.
THỰC
TẠI HIỆN TIỀN
Viên Minh
--- o0o ---
[07]
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Thời gian |
Tiến trình |
Tương đương |
Nhân quả |
Sinh |
Diệt |
Quá khứ |
Vô minh
Hành |
Ái - Thủ - Hữu |
Nhân |
Tập
đế |
Đạo đế |
Hiện tại |
Thức
Danh sắc
Lục nhập
Xúc - Thọ |
Sinh - Lão - Tử |
Quả |
Khổ
đế |
Diệt
đế |
Ái -Thủ - Hữu |
Vô minh - Hành |
Nhân |
Tập
đế |
Đạo đế |
Vị lai |
Sinh - Lão - Tử |
Thức - Danh sắc
Lục nhập -Xúc - Thọ |
Quả |
Khổ
đế |
Diệt
đế |
Thập nhị nhân duyên là 12
điều kiện tùy thuộc vào nhau mà sinh và cũng tùy thuộc vào nhau mà
diệt, có cái này thì có cái kia, không có cái này thì không có cái kia.
Cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt.
Trong Tứ diệu đế, Thập nhị
nhân duyên sinh chính là tập đế, khổ
đế. Thập nhị nhân duyên diệt chính là
đạo đế, diệt đế. Vậy Thập nhị nhân duyên chỉ là cách nói khác của
Tứ diệu đế, chứ không phải như người ta
thường hiểu lầm Tứ diệu đế là pháp môn tu của Thanh Văn
và Thập nhị nhân duyên là pháp môn tu của Duyên Giác. Chỉ vì trùng
nhau chữ duyên mà người ta liên tưởng một cách sai lầm. Trên thực tế, ai
muốn tu hành thành Phật cũng đều phải tu Tứ
diệu đế mà trong đó đã bao hàm
12 nhân duyên.
Có hai cách hiểu Thập nhị nhân duyên:
- Một là hiểu như vòng luân hồi sinh tử trong 3 thời:
quá khứ, hiện tại, vị lai.
- Hai là hiểu như tiến trình tâm-sinh-vật lý
được điều động bởi vô minh, ái dục trong 3
thời quá khứ, hiện tại, vị lai (đây chỉ nói Thập nhị nhân duyên
sinh).
Bây giờ chúng ta sẽ lần lượt trình bày 2 ý nghĩa trên
của Thập nhị nhân duyên:
* Trước tiên Thập nhị nhân duyên mô tả diễn biến của
vòng luân hồi sinh tử trong 3 thời:
Trong những kiếp quá khứ, do thiếu sáng suốt (vô
minh) chúng ta đã tạo các hạnh
nghiệp (hành), rồi thác sinh vào những cảnh giới tương ứng trong
hiện tại. Kiếp sống quá khứ chấm dứt với tử tâm (cuti).
Sau đó thức
tái sanh, tức là kiết sinh thức (patisandhi-viññāna)
khởi lên nối liền với kiếp sống hiện tại.
Thức này còn gọi là hương ấm thuộc về danh (tâm), kết
hợp với tinh cha huyết mẹ thuộc về sắc (thân), tạo thành sự sống
của cái phôi gồm đủ hai yếu tố danh và
sắc nên gọi là danh sắc.
Dần dần cái phôi lớn lên, sắc hình thành mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân gọi là ngũ căn, và
danh hình thành từ thức gọi là ý căn. Năm căn
hòa hợp với ý căn tạo thành tác
dụng của lục nhập, tức là 6 cơ quan tiếp nhận
đối tượng của chúng.
Khi hình thành một thai nhi
đủ điều kiện ra khỏi bụng mẹ, hài nhi
ra đời và lục căn
bắt đầu tiếp xúc với lục trần. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Sự tiếp xúc giữa căn trần
vừa xảy ra thì liền có thọ, tức là những cảm giác khổ, lạc,
xả và hỷ. Nói đến xúc tức là
đã bao hàm các thức, vì vậy ở
đây:
- Nhãn thức thọ xả.
- Nhĩ thức thọ xả.
- Tỷ thức thọ xả.
- Thiệt thức thọ xả.
- Thân thức thọ khổ và lạc.
- Ý thức thọ xả và hỷ (chưa có ưu).
Đã có khổ, lạc, xả, hỷ, thì liền có ưa, ghét
khởi lên. Đó là ái. Ở
đây ái chính là dục ái, hữu ái, phi
hữu ái hoặc dục ái, sắc ái, vô sắc ái như chúng ta
đã nói trước
đây (đến đây mới có ưu).
Khi đã có ưa, ghét
(ái) thì ưa sinh đam mê, ghét
sinh hiềm hận. Sự nắm giữ ái như vậy gọi là thủ. Nói rõ hơn thủ có
4 loại:
- Dục thủ là nắm bắt lục dục.
- Kiến thủ là chấp giữ quan niệm.
- Giới cấm thủ là chấp giữ hình thức, nghi lễ.
- Ngã luận thủ là chấp giữ bản ngã, linh hồn.
Do chấp thủ tư kiến, tư dục, hình thức và bản ngã mà
chúng ta tạo nghiệp. Đó chính là
hữu. Hữu tức là tạo tác để trở thành
(becoming), có nghĩa là tạo nghiệp bất thiện, thiện và bất
động.
Ái có dục ái, sắc ái, vô sắc ái nên hữu (nghiệp)
cũng có dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, nghĩa là tạo nghiệp
để tái sinh trong tương lai ở 3 cõi 6
đường.
- Nghiệp bất thiện thì tương lai tái sinh
trong 4 đường khổ: địa ngục, súc sanh, ngạ
quỷ, a-tu-la.
- Nghiệp vừa thiện vừa bất thiện thì tương lai
tái sinh vào cõi người.
- Nghiệp thiện thì tương lai tái sinh
trong các cõi trời dục giới như Tứ đại thiên
vương, Đao lợi, Dạ ma, Đâu suất, Hóa lạc
thiên, Tha hóa tự tại thiên.
- Nghiệp sắc giới thì sẽ tái sinh vào các
cõi sắc giới, tùy theo sự chứng đắc của mình.
- Nghiệp bất động
thì tương lai tái sinh trong các cõi vô sắc giới, tùy theo khả năng
thiền định của mình.
Khi đã tái sinh thì
lại tạo nghiệp và đưa đến già chết
(lão tử), cứ thế sinh sinh tử tử trong vòng luân hồi lẩn quẩn triền
miên.
Tóm lại, từ vô minh đến ái
dục, từ tạo nghiệp đến gặt quả, từ tái sinh đến già chết,
đó là những gì
được mô tả rõ ràng qua các yếu tố
điều kiện phát sinh trong Thập nhị nhân duyên.
Có người hỏi:
- Nếu Thập nhị nhân duyên
được dùng giải thích vòng luân hồi tái sinh thì có phải chăng
vô minh chính là khởi thủy hay nguyên nhân
đầu tiên của chúng sinh? Thập nhị nhân
duyên có phải là vũ trụ quan hoặc nhân sinh quan Phật giáo không?
- Vô minh là nguyên nhân nhưng không phải là nguyên
nhân đầu tiên của luân hồi sinh tử, vì
là điều kiện phát sinh nên vô minh vừa
là nguyên nhân của vòng sinh tử sau, vừa là kết quả của vòng sinh tử
trước, nghĩa là vô minh cũng do nhân duyên phát sinh, không nên hiểu vô
minh như là Đấng Tạo Hóa.
Cũng đừng gán cho Thập nhị
nhân duyên nhãn hiệu vũ trụ quan hay nhân sinh quan. Thập nhị nhân
duyên chỉ mô tả trình tự duyên khởi của diễn tiến tâm-sinh-vật-lý do vô
minh điều động mà thôi.
Có lẽ chúng ta ai cũng có thể chấp nhận cách giải thích
theo truyền thống như đã trình bày ở
trên, nhưng bây giờ chúng ta thử tìm hiểu một ý nghĩa khác của Thập nhị
nhân duyên, thực tế hơn, gần gủi hơn ngay trong
đời sống hàng ngày của chúng ta.
Đức Phật dạy: "Thấy Thập nhị nhân duyên tức
thấy pháp, thấy pháp tức là thấy Như Lai". Chúng ta cũng
đã biết pháp là thiết thực hiện tại
hay thực tại hiện tiền, vượt khỏi thời gian, tự mình chứng nghiệm từ bên
trong.
Nếu thấy được
Thập nhị nhân duyên sinh thì chúng ta cũng có thể thấy Thập nhị
nhân duyên diệt. Như vậy ngay trong hiện tại chúng ta có thể giác ngộ
ra sự thật duyên khởi này, và nhờ đó có thể
chấm dứt vòng luân hồi sinh tử ngay tại
đây và bây giờ vì pháp là thiết thực
hiện tại, vượt khỏi thời gian, có phải vậy không? Ngày xưa, ngay khi
Đức Phật thuyết về Thập nhị nhân duyên,
có rất nhiều vị giác ngộ ngay lập tức và chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi
sinh tử.
Nếu chúng ta có thể thay
đổi tiến trình tâm hay chấm dứt ngũ uẩn (bản ngã) ngay bây
giờ, thì chính là chúng ta đã chấm dứt
vòng duyên khởi tái sinh.
Thập nhị nhân duyên chỉ là triển khai rộng rãi và chi
tiết hơn của ngũ uẩn hay tiến trình tâm mà thôi.
Thập Nhị Nhân Duyên và Ngũ Uẩn
Trong quá khứ, nếu thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ
sinh khởi trong tình trạng si mê, bất giác, thất niệm, tức là bị vô minh
chi phối, thì ái, thủ và hữu cũng phát sinh,
đó là hành.
Vô minh và hành trong quá khứ là nhân tái sinh khởi
thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ trong hiện tại. Từ
đó lại phát sinh ái, thủ, hữu.
So với ngũ uẩn chúng ta thấy:
Như vậy ngũ uẩn tương
đương với phần hiện tại của Thập nhị nhân duyên. Thực ra chúng ta
chỉ cần duyên khởi trong hiện tại từ thức
đến hữu tức là chúng ta có thể
thấy duyên khởi trong quá khứ. Tuy trong quá khứ chỉ nói vắn tắt là vô
minh và hành, nhưng trong thực tế cũng bao gồm từ thức
đến hữu như trong hiện tại.
Trong tương lai cũng vậy, từ sinh
đến lão tử chính là từ thức
đến hữu như trong hiện tại.
Thức khởi sinh rồi đi
xuyên suốt qua danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu và cuối
cùng thức làm công tác của thức uẩn là ghi lại tiến trình
vừa trải qua. (Tương đương đồng sở duyên
trong tiến trình tâm của Abhidhamma và A-lại-da của Duy Thức).
Tóm lại phần hiện tại của Thập nhị nhân duyên chính là
tiến trình ngũ uẩn vậy.
Thập Nhị Nhân Duyên Với Tiến Trình Tâm
Như chúng ta đã
biết, một tiến trình tâm trong quá khứ được
đồng sở duyên ghi lại và chìm vào hữu phần. Khi có một
đối tượng tác động qua 5 môn hoặc qua ý môn
thì thức lại hiện khởi. Đó cũng chính
là thức trong Thập nhị nhân duyên.
Sau khi thức hiện khởi, tiếp nhận
đối tượng thì Javana phản ứng trên
đối tượng. Javana chính là ái, thủ,
hữu trong Thập nhị nhân duyên.
Trong Thập nhị nhân duyên vai trò của
đồng sở duyên
được hiểu ngầm, nhưng thật ra nó vẫn có mặt
giữa hữu và sinh lão tử.
Để thấy rõ hơn chúng ta thử xem Thập nhị nhân duyên diễn ra theo
tiến trình tâm như thế nào?
Giả sử chúng ta đang ngồi
đây hoặc đang đi lui tới như thế này trong trình trạng si mê, bất
giác, không sáng suốt, thiếu tỉnh thức, nghĩa là chúng ta
đang ở trong trạng thái vô minh.
Lúc đó tâm chúng ta rất dễ vọng động, vì
nó ẩn chứa và sẵn sàng phát sinh các ái đó
chính là hành.
Vậy một tâm thức không sáng suốt, dễ vọng
động chính là vô minh và
hành. Trong điều kiện sẵn có như vậy, nếu
có một đối tượng tác động vào, thì thức sẽ khởi lên kết hợp
với sắc căn để tiếp nhận đối tượng ấy. Kết
hợp đó gọi là danh sắc. Sự kết hợp trong trình trạng như thế
không được trong sáng, hỗn độn và bất
an. Đó chính là một hỗn hợp thân-tâm
không sáng suốt, định tĩnh, trong lành
hay nói một cách khác là thân tâm thiếu điều
phục.
Danh-sắc là từ để gọi
chung một tổ hợp thân tâm gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Vì
vậy danh-sắc sẽ hiện rõ trong từng căn tùy
theo đối tượng trần cảnh mà khởi sinh
lục nhập.
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thuộc về sắc. Ý thuộc về
danh. Nếu đối tượng là sắc tướng thì
mắt khởi dụng, nếu đối tượng là âm
thanh thì tai khởi dụng, v.v...
Mắt khởi dụng có nghĩa là tiếp nhận sắc tướng. Nhưng sự
tiếp nhận chỉ thực sự xảy ra khi có sự tham dự của nhãn thức.
Sự kết hợp giữa căn trần và thức
gọi là xúc (trong ngũ uẩn gọi là sắc uẩn).
6 căn + 6 trần + 6 thức =
xúc
Khi có tiếp xúc của căn-trần-thức thì
thì thọ liền phát sinh.
Trong Thập nhị nhân duyên, thọ vừa đóng
vai trò cảm giác, vừa đóng vai trò
tri giác.
Sau khi tiếp nhận đối
tượng (xúc) với đầy đủ cảm giác
(thọ) và tri giác (tưởng), ý chí (tư) bắt
đầu phản ứng trên
đối tượng. Phản ứng ấy được biểu hiện qua
thái độ ưa, ghét (ái), bám víu (thủ), và tạo tác (hữu).
Như vậy ái, thủ, hữu chính là hành trong
ngũ uẩn và Javana (tốc hành tâm) trong tiến trình tâm.
Ví dụ: khi tai nghe một âm thanh khó chịu, có nghĩa là
thức → danh sắc → lục nhập → xúc đưa đến thọ
khổ. Thọ khổ đưa đến ghét tức là phi hữu ái. Nếu âm thanh dễ
chịu tức là thọ lạc, thọ lạc đưa đến ưa thích
- hữu ái. Nếu âm thanh không gây khó chịu hay dễ chịu, tức
là thọ xả, đưa đến tâm khởi lên tìm
kiếm lạc thọ, đó là dục ái.
Nhưng người ta không đơn
giản chỉ ưa hay ghét rồi thôi mà ưa ghét trở thành thành kiến, quan
niệm, cố chấp, đam mê, thù hận, v.v...
do đó ái đưa đến thủ.
Nếu chúng ta ưa một cái gì thì thành
đam mê cái
đó. Nếu chúng ta ghét một cái gì thì
thành thù hận cái đó. Vậy đối với trần cảnh
đam mê hay thù hận chính là dục thủ.
Cố chấp đối với ưa hay
ghét đưa đến thành kiến, quan niệm. Ưa thì dễ sinh thường kiến,
ghét thì dễ sinh đoạn kiến, rồi chấp chặt
quan niệm đó nên gọi là kiến thủ.
Xét cho cùng thì dục thủ hay kiến thủ cũng
đều phát xuất từ chấp ngã. Nếu không
chấp bản ngã thì lấy ai chấp ưa ghét hay thường
đoạn, có phải vậy không? Chấp ngã
chính là ngã thủ.
Dục thủ, kiến thủ, ngã thủ
đưa đến hình thành những phong cách, những
đời sống, những hình thức nghi lễ,
những tập tục tín ngưỡng, rồi người ta tự trói buộc vào những quy phạm mà
người ta đã
đặt ra. Đó là giới cấm thủ.
Nói chung, thủ là chấp trước. Nếu chỉ mới chớm sinh ưa
ghét mà chúng ta giác kịp thì cũng chưa sao. Nhưng khi
đã cố chấp thì chúng ta liền tạo tác lăng
xăng. Tạo tác chính là hữu hay nói cho dễ hiểu là tạo
nghiệp.
Do dục ái, hữu ái, phi hữu ái, chúng ta đã
tạo nghiệp trong 3 cõi là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.
Đến đây chúng ta cần lưu ý một điểm là dù chúng
ta đắc các thiền định trong sắc giới hoặc vô
sắc giới, thì vẫn do ái-thủ-hữu mà ra (trừ Thánh
định). Rất nhiều người ưa thích
thiền định vì ham mê năng
lực và hỷ lạc của thiền định. Như vậy
là bị ái-thủ-hữu chi phối rồi, không thể nào chấm dứt luân hồi sinh
tử được.
Đức Phật chỉ dùng thiền
định với 2 mục đích chính: một là
đoạn trừ các phiền não do 5 triền cái
che lấp (Nānākilesappahānam),
hai là tồn tâm dưỡng tánh, hay nói một cách khác là nghỉ ngơi trong trạng
thái tích cực gọi là hiện tại lạc trú (ditthadham-masukhavihārā).
Nhờ tâm an ổn mà trí tuệ soi chiếu đưa đến hoàn
toàn giải thoát giác ngộ.
Như vậy, Thập nhị nhân duyên trong hiện tại còn lại 8
điều kiện phát sinh (trừ 2
điều kiện quá khứ và 2
điều kiện tương lai). 8
điều kiện này tương
đương với 6 giai đoạn trong tiến trình
tâm:
Chúng ta cần lưu ý khi đem
so sánh 8 điều kiện hiện tại của Thập nhị nhân duyên với ngũ uẩn,
chúng ta thấy đó chỉ là 2 cách diễn
đạt khác nhau của cùng một hiện tượng.
Nhưng khi đem so sánh 8 điều kiện này
với tiến trình tâm thì ta thấy chúng chỉ tương
đồng trong tam giới mà thôi. Tiến
trình tâm siêu thế (lokuttara) không còn so sánh với Thập nhị nhân
duyên sinh được nữa.
Như vậy, Thập nhị nhân duyên sinh chỉ là tiến trình tâm
trong tam giới (lokiya). Vì tốc hành tâm có 2 loại: tốc hành tâm
siêu thế (lokuttarajavana) và tốc hành tâm trong tam giới (lokiyajavana).
Ái, thủ, hữu chính là tốc hành tâm trong tam giới, chứ không phải tốc hành
tâm siêu thế.
Trong tiến trình tâm siêu thế, tốc hành tâm không còn
ái, thủ, hữu mà được thay bởi Đạo Tuệ và
Quả Tuệ. Tuệ tức là minh, khi minh soi chiếu thì Thập nhị nhân duyên diệt.
Vậy tiến trình tâm siêu thế chính là tiến trình Thập nhị nhân duyên
diệt:
Thập nhị nhân duyên sinh = tiến trình tâm hiệp thế
Thập nhị nhân duyên diệt = tiến trình tâm siêu thế
Vậy thế nào là Thập nhị nhân duyên diệt?
Giả sử chúng ta đang ngồi
đây hay đi lui đi tới như thế này trong tình trạng hoàn toàn tỉnh
thức, hoàn toàn sáng suốt, không mê muội, biết rõ thân tâm và hoàn toàn an
tĩnh, nghĩa là không bị vô minh và hành chi phối. Nếu bây giờ có một
đối tượng khởi sinh, chẳng hạn như tai nghe
một âm thanh hay mắt thấy một hình sắc, nhờ ở trong trình trạng tự
chủ, ổn định (tịnh) và sáng
suốt, tỉnh thức (minh) nên thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ
đều được soi sáng trong định tuệ. Khi cảm
giác và tri giác trong sáng, chính xác, không bị ảo giác, ảo tưởng
xen vào thì hành động sẽ không bị chi phối
bởi ái, thủ, hữu nữa, và vì vậy sẽ không còn nhân tạo tác
sinh-lão-tử trong tương lai. Nghĩa là sinh tử chấm dứt.
Vậy Thập nhị nhân duyên diệt vừa có nghĩa là chấm dứt
vòng luân hồi sinh tử trong tam giới, mà cũng có nghĩa là chấm dứt sinh tử
luân hồi ngay khi sự sống đang vận hành,
vì luân hồi sinh tử chỉ là ảo ảnh đối với sự
sống đích thực. Nói cho dễ hiểu là ngay khi chúng ta
đang nói năng, hành
động, suy nghĩ mà vẫn sáng suốt,
định tỉnh, trong lành một cách hoàn
toàn thì chúng ta đang thoát khỏi sự trói
buộc của vòng sinh tử vô minh ái dục.
--- o0o ---
[ Mục
Lục ] [
1 ] [
2]
[ 3
] [
4 ] [
5
] [ 6
] [
7 ] [
8 ]
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 1-10-2004
|
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục