh hội và bắt đầu cố
gắng lên đường, tiến dần đến mục tiêu, thì dẫu có mong đợi Ðức Phật Di Lạc
cũng vô ích, vì Ngài sẽ ban cho ta một giáo pháp y hệt. Lời dạy của Ðức
Phật rất là rõ ràng, không thể rành rẽ hơn nữa. Nếu có một điều gì thiết
sót thì sự thiếu sót ấy do chính nơi ta.
Vậy bây giờ ta phải làm gì? Trước tiên, đứng về phương diện tinh thần, ta
không nên đứng chờ ở bến xe. Ta phải nhận định rằng đạo quả Niết Bàn chỉ
có thể thành tựu với sự tinh tấn riêng của mỗi người chớ không phải là một
cảnh thiên đàng mà có một vị Phật nào có thể đưa ta đến. Ðức Phật có rất
nhiều oai lực, nhiều hơn tất cả chúng sanh, nhưng Ðức Phật không thể thành
tựu đạo quả Niết Bàn cho ta. Mỗi chúng sanh phải tự lực đạt lấy cứu cánh
của mình.
Ðã
nhận định như vậy, ta phải tức khắc lên đường, từ ở đây, từ giờ phút này,
theo đúng lời dạy của Ðức Phật và thành thật, cố gắng, ghép mình vào một
nếp sống khả dĩ đưa đến đạo quả Niết Bàn. "Hãy cố gắng với một tấm lòng
nhiệt thành", Ðức Phật dạy như vậy. Ta hãy học lấy nằm lòng. Ta hãy nghiêm
trì giới hạnh với một tấm lòng nhiệt thành. Hãy hành các Pháp Ba-La-Mật
với tấm lòng nhiệt thành. Với một tấm lòng nhiệt thành ta hãy giữ tâm vắng
lặng và trong sạch, theo đúng phương pháp mà Ðức Phật đã dạy.
Hãy tận dụng những cơ hội mà ta đang có, ở đây và trong hiện tại.
-HẾT-
---o0o---
Nguồn:
BuddhaSasana
Cập nhật: 01-09-2005
|
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục