Tu Tập Ngũ Căn
Ðức Thế Tôn dạy:
- "Cần phải quán Tín căn trong bốn Dự lưu phần
(tín của bậc Thánh Tu-đà-hoàn)".
- "Cần phải quán Tấn căn trong Tứ chánh cần".
- "Cần phải quán Niệm căn trong Tứ niệm
xứ".
- "Cần phải quán Ðịnh căn trong Bốn sắc
Thiền".
- "Cần phải quán Tuệ căn trong Tứ Thánh
đế". (Sđd. tr. 207)
Như vậy, tu tập Năm căn là đã tu tập Tứ niệm xứ,
Tứ chánh cần, đã hành sâu Thiền định, đã có tuệ giác, có thể
liễu ngộ khổ và diệt. Hay nói cách khác, tu tập Tứ niệm xứ, Tứ chánh
cần, hành sâu Thiền định chính là tu tập Ngũ căn.
Tại đây, lại một lần nữa nói lên điểm nhất quán
trong các giáo lý tu tập của Thế Tôn: Tất cả đều xây dựng trên
Giới uẩn, Ðịnh uẩn và Tuệ uẩn; tất cả đều nhắm đến đoạn tận
tham ái, đoạn tận khổ đau.
Với sự tu tập Ngũ căn, như vừa trình bày, hành giả
sẽ đi đến kết quả như sau:
- "Với sự toàn diện, này các Tỷ-kheo, với
sự viên mãn Năm căn này, là bậc A-la-hán. Yếu nhẹ hơn là bậc Bất lai.
Yếu nhẹ hơn là bậc Nhất lai. Yếu nhẹ hơn là bậc Thất lai (Nhập lưu).
Yếu nhẹ hơn là bậc Tùy pháp hành. Yếu nhẹ hơn nữa là bậc Tùy tín
hành". (Sđd. tr. 212)
- "Sanh y lấy ái làm nhân, lấy ái làm tập khởi,
lấy ái làm tái sinh, lấy ái làm hiện hữu. Do ái không có mặt, sanh y
không hiện hữu. Vị ấy biết sanh y, sanh y tập khởi, sanh y đoạn
diệt. Do thực hành như vậy, vị ấy được gọi là bậc Tùy pháp
hành".
Tùy tín hành là vị học hỏi rồi sau mới vào con
đường thực hành của Tùy pháp hành.
- "Ðối với ai, này các Tỷ-kheo, năm căn này
toàn bộ và toàn diện không có, thì Ta nói rằng người ấy là người
đứng phía ngoài, là thuộc thành phần phàm phu". (Sđd. tr. 215)
- "Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, Ta
không như thật biết rõ sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của năm căn này, cho đến khi ấy, Ta không có
biết rõ về ý nghĩa về sự chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng
Giác đối với thế giới như Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng
với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người". (Sđd. tr. 216)
- "Khi nào vị đệ tử biết rõ sự tập khởi,
sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm căn
này, khi ấy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là
bậc Thánh Dự lưu". (Sđd. tr. 148)
- "Khi nào vị đệ tử biết rõ sự tập khởi
(-nt-), giải thoát không có chấp thủ, khi ấy vị Thánh đệ tử ấy được
gọi là A-la-hán". (Sđd. tr. 218)
Qua các xác nhận trên của Thế Tôn, Thế Tôn
được hiểu như là một bậc A-la-hán tu tập hoàn toàn viên mãn Ngũ căn.
Ðiểm đặc biệt của pháp môn Ngũ căn là pháp
môn này có thể tu tập dung thông với Tứ niệm xứ và Tứ chánh cần, có
thể đi thẳng vào mục tiêu đoạn diệt khổ, đắc Niết-bàn ngay trong
hiện tại.
Tại đây, cũng như ở Bát Thánh đạo và Thất giác chi,
nói lên thật rõ ràng Ðạo đế (hay 37 phẩm trợ đạo) là pháp tu dẫn
đến kết quả chứng ngộ quả vị tối thượng. Tứ Thánh đế là pháp
tối thượng mà không phải là pháp Thanh văn, Tiểu thừa như một số nhà
nghiên cứu quan niệm.
Sức mạnh của Ngũ căn được gọi là Ngũ lực. Ðó
là: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực và Tuệ lực.
Hiểu rõ Ngũ căn ở trên là hiểu rõ Ngũ lực.
Ðề cập đến Ngũ lực, Thế Tôn dạy:
"Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng thiên
về phương Ðông, hướng về phương Ðông, xuôi về phương Ðông,
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tu tập Ngũ lực, làm cho sung mãn
Ngũ lực, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về
Niết-bàn (Sđd. tr. 195)
"Vị Tỷ-kheo tu tập Tín lực liên hệ đến
viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng đến từ bỏ (tương tự đối với
tấn, niệm, định và tuệ lực).
"Ðể thắng tri, liễu tri, đoạn diệt, đoạn
tận năm thượng phần kiết sử này, năm lực này cần phải tu tập".
(Sđd. tr. 196)
Như thế, Ngũ căn và Ngũ lực là pháp môn mà một
bậc Thánh Bất lai cần phải tu tập viên mãn để đoạn tận nhứt thiết
hoặc, hoặc tận vô minh. Tuệ căn và Tuệ lực luôn luôn cần đến sự
hỗ trợ của Ðịnh Căn và Ðịnh lực. Ðây là ý nghĩa Ðịnh uẩn hỗ
trợ cho sự thành tựu viên mãn của Tuệ uẩn./.
-oOo-
Bài trước
|
Mục lục | Bài
kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục