Ðề
tài
của
chương
này
là
3
đặc
tính
phổ
biến
của
thực
tại
(hay
hiện
hữu).
Ðây
là
phần
quan
trọng
của
Pháp
Phật.
Giống
như
lý
Tứ
Diệu
Ðế,
Nghiệp
báo,
thuyết
Duyên
khởi
và
Ngũ
uẩn,
giáo
lý
của
Ba
Ðặc
tính
Phổ
biến
này
là
một
phần
của
những
gì
mà
chúng
ta
có
thể
gọi
là
nội
dung
giáo
thuyết
của
trí
huệ.
Nói
một
cách
khác,
khi
nói
về
kiến
thức
và
sự
hiểu
biết
do
trí
huệ
mà
ra,
chúng
ta
hãy
nghĩ
đến
điều
dạy
này. Trang
105.
Trước
khi
xét
đến
3
đặc
tính
này
từng
cái
một,
chúng
ta
hãy
cố
gắng
tìm
hiểu
xem
chúng
có
ý
nghĩa
gì
và
ích
lợi
như
thế
nào.
Ðầu
tiên,
cái
gì
là
một
đặc
tính
và
cái
gì
là
không?
Ðặc
tính
là
một
cái
gì
phải
có
liên
hệ
với
vật
khác.
Vì
đặc
tính
có
dính
dáng
tới
cái
gì
khác
nên
nó
có
thể
cho
chúng
ta
biết
về
tính
chất
của
vật
đó.
Lấy
thí
đụ,
hơi
nóng
là
đặc
tính
của
lửa
chứ
không
phải
của
nước.
Hơi
nóng
là
đặc
tính
của
lửa,
luôn
luôn
và
dính
liền
một
cách
không
thay
đổi
với
lửa,
trong
khi
đó
thì
nước
nóng
hoặc
không
nóng
còn
tùy
thuộc
vào
những
yếu
tố
bên
ngoài--lò
điện,
cái
nóng
của
mặt
trời
v.v..
Còn
cái
nóng
của
lửa
là
điều
đương
nhiên
đối
với
lửa. Chính
trong
ý
nghĩa
này
mà
đức
Phật
dùng
từ
ngữ
‘đặc
tính’
để
nói
đến
các
sự
kiện
về
bản
chất
của
thực
tại,
luôn
luôn
dính
liền
với
thực
tại
và
luôn
luôn
được
tìm
thấy
trong
thực
tại.
Cái
đặc
tính
‘hơi
nóng’
luôn
luôn
dính
liền
với
lửa.
Chúng
ta
có
thể
hiểu
một
chút
gì
đó
về
bản
chất
của
lửa
từ
hơi
nóng.
Chúng
ta
có
thể
hiểu
rằng
lửa
thì
nóng
và
vì
thế
rất
có
thể
nguy
hiểm,
rằng
nó
có
thể
thiêu
đốt
chúng
ta
và
các
tài
sản
ta
nếu
không
được
kiểm
soát.
Tuy
thế
chúng
ta
cũng
có
thể
dùng
lửa
để
nấu
đồ
ăn,
để
làm
ấm
chúng
ta,
v.v...Vì
thế
đặc
tính
của
sự
nóng
cho
chúng
ta
biết
cái
gì
đó
về
lửa,
lửa
là
gì
và
những
gì
phải
làm
với
lửa. Nếu
chúng
ta
nghĩ
đến
đặc
tính
của
lửa
là
có
dính
liền
với
nước,
nó
sẽ
không
giúp
chúng
ta
hiểu
bản
chất
của
nước
hay
dùng
nước
một
cách
khôn
ngoan
vì
sức
nóng
không
phải
luôn
luôn
dính
liền
với
nước.
Nước
chưa
hẵn
đốt
cháy
hay
làm
tiêu
sở
hữu
của
chúng
ta,
cũng
chưa
hẵn
là
ta
nấu
đồ
ăn
với
nước
hay
làm
ấm
với
nước.
Vì
thế
khi
Phật
nói
có
3
đặc
tính
của
thực
tại,
ý
ông
nói
rằng
những
đặc
tính
này
luôn
luôn
có
mặt
trong
thực
tại
và
rằng
chúng
giúp
chúng
ta
hiểu
và
phải
làm
gì
với
thực
tại. Trang
106.
Ba
đặc
tính
của
thực
tại
(hay
hiện
hữu)
là
1.
vô
thường,
2.
đau
khổ
và
3.
vô
ngã.
Ba
đặc
tính
này
luôn
luôn
có
mặt
hoặc
dính
liền
với
thực
tại
và
chúng
cho
chúng
ta
biết
về
bản
chất
của
nó.
Chúng
giúp
chúng
ta
biết
phải
làm
gì
với
nó.
Nhờ
hiểu
biết
3
đặc
tính
này,
chúng
ta
học
tập
và
phát
triển
được
tính
xả
bỏ
(hay
dũng
cảm).
Một
khi
chúng
ta
hiểu
rằng
thực
tại
được
phổ
biến
khắp
nơi
bởi
vô
thường,
đau
khổ
và
vô
ngã,
chúng
ta
sẽ
diệt
trừ
được
sự
vướng
mắc
với
thực
tại.
Dủng
cảm
xả
bỏ
được
sự
vướng
mắc
này
tức
là
ta
đã
tới
được
ngưỡng
cửa
niết
bàn. Ðây
là
mục
đích
của
sự
hiểu
biết
3
đặc
tính
này:
tháo
gở
sự
vướng
mắc
bằng
cách
tháo
gở
sự
bị
đánh
lừa--bị
đánh
lừa
vì
hiểu
lầm
thực
tại
là
thường
hằng,
vui
sướng
và
có
cái
gì
dính
liền
với
cái
ngã.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
hiểu
được
3
đặc
tính
là
một
phần
của
nội
dung
trí
huệ. Chúng
ta
hãy
nhìn
vào
chi
đầu
tiên
trong
3
đặc
tính
của
thực
tại:
đặc
tính
vô
thường
.
Sự
kiện
vô
thường
đã
được
thừa
nhận
không
chỉ
trong
tư
tưởng
Phật
giáo
mà
còn
ở
các
nơi
khác
trong
lịch
sử
của
tư
tưởng.
Chính
triết
lý
gia
Hy
lạp
Heraclitus
đã
nhận
xét
rằng
người
ta
không
thể
bước
vào
trong
cùng
một
dòng
sông
2
lần.
Lời
phát
biểu
rất
Phật
giáo
này,
ngụ
ý
đến
tính
luôn
thay
đổi
và
ngắn
ngủi
của
bản
chất
của
các
vật,.
Trong
kinh
điển
Phật
giáo,
nó
được
nói
rằng
thế
giới
là
vô
thường
giống
như
mây
mùa
thu,
rằng
sinh
và
tử
giống
như
khiêu
vũ,
và
rằng
đời
sống
con
người
giống
như
một
lằn
chớp
hay
thác
nước.
Tất
cả
là
những
hình
ảnh
rõ
rệt
của
vô
thường,
nó
giúp
chúng
ta
hiểu
tất
cả
các
sự
vật
được
đánh
dấu
đặc
tính
của
vô
thường. Trang
107.
Nếu
tự
xem
xét
chính
mình,
chúng
ta
thấy
rằng
thân
thể
con
người
là
vô
thường
và
thay
đổi
thường
xuyên.
Chúng
ta
ốm
đi
hay
mập
ra
hoặc
trở
nên
già
cỗi
hay
răng
tóc
rụng
dần.
Nếu
cần
bằng
chứng
vô
thường
cho
cái
thể
xác
này,
bạn
chỉ
nhìn
vào
bức
ảnh
trên
bằng
lái
xe
của
mình
hay
giấy
thông
hành
có
giá
trị
nhiều
năm.
Các
tình
trạng
tinh
thần
của
chúng
ta
cũng
vô
thường
như
vậy.
Có
lúc
chúng
ta
vui
vẻ,
lúc
khác
lại
buồn.
Còn
nhỏ
thì
không
hiểu
biết
gì
cả;
lúc
đến
tuổi
sung
mãn,
chúng
ta
hiểu
biết
nhiều
hơn;
về
già,
ta
mất
dần
đi
khả
năng
tinh
thần
và
trở
nên
giống
như
con
nít. Ðây
cũng
là
sự
thật
của
mọi
vật
chung
quanh
chúng
ta.
Không
có
một
vật
nào
chung
quanh
ta
bền
vững
mãi--ngay
cả
những
dinh
thự,
chùa
chiền,
sông
ngòi,
hải
đảo,
núi
non
hoặc
đại
dương.
Chúng
ta
biết
rằng
tất
cả
những
hiện
tượng
tự
nhiên
này
dù
rằng
có
vẻ
kéo
dài
lâu
nhất,
ngay
cả
chính
thái
dương
hệ,
một
ngày
nào
đó
sẽ
yếu
dần
đi
và
tự
diệt. Tiến
trình
thay
đổi
liên
tục
của
các
sự
vật
này--riêng
hay
chung,
trong
hay
ngoài--tiếp
tục
một
cách
không
ngừng
cho
dù
không
có
sự
chú
ý
đến
ta
nhưng
ảnh
hưởng
đến
ta
một
cách
kín
đáo
hay
vô
tình
trong
cuộc
sống
hàng
ngày.
Các
mối
liên
hệ
của
chúng
ta
với
những
người
khác
có
liên
hệ
đến
cái
đặc
tính
vô
thường
và
đổi
thay
này.
Bạn
bè
trở
thành
kẻ
thù;
người
thù
trở
thành
bạn
hữu.
Kẻ
thù
cũng
có
thể
trở
thành
thân
nhân,
trong
khi
thân
nhân
trở
thành
kẻ
thù.
Nếu
nhìn
kỹ
vào
cuộc
sống
này,
chúng
ta
có
thể
thấy
được
tất
cả
sự
liên
hệ
của
mình
với
những
người
khác
được
đánh
dấu
bởi
vô
thường
như
thế
nào.
Sở
hữu
của
chúng
ta
cũng
vô
thường.
Tất
cả
các
sự
vật
mà
ta
yêu
quý--nhà
cửa,
xe
hơi,
quần
áo
của
chúng
ta--là
vô
thường.
Tất
cả
cái
đó
sẽ
mục
nát
và
sau
đó
bị
hủy
hoại.
Trong
mỗi
mặt
của
đời
sống
của
chúng
ta-dù
tinh
thần
hay
vật
chất,
dù
đó
là
những
liên
hệ
của
ta
với
người
khác
hay
các
vật
sở
hữu--vô
thường
là
một
sự
kiện
được
chứng
thực
bởi
sự
quan
sát
trực
tiếp
và
tức
thì. Trang
108.
Hiểu
được
vô
thường
không
những
quan
trọng
cho
việc
tu
tập
Pháp
Phật
mà
còn
cho
cuộc
sống
hàng
ngày
của
chúng
ta
nữa.
Ðã
bao
nhiêu
lần
tình
bạn
bị
sứt
mẻ
và
đứt
đoạn
bởi
vì
một
trong
hai
người
không
nhận
thấy
thái
độ
và
mối
quan
tâm
của
bạn
mình
đã
thay
đổi?
Các
cuộc
hôn
nhân
thất
bại
cũng
bởi
một
trong
hai
bên
không
để
ý
thấy
rằng
người
kia
đã
thay
đổi? Chính
vì
chúng
ta
tự
khóa
chặt
mình
vào
những
ý
tưởng
cố
định,
nhân
tạo,
không
thay
đổi
về
tánh
tình
và
cá
tính
của
những
người
bạn
và
thân
nhân
mình
mà
chúng
ta
không
phát
triển
được
những
sự
liên
hệ
của
chúng
ta
với
họ
một
cách
thích
đáng
và
vì
thế
thường
không
hiểu
nhau.
Cũng
giống
như
vậy,
trong
sự
nghiệp
và
cuộc
đời
mình,
ta
không
thể
hy
vọng
thành
công
nếu
không
bắt
kịp
với
những
hoàn
cảnh
đang
thay
đổi,
chẳng
hạn
những
khuynh
hướng
mới
trong
nghề
nghiệp
của
ta
hay
với
cuộc
đời
bên
ngoài,
hiểu
được
sự
vô
thường
là
cần
thiết
nếu
chúng
ta
muốn
hữu
hiệu
và
sáng
tạo
trong
cách
chúng
ta
ứng
xử
với
các
phần
vụ
cá
nhân
và
chuyên
nghiệp. Trang
108.
Mặc
dầu
hiểu
được
sự
vô
thường
thì
có
được
lợi
lạc
hiện
tiền
nhưng
cái
hiệu
quả
của
nó
cũng
là
một
trợ
lực
cho
việc
tu
tập
Pháp
Phật.
Hiểu
biết
vô
thường
là
một
liều
thuốc
giải
độc
cho
tính
vướng
mắc
và
mối
ác
cảm.
Nó
cũng
là
một
sự
khuyến
khích
cho
sự
trì
Pháp.
Cuối
cùng,
nó
là
chìa
khóa
cho
việc
hiểu
biết
chơn
tánh
của
sự
vật
đúng
như
thực
tướng
của
nó. Quán
cái
chết
được
xem
như
là
một
người
bạn
và
một
người
thầy
cho
những
người
muốn
hành
trì
Pháp
Phật.
Quán
cái
chết
có
tác
dụng
như
là
một
sự
ngăn
chận
đối
với
sự
quá
vướng
mắc
và
quá
ác
cảm.
Bao
nhiêu
cuộc
tranh
cải,
bất
đồng
nhỏ
nhặt,
tham
vọng
suốt
đời,
các
sự
thù
địch
tan
dần
thành
vô
nghĩa
khi
nhớ
tưởng
cái
chết
chắc
chắn
xảy
ra.
Suốt
nhiều
thế
kỷ,
các
thầy
tổ
đã
khuyến
khích
các
hành
giả
thành
tâm
với
Pháp
Phật,
hãy
nhớ
tưởng
đến
cái
chêt,
quán
đến
tính
vô
thường
của
nó. Trang
109.
Cách
đây
vài
năm,
tôi
có
một
người
bạn
đi
Ấn
độ
để
học
thiền.
Anh
tiếp
cận
với
một
vị
thầy
rất
nổi
tiếng
và
thông
thái,
hỏi
ông
một
vài
chỉ
dẫn
về
thiền.
Vị
thầy
miễn
cuởng
chỉ,
vì
ông
không
tin
sự
thành
thật
của
anh.
Bạn
tôi
kiên
trì
học
hỏi.
Cuối
cùng,
vị
thầy
bảo
ông
hôm
sau
đến.
Như
đã
được
dặn,
anh
ta
đến
đúng
hẹn
và
chỉ
được
bảo
một
điều,
‘‘Bạn
sẽ
chết;
hãy
thiền
quán
về
điều
đó.’’ Thiền
quán
về
cái
chết
rất
lợi
lạc.
Tất
cả
chúng
ta
cần
nhớ
đến
sự
chắc
chắn
về
cái
chết
của
mình.
Từ
lúc
sanh
ra,
chúng
ta
hướng
về
cái
chết
một
cách
không
thể
ngăn
lại
được.
Nhớ
được
điều
này--điều
mà
vào
lúc
chết,
giàu
sang,
gia
đình,
danh
tiếng,
sẽ
không
giúp
ích
được
gì--chúng
ta
phải
chuyển
hướng
tâm
trí
vào
việc
thực
hành
pháp
Phật.
Chúng
ta
biết
cái
chết
là
tuyệt
đối
chắc
chắn.
Chẳng
bao
giờ
có
một
mống
sinh
vật
nào
thoát
khỏi
được
chuyện
đó.
Tuy
vậy,
mặc
dầu
cái
chết
tự
nó
là
chắc
chắn,
cái
giờ
chết
lại
không
chắc
chắn.
Chúng
ta
có
thể
chết
bất
cứ
lúc
nào.
Người
ta
nói
rằng
cuộc
đời
giống
như
một
cây
đèn
cầy
trước
gió
hay
một
bong
bóng
nước:
nến
lửa
có
thể
bị
tắt,
bóng
nước
có
thể
bị
tan
bất
cứ
lúc
nào.
Hiểu
được
rằng
cái
giờ
chết
là
không
chắc
chắn,
rằng
bây
giờ
ta
có
những
điều
kiện
và
cơ
hội
để
thực
hành
pháp
Phật,
chúng
ta
phải
thực
hành
nó
một
cách
kịp
thời,
sao
cho
không
để
phí
cơ
hội
và
cuộc
đời
làm
người
quí
giá
của
mình. Cuối
cùng,
hiểu
được
sự
vô
thường
là
một
trợ
cụ
cho
sự
hiểu
biết
chơn
đế
(sự
thật
tuyệt
đối)
về
tính
chất
các
sự
vật.
Thấy
rằng
tất
cả
các
sự
vật
là
dễ
hư
hoại
và
thay
đổi
từng
lúc,
chúng
ta
cũng
bắt
đầu
thấy,
rằng
sự
vật
không
có
gì
chắc
chắn
cho
riêng
nó,
rằng
trong
con
người
và
trong
các
sự
vật
chung
quanh
mình,
không
có
cái
gì
là
cái
ngã,
không
có
cái
gì
là
chắc
chắn.
Với
ý
nghĩa
này,
vô
thường
có
liên
hệ
một
cách
trực
tiếp
đến
cái
cuối
cùng
của
3
đặc
tính,
cái
đặc
tính
của
vô
ngã.
Hiểu
được
vô
thường
là
chìa
khoá
cho
sự
hiểu
biết
vô
ngã.
Chúng
ta
sẽ
nói
chuyện
này
nhiều
hơn,
nhưng
trong
lúc
này
chúng
ta
hãy
tiếp
tục
cái
thứ
hai
của
3
đặc
tính,
cái
đặc
tính
của
đau
khổ. Trang
110.
Ðức
Phật
đã
nói
rằng
bất
cứ
cái
gì
vô
thường
là
đau
khổ,
và
bất
cứ
cái
gì
vô
thường
và
đau
khổ
cũng
là
vô
ngã.
Bất
cứ
cái
gì
vô
thường
là
đau
khổ
vì
vô
thường
là
cơ
hội
cho
đau
khổ.
Vô
thường
là
một
cái
dịp
cho
đau
khổ
hơn
là
một
nguyên
nhân
của
đau
khổ
bởi
vì
vô
thường
tạo
dịp
cho
đau
khổ
khi
nào
vô
minh,
ái
và
thủ
hiện
diện. Tại
sao
như
vậy?
Trong
cái
vô
minh
của
ta
về
thực
tính
của
sự
vật,
chúng
ta
ái
dục
và
thủ
đắc
các
vật
trong
một
hy
vọng
hão
huyền
rằng
chúng
có
thể
thường
hằng,
rằng
chúng
có
thể
cho
ta
hạnh
phúc
không
dứt.
Vì
không
hiểu
được
rằng
tuổi
trẻ,
sức
khỏe
và
cuộc
đời
chính
nó
là
vô
thường
nên
chúng
ta
ái
dục
và
thủ
đắc
chúng.
Chúng
ta
mong
cầu
trẻ
mãi
để
kéo
dài
cuộc
sống,
tuy
vậy
vì
đặc
tính
của
chúng
là
vô
thường
nên
chúng
tuột
qua
tay
ta
là
dĩ
nhiên.
Khi
việc
này
xãy
ra,
vô
thường
là
một
dịp
cho
đau
khổ.
Cũng
vậy,
chúng
ta
không
nhận
ra
tính
chất
vô
thường
của
các
sở
hữu,
quyền
lực
và
uy
tín,
vì
thế
chúng
ta
khao
khát
và
bám
chặt
(ái
và
thủ)
chúng.
Khi
chúng
chấm
dứt,
vô
thường
là
một
dịp
cho
đau
khổ. Trang
110.
Cái
vô
thường
của
tất
cả
tình
trạng
trong
luân
hồi
là
một
dịp
cho
đau
khổ,
đặc
biệt
khi
nó
xãy
ra
trong
cái
gọi
là
các
cõi
giới
may
mắn.
Người
ta
nói
rằng
cái
đau
khổ
của
các
vị
thánh
lớn
hơn
cái
đau
khổ
của
các
sinh
vật
trong
các
cõi
giới
thấp
hơn
bởi
vì
các
thần
thánh
thấy
rằng
họ
sắp
rơi
từ
thiên
đàng
xuống
những
cõi
hiện
hữu
thấp
hơn.
Ngay
cả
các
thần
thánh
run
sợ
khi
đức
Phật
nhắc
nhở
họ
về
vô
thường.
Vì
thế
ngay
cả
những
kinh
nghiệm
vui
thú
mà
chúng
ta
ái
và
thủ
cũng
là
vô
thường,
vô
thường
là
một
dịp
cho
đau
khổ,
và
bất
cứ
cái
gì
vô
thường
là
đau
khổ. Bây
giờ
chúng
ta
bàn
đến
đặc
tính
phổ
quát
thứ
ba
của
hiện
hữu,
cái
đặc
tính
của
vô
ngã,
vô
cá
tính
hay
không
thật
ngã.
Ðây
là
một
trong
những
đặc
điểm
thực
sự
rõ
ràng
dễ
nhận
của
tư
tưởng
Phật
giáo
và
giáo
lý
của
đức
Phật.
Trong
thời
kỳ
phát
triển
tôn
giáo
và
triết
lý
sau
này
ở
Ấn
độ,
các
trường
phái
Ấn
độ
giáo
trở
nên
càng
ngày
càng
tương
tự
với
giáo
pháp
của
đức
Phật
trong
các
kỷ
thuật
thiền
định
và
trong
một
vài
tư
tưởng
triết
lý
của
họ.
Vì
thế
quả
thật
là
một
điều
cần
thiết
cho
các
vị
thầy
Phật
giáo
cần
chỉ
rõ
điểm
độc
đáo
dễ
phân
biệt
là
Phật
giáo
cùng
với
các
trường
phái
Ấn
độ
giáo
nói
chung
khá
giống
nhau.
Ðiểm
độc
đáo
dễ
phân
biệt
đó
là
điểu
dạy
về
vô
ngã. Trang
111.
Ðôi
khi,
điều
dạy
vô
ngã
này
là
một
nguyên
nhân
của
sự
lầm
lẫn,
rối
rắm
bởi
vì
người
ta
thắc
mắc
làm
sao
ta
lại
có
thể
khước
từ
cái
ngã
được.
Chúng
ta
thực
sự
nói,
‘Tôi
đang
nói’
hay
‘Tôi
đang
đi,’
‘Tôì
được
gọi
như
thế’
hay
‘
Tôi
là
cha
(hay
con)
của
một
người
như
thế
như
thế’.
Làm
sao
chúng
ta
có
thể
bác
bỏ
cái
thực
tế
cái
‘tôi’
đó
được? Ðể
làm
sáng
tỏ
hơn,
tôi
nghĩ
ta
nên
nhớ
lại
một
điều
quan
trọng
là:
sự
bác
bỏ
của
Phật
giáo
về
cái
‘tôi’
không
phải
là
một
sự
bác
bỏ
cái
‘tên’
hay
từ
ngữ
‘tôi’
tiện
lợi
này.
Ðó
là
sự
bác
bỏ
tư
tưởng
cho
rằng
cái
tên
hay
từ
ngữ
‘tôi’
này
tượng
trưng
cho
một
thực
tế
có
thực,
thường
hằng
và
không
thay
đổi.
Khi
Phật
nói
rằng
5
yếu
tố
về
kinh
nghiệm
cá
tính
không
phải
là
cái
ngã
và
rằng
cái
ngã
không
được
tìm
thấy
trong
chúng,
ông
muốn
nói
rằng,
bằng
cách
phân
tích,
cái
‘tên’
hay
từ
ngữ
‘tôi’
này
không
liên
hệ
với
bản
chất
hay
thực
thể
nào
cả. Ðức
Phật
đã
dùng
các
thí
đụ
của
xe
chiến
mã
thời
xưa
và
một
đám
rừng
để
cắt
nghĩa
sự
liên
quan
giữa
cái
‘tên’
hay
từ
ngữ
‘tôi’
với
các
thành
phần
của
kinh
nghiệm
cá
nhân.
Ðức
Phật
cắt
nghĩa
rằng
từ
ngữ
‘chiến
mã’
chỉ
là
cái
tên
chung
để
cho
tiện
gọi
các
thành
phần
tập
hợp
lại
theo
một
lối
đặc
biệt.
Bánh
xe
không
phải
là
chiếc
xe,
cái
trục
hay
nguyên
cái
xe
cũng
thế,
v.v...
Cũng
vậy,
một
cái
cây
không,
không
phải
là
một
đám
rừng,
cũng
không
phải
là
một
số
các
cái
cây.
Tuy
thế
không
có
môt
đám
rừng
đứng
riêng
ra
khỏi
từng
cái
cấy
lẻ,
vì
thế
từ
ngữ
‘rừng’
chỉ
là
một
tên
gọi
tiện
lợi
cho
một
tập
hợp
của
các
cái
cây. Ðây
là
điểm
chính
Phật
bác
bỏ
về
một
cái
ngã.
Sự
bác
bỏ
của
ông
là
bác
bỏ
sự
tin
tưởng
có
một
thực
thể
thường
hằng,
có
thực,
độc
lập
mà
nó
đại
diện
bởi
cái
‘tên’
hay
từ
ngữ
‘tôi’.
Một
thực
thể
thường
hằng
như
vậy
sẽ
độc
lập,
tối
cao
giống
như
ông
vua
là
thầy
của
những
người
chung
quanh
ông
ta.
Nó
sẽ
phải
là
thường
hằng,
bất
di
bất
dịch,
và
không
ảnh
hưởng
hay
tác
động
vào
sự
thay
đổi.
Một
thực
thể
thường
hằng
hay
một
cái
ngã
như
thế
thì
không
tìm
đâu
được
cả. Trang
112.
Ðức
Phật
đã
áp
dụng
sự
phân
tích
sau
đây
để
chứng
minh
rằng
cái
ngã
không
thể
tìm
ở
đâu
được
dù
trong
thân
xác
hay
tâm
trí:
1.
Cái
thân
không
phải
là
cái
ngã,
vì
nếu
cái
thân
là
cái
ngã,
cái
ngã
sẽ
vô
thường,
sẽ
tùy
thuộc
vào
sự
thay
đổi,
mục
nát,
tiêu
hủy
và
chết.
Vì
thế
cái
thân
xác
không
thể
là
cái
ngã;
2.
Cái
ngã
không
sở
hữu
thân
xác,
với
ý
nghĩa
rằng
tôi
sở
hữu
một
cái
xe
hay
truyền
hình,
bởi
vì
cái
ngã
không
thể
kiểm
soát
thân
xác.
Cái
thân
xác
ngã
bệnh,
mệt
mõi
và
già
nua,
đi
ngược
lại
với
những
ý
muốn
của
chúng
ta.
Cái
thân
xác
có
một
hình
dáng
đôi
khi
không
phù
hợp
với
những
mong
muốn
của
chúng
ta.
Vì
thế
không
có
cách
nào
cái
ngã
lại
sở
hữu
thân
xác;
3.
Cái
ngã
không
hiện
hữu
trong
cái
thân
xác.
Nếu
tìm
trong
thân
thể
của
ta
từ
đầu
cho
tới
chân,
chúng
ta
không
thể
định
được
chỗ
nào
là
cái
ngã.
Cái
ngã
không
ở
trong
xương
hay
trong
máu,
trong
tủy
hay
trong
tóc
hoặc
nước
bọt.
Cái
ngã
không
có
chỗ
nào
trong
vòng
thân
xác;
4.
Cái
thân
xác
không
hiện
diện
trong
cái
ngã,
vì
thân
xác
hiện
diện
được
trong
cái
ngã,
cái
ngã
sẽ
phải
được
tìm
thấy
ngoài
thân
xác
và
tâm
trí,
nhưng
cái
ngã
không
có
chỗ
nào
tìm
được. Trong
cùng
một
cách,
1.
cái
tâm
không
phải
là
cái
ngã
vì,
giống
như
thân
xác,
cái
tâm
bị
tùy
thuộc
vào
sự
liên
tục
thay
đổi
và
bị
khuấy
động
như
con
khỉ.
Cái
tâm
vui
vẻ
lúc
này
và
buồn
bả
lúc
khác.
Vì
thế
cái
tâm
không
là
cái
ngã
vì
cái
tâm
thay
đổi
không
ngường;
2.
Cái
ngã
không
sở
hữu
cái
tâm
vì
cái
tâm
trở
nên
hồi
hộp
hay
nãn
lòng
ngược
lại
với
ý
muốn
của
chúng
ta.
Mặc
dầu
chúng
ta
biết
rằng
có
tư
tưởng
lành
mạnh
và
có
cái
không
lành
mạnh,
nhưng
cái
tâm
theo
đuổi
tư
tưởng
lành
mạnh
và
dửng
dưng
đối
với
những
tư
tưởng
không
lành
mạnh.
Vì
thế
cái
ngã
không
sở
hữu
cái
tâm
vì
cái
tâm
hành
động
một
cách
độc
lập
của
cái
ngã;
3.
Cái
ngã
không
hiện
hữu
trong
cái
tâm.
Cho
dù
chúng
ta
cẩn
thận
như
thế
nào
khi
đi
tìm
nội
dung
của
các
cái
tâm
của
mình,
cho
dù
cẩn
thận
như
thế
nào
khi
đi
tìm
các
cảm
giác,
ý
tưởng
và
hướng
đi,
chúng
ta
không
thể
nào
tìm
ở
đâu
được
cái
ngã
trong
cái
tâm
và
các
tâm
hành;
4.
Cái
tâm
cũng
không
hiện
hữu
trong
cái
ngã
vì
một
lần
nữa
cái
ngã
sẽ
phải
hiện
hữu
ngoài
cái
tâm
và
thân
xác,
nhưng
một
cái
ngã
như
thế
không
thể
tìm
ở
đâu
được
cả. Trang
113.
Có
một
bài
tập
rất
giản
dị
mà
bất
cứ
người
nào
trong
chúng
ta
cũng
đều
có
thể
thực
hiện.
Nếu
tất
cả
chúng
ta
ngồi
yên
lặng
trong
một
thời
gian
ngắn
và
nhìn
vào
trong
chính
thân
và
tâm
của
mình,
chắc
chắn
là
ta
thấy
rằng
mình
không
thể
định
chỗ
một
cái
ngã
bất
cứ
nơi
nào
trong
thân
xác
hay
tâm
trí.
Cái
kết
luận
độc
nhất
có
thể
có
là
‘cái
ngã’
chỉ
là
một
tên
gọi
cho
tiện
lợi
cho
một
tập
hợp
của
các
yếu
tố.
Không
có
cái
ngã,
kkông
có
linh
hồn,
không
thực
chất,
không
có
cái
cốt
lõi
của
kinh
nghiệm
cá
nhân
ngoài
các
yếu
tố
vật
chất
và
tinh
thần
thay
đổi
không
ngừng,
hỗ
tương,
vô
thường
của
kinh
nghiệm
cá
nhân,
như
các
cảm
thọ,
tư
tưởng,
thói
quen
và
thái
độ
của
chúng
ta. Tại
sao
ta
lại
đi
lo
bác
bỏ
cái
ý
tưởng
về
một
cái
ngã?
Ta
được
lợi
lạc
gì
khi
bác
bỏ
cái
ngã?
-
Chúng
ta
có
thể
được
hưởng
lợi
bằng
2
lối.
Ðầu
tiên,
chúng
ta
có
thể
được
hưởng
lợi
ở
mức
độ
thế
gian,
trong
các
cuộc
sống
hàng
ngày
của
mình,
ở
chỗ
là
ta
trở
nên
sáng
tạo
hơn,
thoải
mái
hơn,
rộng
rãi
hơn.
Chừng
nào
còn
bám
thủ
vào
cái
ngã,
chúng
ta
sẽ
phải
luôn
luôn
tự
bảo
vệ
tài
sản,
uy
tín,
ý
kiến
mình
và
ngay
cả
những
lời
phát
biểu
của
mình.
Một
khi
ta
bỏ
đi
sự
tin
tưởng
vào
một
cái
ngã
độc
lập
và
thường
hằng,
chúng
ta
sẽ
có
thể
liên
hệ
với
các
người
khác
và
các
tình
trạng
mà
không
bị
bệnh
hoang
tưởng
hoặc
đa
nghi.
Chúng
ta
sẽ
có
thể
hành
động
tự
do,
không
ép
buộc,
không
gò
bó
và
sáng
tạo.
Vì
thế
hiểu
được
vô
ngã
là
một
trợ
cụ
cho
cuộc
sống. Cái
thứ
hai,
và
đây
là
điều
quan
trọng
hơn,
hiểu
được
vô
ngã
là
chìa
khóa
cho
sự
giác
ngộ.
Sự
tin
tưởng
có
một
cái
ngã
là
đồng
nghĩa
với
vô
minh,
và
vô
minh
là
căn
bản
nhất
của
3
phiền
não.
Một
khi
nhận
diện,
tưởng
tượng
hay
tự
nhận
là
một
thực
thể,
chúng
ta
tức
khắc
tạo
ra
một
sự
ly
cách,
phân
cách
giữa
chúng
ta
và
con
người
và
các
sự
vật
chung
quanh
chúng
ta.
Một
khi
chúng
ta
có
ý
niệm
về
một
cái
ngã,
chúng
ta
phản
ứng
với
con
người
và
các
sự
vật
chung
quanh
chúng
ta
với
sự
dính
mắc
và
ghét
bỏ.
Với
ý
nghĩa
này,
cái
ngã
thực
sự
là
vật
chịu
trách
nhiệm
về
những
điều
rắc
rối
và
bực
mình. Trang
114.
Thấy
được
rằng
cái
ngã
là
nguồn
gốc
và
nguyên
nhân
của
tất
cả
đau
khổ
và
rằng
sự
xả
bỏ
cái
ngã
là
cái
nhân
của
việc
chấm
dứt
đau
khổ,
vậy
tại
sao
ta
không
làm
hết
sức
mình
để
từ
khước
và
tiêu
diệt
cái
ý
tưởng
của
một
cái
ngã
này,
mà
lại
cố
gắng
chống
đỡ,
bảo
vệ
và
duy
trì
nó?
Tại
sao
không
thừa
nhận
rằng
kinh
nghiệm
cá
nhân
giống
như
một
như
cây
chuối
hay
một
củ
hành--rằng
khi
chúng
ta
tách
nó
ra
từng
phần,
xem
xét
nó
một
cách
nghiêm
túc
và
phân
tích,
chúng
ta
sẽ
thấy
rằng
nó
trống
không,
không
có
một
cốt
lõi
thực
chất,
rằng
nó
hoàn
toàn
thiếu
cái
ngã? Khi
chúng
ta
hiểu--qua
học
hỏi,
xem
xét
và
thiền
định--rằng
tất
cả
mọi
sự
vật
là
vô
thường,
là
đầy
đau
khổ,
là
vô
ngã,
và
khi
sự
hiểu
biết
của
chúng
ta
về
các
sự
thật
này
không
chỉ
là
trí
thức
hay
khoa
bảng
mà
trở
thành
một
phần
của
kinh
nghiệm
tức
thời
của
chúng
ta,
vậy
thì
cái
hiểu
biết
3
đặc
tính
phổ
biến
sẽ
giải
thoát
chúng
ta
ra
khỏi
những
lỗi
lầm
căn
bản
mà
chúng
giam
hảm
chúng
ta
trong
vòng
luân
hồi
sanh
tử:
những
lầm
lỗi
của
việc
thấy
các
sự
vật
là
thường
hằng,
hạnh
phúc
và
có
liên
quan
đến
cái
ngã.
Khi
những
ảo
tưởng
này
được
tháo
gở,
trí
tuệ
sẽ
hiện
ra
giống
như,
khi
bóng
tối
bị
mất
đi,
ánh
sáng
hiện
tiền.
Và
khi
trí
tuệ
xuất
hiện,
chúng
ta
sẽ
được
cái
thanh
tịnh
và
tự
do
của
niết
bàn. Trong
chương
này
chúng
ta
đã
tự
giới
hạn
vào
việc
xem
xét
kinh
nghiệm
cá
nhân
về
phương
diện
thân
xác
và
tâm
trí.
Trong
chương
kế
chúng
ta
sẽ
xem
xét
sâu
xa
hơn
về
sự
phân
tích
kinh
nghiệm
cá
nhân
của
Phật
giáo
đối
với
các
thành
phần
của
vũ
trụ
về
mặt
vật
chất
và
tinh
thần.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002