Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Đạo
Quả Phật
"Các
Đấng Như Lai chỉ là những vị thầy"-- Kinh Pháp Cú
Đặc Điểm Của Đức Phật
Sau
cuộc chiến đấu kỳ diệu phi thường kéo dài sáu năm đăng
đẳng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài và không được
sự hướng dẫn của một năng lực siêu phàm nào, đơn độc
một mình và chỉ nương nhờ nơi nỗ lực của chính mình, Đạo
Sĩ Gotama (Cồ Đàm), lúc ấy ba mươi lăm tuổi, tận diệt
mọi ô nhiễm, chấm dứt mọi tiến trình tham ái và chứng
ngộ thực tướng của vạn pháp, đã trở thành một vị
Phật (Buddha), Đấng Chánh Biến Tri, bậc Toàn Giác. Kể từ
ngày ấy, Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Buddha Gotama) [1], một
trong chuỗi dài những vị Phật đã xuất hiện trong quá khứ
và sẽ xuất hiện trong tương lai.
Không phải khi sanh ra Ngài đã là
Phật, mà Ngài trở thành Phật do sự nỗ lực của mình.
Phạn ngữ Buddha (Phật)
xuất nguyên từ căn "Budh", là hiểu biết hay thức
tỉnh. Gọi là Buddha (Phật) vì Ngài hiểu biết đầy đủ
Bốn Chân Lý Thâm Diệu Cao Quý (Tứ Diệu Đế), và từ giấc
mơ vô minh Ngài đã thức tỉnh. Chẳng những hoàn toàn thấu
triệt, mà Ngài còn có đủ khả năng truyền bá giáo lý nên
cũng gọi là Samma Sambuddha (Chánh Biến Tri, âm là
Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề) để phân biệt với chư Phật Pacceka (Độc
Giác, cá nhân, đơn độc) chỉ thấu triệt giáo lý mà không
thể rọi sáng cho kẻ khác, tự giác nhưng không thể giác tha.
Trước khi thành đạt Đạo Quả
Phật, Ngài được gọi là Bồ Tát (Bodhisatta) [2], có nghĩa là
người có nguyện vọng trở thành Phật.
Người muốn đắc Quả Phật phải
trải qua thời kỳ Bồ Tát, một thời kỳ tích cực trau
giồi và phát triển những phẩm hạnh: bố thí, trì giới,
từ khước (xuất gia), trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân
thật, quyết định, tâm từ và tâm xả.
Trong một thời kỳ chỉ có một đấng
Chánh Biến Tri. Cũng như có những loại cây, trọn đời chỉ
trổ ra một bông, một hệ thống thế gian (lokadhatu) chỉ có
một đấng Chánh Biến Tri.
Đức Phật là chúng sanh duy nhất, là
nhân vật hy hữu, chỉ thật lâu mới có thể xuất hiện trên
thế gian, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và
hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại. Tôn vinh Ngài là
"Acchariya manussa" vì Ngài là một con người kỳ diệu
lạ thường. Tôn vinh Ngài là "Amatassa data" vì Ngài đã
ban bố tình trạng Bất Diệt. Tôn vinh Ngài là "Varado"
vì Ngài là người đã ban bố tình thương tinh khiết nhất,
trí tuệ thâm sâu nhất và chân lý cao siêu nhất. Cũng tôn
vinh Ngài là "Dhammassami" vì Ngài là Pháp Vương, Chúa
của Giáo Pháp (Dhamma).
Như Đức Phật dạy, Ngài là:
"Đấng Như Lai (Tathagata),
bậc Ứng Cúng (Araham), đấng Chánh Biến Tri (Samma Sambuddha),
người đã sanh ra con đường vô sanh, đã sáng tạo con đường
chưa được sáng tạo, đã công bố con đường chưa được công
bố, người đã hiểu biết con đường, người đã mục kích
con đường, người đã nhận thức con đường" [3].
Không có vị thầy nào dạy Đức
Phật phương pháp tu học để chứng Đạo Quả Chánh Đẳng
Chánh Giác, "Na me acariyo atthi" [4], "một đạo sư,
ta không có", là chính lời của Đức Phật. Ngài có học
với những vị thầy để hiểu biết thế gian pháp [5] nhưng
để đến tầng siêu thế thì không. Chính Ngài tự lực thành
đạt trí tuệ trực giác.
Nếu Đức Phật đã nhờ một vị
thầy hay một hệ thống tín ngưỡng nào như Ấn Độ Giáo
chẳng hạn -- tôn giáo mà Ngài đã trưởng thành trong ấy --
để phát triển trí tuệ siêu phàm, thì ắt Ngài không thể
tự gọi là "đạo sư vô song" (aham sattha anuttaro) [6].
Trong bài Pháp đầu tiên, Ngài tuyên bố rằng ánh sáng đã
rọi rõ cho Ngài trong những việc chưa từng được nghe.
Trong những ngày đầu tiên sau khi
xuất gia tầm đạo, Ngài cố tìm đến sự hướng dẫn của
những vị thầy lỗi lạc nhất thời bấy giờ, nhưng trong giáo
huấn của các vị thầy này không tìm thấy được điều
mong mỏi. Tình thế bắt buộc Ngài phải tự mình suy niệm và
quay trở vào bên trong để tìm Chân Lý. Và Ngài đã tìm ra Chân
Lý bên trong Ngài. Ngài theo dõi đến tận mức thâm sâu nhất
của dòng tư tưởng, và chứng ngộ Chân Lý cùng tột, chưa
bao giờ từng được nghe và chưa từng được biết. Tuệ giác
phát sanh từ bên trong và rọi sáng những sự vật mà trước
kia Ngài chưa từng nghe thấy.
Vì Ngài đã thấu triệt tất cả
những gì cần được biết và đã nắm được cái chìa khóa
mở cửa vào mọi kiến thức, nên tôn Ngài là Sabbannu, bậc
Toàn Giác. Đó là trí tuệ siêu phàm mà Ngài đã dày công
trau giồi, trải qua vô lượng tiền kiếp.
Phật Là Ai?
Ngày nọ có người theo đạo Bà La Môn
tên Dona, nhân khi thấy dấu chân của Đức Phật in dưới cát
có những đặc điểm lạ thường, đến gần Ngài và hỏi:
- Phải chăng Ngài là một vị Trời
(Deva)?
- Không, quả thật tôi không phải là
một vị Trời.
- Vậy phải chăng Ngài là một nhạc
công trong cảnh Trời (Gandhabba)?
- Không, tôi không phải là một
nhạc công trong cảnh Trời.
- Vậy Ngài là quỷ Yakka chăng?
- Không, quả thật tôi cũng không
phải là quỷ Yakka.
- Như thế chắc Ngài là người?
- Không, quả thật tôi cũng không
phải là người.
- Vậy, xin cho biết Ngài là ai?
Đức Phật trả lời rằng Ngài đã
tận diệt những pháp trầm luân (hoặc lậu), vốn tạo điều
kiện để tái sanh vào những cảnh Trời, Gandhabba, Yakka hay
cảnh người, và thêm:
"Như hoa sen, đẹp
đẽ và dễ mến,
Không ô nhiễm bùn dơ nước đục,
Giữa đám bụi trần, ta không vướng chút bợn nhơ.
Như vậy, Ta là Phật." [7]
Đức Phật không hề tự xưng là
hiện thân (avatara) của thần Vishnu, một Thần Linh Ấn Độ
Giáo mà kinh Bhagavadgita đã ca ngợi một cách huyền diệu,
sanh ra để bảo vệ sự chân chánh, tiêu diệt tội lỗi và
để thiết lập và củng cố đạo lý (Dharma).
Theo lời dạy của Đức Phật thì có
hằng hà sa số chư Thiên (Deva, cũng gọi là những vị Trời)
-- cũng là hạng chúng sanh, còn phải chịu sanh tử luân hồi
-- nhưng không có một Thần Linh Tối Thượng, với quyền
lực siêu thế, kiểm soát vận mạng con người, xuất hiện
trên thế gian từng lúc, dùng hình thức người làm phương
tiện. [8]
Đức Phật cũng không bao giờ tự
gọi là "Đấng Cứu Thế" có quyền năng cứu vớt
kẻ khác bằng chính sự cứu rỗi của mình. Ngài thiết tha kêu
gọi những ai hoan hỷ bước theo dấu chân Ngài không nên ỷ
lại nơi người khác mà phải tự mình giải thoát lấy mình,
bởi vì cả hai trong sạch và bợn nhơ, cũng đều tùy thuộc
nơi chính mình. Ta không thể trực tiếp làm cho ai trong sạch
hay ô nhiễm. [9]
Để minh định rõ ràng mối tương
quan của Ngài đối với hàng môn đệ và để nhấn mạnh
tầm quan trọng của sự kiện tự mình nhận lãnh trọn vẹn
trách nhiệm và tự mình nỗ lực kiên trì, Đức Phật minh
bạch dạy rằng:
"Các
con phải tự mình nỗ lực. Các đấng Như Lai chỉ là đạo sư."
[10]
Đức Phật chỉ vạch cho ta con đường
và phương pháp mà ta có thể nương theo đó để tự giải
thoát ra khỏi mọi khổ đau của vòng sanh tử và thành tựu
mục tiêu cứu cánh. Đi trên con đường và theo đúng phương
pháp cùng không, là phần của người đệ tử chân thành
muốn thoát khỏi những bất hạnh của đời sống.
"Ỷ lại nơi kẻ khác để giải
thoát cho mình là tiêu cực. Nhưng đảm đang lãnh lấy trách
nhiệm, chỉ tùy thuộc nơi mình để tự giải thoát, quả
thật là tích cực."
Tùy thuộc nơi người khác là đem
tất cả cố gắng của chúng ta ra quy hàng.
"Hãy tự xem con là hải đảo
của con. Hãy tự xem con là nương tựa của con. Không nên tìm
nương tựa nơi ai khác!" [11]
Các lời lẽ có rất nhiều ý nghĩa
kia mà Đức Phật đã dạy trong những ngày sau cùng của Ngài
quả thật mạnh mẽ, nổi bật và cảm kích. Điều này
chứng tỏ rằng cố gắng cá nhân là yếu tố tối cần để
thành tựu mục tiêu. Tìm sự cứu rỗi nơi những nhân vật
hảo tâm có quyền năng cứu thế và khát khao ham muốn hạnh
phúc ảo huyền xuyên qua những lời van vái nguyện cầu vô
hiệu quả và nghi thức cúng tế vô nghĩa lý, quả thật là
thiển bạc và vô ích.
Đức Phật là một người như chúng
ta. Ngài sanh ra là một người, sống như một người, và từ
giã cõi đời như một người. Mặc dầu là người, Ngài
trở thành một người phi thường, một bậc siêu nhân, do
những cá tính đặc biệt duy nhất của Ngài. Đức Phật đã
ân cần nhắc nhở nhiều lần như vậy và không có điểm nào
trong đời sống hoặc trong lời dạy của Ngài để chúng ta
lầm hiểu rằng Ngài là một nhân vật vô sanh bất diệt. Có
lời phê bình rằng lịch sử nhân loại, không hề có vị giáo
chủ nào "phi thần linh hơn Đức Phật, tuy nhiên, cũng không
có vị nào có đặc tánh thần linh hơn Đức Phật" [12]
Trong thời Ngài còn tại thế, Đức
Phật chắc chắn được hàng tín đồ hết lòng tôn kính, nhưng
không bao giờ Ngài tự xưng là Thần Linh.
Tánh Cách Vĩ Đại Của
Đức Phật
Sanh ra là một người, sống như
một người, Đức Phật thành đạt trạng thái tối thượng
của sự toàn thiện, Đạo Quả Phật, do sức kiên trì nỗ
lực cá nhân. Nhưng Ngài không dành giữ sự liễu ngộ siêu
phàm cho riêng mình mà công bố trước thế gian rằng tâm có
khả năng và oai lực bất khuất. Không khi nào tự hào rằng
chỉ có Ngài là người duy nhất đắc Quả Phật, vì Đạo
Quả Phật không phải là ân huệ đặc biệt dành riêng cho
một cá nhân tốt phước nào đã được chọn trước.
Thay vì đặt trên con người một
thần linh vạn năng vô hình và cho con người một địa vị
khép nép rụt rè, Đức Phật chứng minh rằng con người có
thể thành đạt trí tuệ cao siêu và Đạo Quả tối thượng
do sự cố gắng của chính mình. Và như vậy, Đức Phật nâng
cao phẩm giá con người. Ngài dạy rằng muốn thoát ra khỏi vòng
trầm luân phiền não, chính ta phải tự mình gia công cố
gắng chớ không phải phục tùng, tùy thuộc nơi một thần
linh, hay một nhân vật nào làm trung gian giữa ta và vị thần
linh ấy.
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm
trung tâm của vũ trụ và chạy theo quyền thế, Đức Phật
dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu
lợi. Ngài chống đối tệ đoan phân chia giai cấp trong xã
hội -- chỉ làm trở ngại mức độ tiến hoá của loài người
-- và luôn luôn bênh vực công lý, khuyên dạy bình đẳng
giữa người và người. Ngài tuyên bố rằng cánh cửa đưa vào
sự thành công và thạnh vượng phải rộng mở cho tất cả
mọi người, ai cũng như ai, dầu cao thấp, sang hèn, đạo đức
hay tội lỗi, nếu người ấy cố công cải thiện nếp sống,
hướng về con đường trong sạch. Ngài nâng đỡ hoàn cảnh
của người phụ nữ, lúc bấy giờ bị xã hội khinh thường,
không những bằng cách nâng phẩm giá của người đàn bà lên
đúng tầm quan trọng, mà còn sáng lập giáo hội đầu tiên
trong lịch sử cho hàng phụ nữ. Cũng lần đầu tiên trong
lịch sử nhân loại, Ngài đứng lên cố gắng đánh đổ
chế độ mua bán người làm nô lệ. Ngài bãi bỏ phong tục
đem những con vật xấu số ra giết để cúng tế thần linh và
nới rộng tâm Từ, bao trùm luôn cả loài thú.
Không bao giờ Đức Phật cưỡng bách
tín đồ phải làm nô lệ cho giáo lý của mình hay cho chính mình.
Những ai bước theo dấu chân Ngài đều được tự do tư tưởng.
Ngài khuyên dạy hàng môn đệ không nên nhắm mắt chấp
nhận những lời của Ngài chỉ vì kính nể, tôn trọng, nhưng
phải xem xét, nghiên cứu, suy niệm cẩn thận cũng như người
trí tuệ muốn thử vàng, phải "đốt, cắt và chà vào đá".
Đức Phật nâng đỡ những bà mẹ
bạc phước như Patacara và Kisagotami bằng những lời khuyên lơn
an ủi. Ngài tự tay chăm sóc những người bệnh hoạn cô đơn
như Putigatta Tissa Thera. Ngài giúp đỡ người nghèo đói và
bị bỏ rơi, không noi nương tựa như Rajjumala và Sopaka và
giải cứu những vị này khỏi phải chết oan thê thảm. Đức
Phật nâng cao đời sống đạo đức của hạng người tội
lỗi sát nhân như Angulimala và hạng gái giang hồ hư hỏng như
Ambapali. Ngài khuyến khích kẻ yếu, đoàn kết người chia
rẽ, đem ánh sáng đến cho người vô minh tăm tối, dắt dẫn
kẻ mê muội lầm đường, nâng đỡ người thấp kém và tăng
cao phẩm giá người cao quý. Người nghèo, người giàu, người
lương thiện và người tội lỗi, tất cả đều quý mến Ngài
như nhau. Những bậc vua chúa tàn bạo độc tài và những vì
minh quân chánh trực, những hoàng tử vinh quang hiển hách và
những người sống cuộc đời tối tăm, không ai biết đến,
những nhà triệu phú giàu lòng quảng đại, những vị keo
kiết bỏn xẻn, những học giả khiêm tốn và những người
kiêu căng tự đắc, hạng gái giang hồ, hạng người làm
nghề bẩn thỉu, hạng sát nhân, hạng người thường bị
khinh bỉ, tất cả đều có hưởng những lời khuyên dạy đầy
trí tuệ và từ bi của Đức Phật. Gương lành cao quý của
Ngài là nguồn gợi cảm, là niềm khích lệ cho tất cả. Ngài
là vị đạo sư giàu lòng bi mẩn và rộng lượng khoan hồng
hơn tất cả.
Ý chí sắt đá, trí tuệ cao siêu, lòng
bi mẫn vô biên, đức vị tha phục vụ, sự thoát ly chưa
từng có, đời sống gương mẫu, những phương pháp toàn
thiện mà Ngài đã áp dụng để truyền bá giáo lý, và sự
thành công tối hậu của Ngài -- tất cả những yếu tố ấy
đã khiến một phần năm nhân loại tôn thờ Ngài là vị giáo
chủ siêu việt nhất tự cổ chí kim.
Để tỏ lòng kính thâm sâu của mình
đối với Đức Phật, Sri Radhakrishnan viết:
"Nơi Đức Phật Gotama (Cồ Đàm)
ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người phương Đông.
Ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân
loại là một kỳ công hy hữu, cho đến nay không thua kém
ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử.
Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên
một hệ thống tôn giáo vô cùng cao thâm huyền diệu. Ngài
thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh
của người thiện trí bởi vì, đứng về phương diện trí
thức, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng
nhất của lịch sử". [13]
Trong quyển "Three Greatest Men in
History", nhà học giả H. G. Wells ghi nhận như sau:
"Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng
là một con người giản dị có tâm đạo nhiệt thành, một mình
tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống,
một con người như mọi người chớ không phải một nhân
vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết hoang
đường. Ngài cũng ban bố cho nhân loại lời kêu gọi có tính
cách phổ thông. Bao nhiêu quan niệm của thế hệ tân thời đều
tương hợp với giáo lý ấy. Đức Phật dạy rằng tất cả
những gian lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do lòng
ích kỷ sanh ra. Trước khi có thể trở nên vắng lặng, con người
cần phải ngừng sống cho giác quan mình. Rồi từ đó, vượt
lên trên tất cả mọi người, Ngài sống cuộc đời siêu nhiên.
Năm trăm năm trước Chúa Christ (Ki Tô), xuyên qua nhiều ngôn
ngữ khác nhau, Phật Giáo đã kêu gọi con người nên tự quên
mình. Đứng về một vài phương diện, giữa ta (là người Âu)
và những nhu cầu của chúng ta và Phật Giáo, có nhiều quan
điểm gần nhau. Đối với tầm quan trọng của con người
trong sự phục vụ, Ngài tỏ ra sáng suốt hơn, và đối với
vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp nhân sinh, Ngài ít
lúng túng trong biện thuyết mập mờ hơn Chúa Ki Tô."
Thi sĩ Tagore tôn Ngài là bậc Vĩ Nhân
Cao Quý nhất trên thế gian.
Một triết gia người Đan Mạch, ông
Fausboll, tán dương Đức Phật với những lời lẽ như sau:
"Càng hiểu biết Ngài, tôi càng
quý mến Ngài".
Một tín đồ từ tốn của Đức
Phật sẽ nói:
"Càng hiểu biết Ngài, tôi càng
quý mến Ngài. Càng quý mến Ngài, tôi càng hiểu biết Ngài".
Chú thích:
[1] Hàng tín đồ gọi Ngài là Đức
Phật (Buddha), Đức Thế Tôn (Bhagava), Đức Thiện Thệ (Sugata)
v.v... Những người ở đạo khác gọi Ngài là Tôn Giả Cồ
Đàm (Bho Gotama), Sa Môn Cồ Đàm (Samana Gotama) v.v... Khi đề
cập đến mình, Đức Phật dùng danh từ "Như Lai" (Tathagata)
có nghĩa là "người đã đến như vậy", "người
đã ra đi như vậy".
[2] Sanskrit: Bodhisatva. Xem Chương 40 và
41.
[3] Samyutta Nikaya, Tạp A-Hàm phần 3,
trang 66; Kindred Sayings, phần 3, tr.58
[4] Majjhima Nikaya, Trung A-Hàm,
Ariyapariyesana Sutta, số 26
[5] Như Kondanna, Alara Kalama, Uddaka
Ramaputta v.v...
[6] Majjhima Nikaya, Trung A-Hàm, Kinh
Ariyapariyesana Sutta, số 26
[7] Gradual Sayings, phần 2, tr. 44-45.
Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A-Hàm, phần 2, tr. 37.
[8] Tuy nhiên, có những vị đạo sư
Ấn Độ Giáo, để khuyến dụ người Phật tử theo tôn giáo
mình, đã sai lầm gọi Đức Phật là hiện thân của một
Thần Linh Ấn Độ Giáo, điều mà Đức Phật đã bác bỏ
từ lúc còn tại tiền.
[9] Pháp Cú, 165: Trong sạch hay ô
nhiễm đều tùy nơi ta. Khong ai làm cho người khác trong sạch
được.
[10] Pháp Cú, 276
[11] Digha Nikaya - Trường A-Hàm,
Mahaparinibbana Sutta - Kinh Đại Bát Niết Bàn.
[12] Dwight Goddard - Buddhist Bible, trang
20.
[13] Gautama The Buddha, trang 1.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com