Tu Tập Thất Giác Chi
* "Như lý tác ý" là thức ăn của Niệm
giác chi, làm cho Niệm giác chi chưa sanh được sanh khởi, Niệm
giác chi đã sanh được viên mãn. (Tương Ưng V, Sđd., tr. 83*84).
* "Như lý tác ý" trên các pháp
thiện, bất thiện, liệt, thắng... là thức ăn cho Trạch pháp
giác chi, làm cho Trạch pháp giác chi chưa sanh được khởi, Trạch pháp
giác chi đã sanh được viên mãn. (Sđd., tr. 65).
* "Như lý tác ý" trên dõng mãnh giới,
tinh cần giới (Nikkhammadhàtu), làm cho sung mãn, là làm cho Tinh tấn
giác chi chưa sanh được sanh khởi, đã sanh được viên mãn. (Sđd.,
tr. 67).
* "Như lý tác ý" trên những pháp làm
trú xứ cho Hỷ giác chi, làm cho viên mãn. Ðây là thức ăn
khiến cho Hỷ giác chi chưa sanh được sanh khởi, đã sanh được viên
mãn. (Sđd., tr. 68).
* "Như lý tác ý" làm cho thân khinh an
được sung mãn: đây là thức ăn khiến cho Khinh an giác chi
chưa sanh được sanh khởi, đã sanh đi đến viên mãn. (Sđd., tr. 68).
* Nếu "Như lý tác ý" về tịnh
chỉ tưởng, bất loạn tưởng, làm cho sung mãn. Ðây là thức ăn làm cho Ðịnh
giác chi chưa sanh được sanh khởi, Ðịnh giác chi đã sanh đi đến
viên mãn. (Sđd., tr. 68).
* Có các pháp là trú xứ cho Xả giác chi.
Chính ở đây, nếu Như lý tác ý làm cho sung mãn, thì ở đây là
món ăn khiến cho Xả giác chi chưa sanh được sanh khởi, giác chi đã sanh
được tu tập đi đến viên mãn. (Sđd., tr. 68).
Bảy giác chi trên luôn luôn cần được tu tập, y cứ
vào giới, an trú trên giới, nghĩa là tu tập Bảy giác chi theo với viễn ly,ly
tham và từ bỏ. (Theo Tương Ưng V, Sđd., 64).
Ðiều mà hành giả cần biết là Thất giác chi
được tu tập theo thứ lớp, cũng có thể tu tập độc lập từng chi phần.
Do thân và tâm sống viễn ly, Niệm giác chi tu tập
để đi đến thành tựu. Hành giả trú chánh niệm như vậy, với trí
tuệ tư sát, quyết trạch, thành tựu được quán sát pháp ấy. Tại
đây, Trạch pháp giác chi bắt đầu phát sinh trong vị ấy. Trong khi tu tập
Trạch pháp giác chi, trong khi với trí tuệ quyết trạch, tư sát pháp
ấy, thì tinh tấn bắt đầu phát khởi. Trong khi hành giả tinh cần tu tập tinh
tấn giác chi hướng đến viên mãn thì Hỷ giác chi bắt đầu phát khởi.
Trong khi tu tập Hỷ giác chi, Hỷ giác chi đi đến viên mãn thì hành
giả có thân khinh an và tâm khinh an, Khinh an giác chi phát khởi. Trong khi tu
tập Khinh an giác chi đi đến viên mãn, thì hành giả có lạc, có lạc tâm
sinh, tâm trở nên định tỉnh, Ðịnh giác chi bắt đầu phát khởi. Trong khi tu
tập Ðịnh giác chi đi đến viên mãn, hành giả khéo trú xả nhìn sự vật,
Xả giác chi bắt đầu phát khởi. Nhờ tu tập Xả, xả giác chi đi đến viên
mãn. (Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 69-70).
Một lần Tôn giả Upavàna bảo: "Vị Tỷ-kheo chỉ
bắt đầu Niệm giác chi biết được tâm mình khéo giải thoát, thụy
miên hôn trầm được khéo nhổ sạch, trạo hối trong mình được khéo điều
phục, tinh tấn bắt đầu khởi, lấy giác chi ấy làm đối tượng, vị Tỷ-kheo
dụng tâm tác ý, giác chi ấy không thối thất". (Sđd., tr. 69-70)
Tương tự như thế đối với Trạch pháp, Tinh tấn,
Hỷ, Khinh an, Ðịnh và Xả giác chi.
Về sự tu tập riêng từng giác chi, Thế Tôn dạy:
"Ở đây, đối với vị Tỷ-kheo tu tập
Niệm giác chi liên hệ đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt, hướng
đến từ bỏ, quảng đại, vô lượng, không sân, khát ái được đoạn tận.
Do khát ái được đoạn tận nên nghiệp được đoạn tận. Do nghiệp
đoạn tận nên khổ được đoạn tận". (Tương Ưng V. Sđd., 68, 69-70).
Tương tự đối với sáu giác chi còn lại.
Con đường tu tập Thất giác chi luôn luôn được vận
dụng không rời khỏi tác ý viễn ly, ly tham, từ bỏ, đoạn diệt tham ái
để chứng Diệt đế. Trọng tâm của giải thoát là đoạn tận
khát ái. Khát ái được đoạn tận thì chấp thủ được đoạn tận, vô minh
được đoạn tận.
Chánh niệm luôn luôn là cơ sở tu tập cho Tứ
niệm xứ, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát Chánh
đạo, bởi vì chánh niệm dẫn đến chánh định, là cơ sở tựu thành
công việc đoạn trừ ái, thủ. Trên cơ sở định này, trí tuệ mới
được vận dụng hữu hiệu để dập tắt khát ái. Ðịnh như vậy là một
thành tựu cần thiết của quá trình tu tập để đoạn tận khổ đau. Vậy
nên, bản chất của con đường tu tập giải thoát của Phật giáo, mà thường
gọi là Ðạo đế, là Thiền định.
Ðiểm đặc biệt của pháp môn tu tập Thất giác
chi liên hệ đến ly tham, từ bỏ... là chỉ cần tu tập một giác chi cũng
có thể đi đến kết quả thấy biết như thật, giải thoát lậu
hoặc khổ đau.
"Tu tập một giác chi đã có thể thành tựu mục
đích của đời sống phạm hạnh, huống nữa là tu tập cả Thất giác chi".
(Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 68, 69-70).
Tuy nhiên, trong quá trình tu tập, tâm lý của hành
giả luôn luôn được chuyển đổi, thường xuất hiện dưới hình thái
tích cực, tiêu cực khác nhau, nên việc đề khởi tu tập Thất giác chi
cần được hành giả vận dụng thiện xảo. Nguyên tắc của tu tập để
chuyển đổi tâm lý là nguyên tắc đối trị. Nguyên tắc đối trị này
là chỉ thực hiện hữu hiệu đúng vào lúc mà tâm lý cần được
đối trị tương ứng với pháp môn đối trị.
Chẳng hạn đối trị hôn trầm thì vận dụng tầm tâm sở
tư duy; quan sát đối trị với sân triền cái thì quán từ bi... Ở Thất
giác chi, khi tu tập, nếu tâm lý hành giả rơi vào trạng thái mệt
mỏi thụ động thì Hỷ giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi cần
được vận dụng; bấy giờ nếu tu tập Xả, Khinh an và Ðịnh giác chi thì sẽ
không thích hợp, tâm của hành giả khó mà phát khởi được. Trái lại, khi
tâm lý hành giả dao động thì việc tu tập Xả, khinh an, và Ðịnh giác
chi là đúng lúc, thích ứng; bấy giờ, nếu tu tập Trạch pháp, Tinh tấn và
Hỷ giác chi thì lại không thích hợp.
Chỉ có Niệm giác chi là giác chi đặc biệt mà
hành giả có thể vận dụng tu tập trong bất cứ điều kiện tâm
lý nào. Ðiểm tu tập này vừa nói lên rằng Niệm giác chi (hoặc Tứ
niệm xứ) là pháp môn tu tập phù hợp với mọi căn cơ trong mọi
thời. Tại đây, chúng ta có thể rút ra được một bài học có ý
nghĩa là có thể chọn pháp môn tu tập Niệm giác chi hay Tứ niệm
xứ như là pháp môn tu tập thích hợp với quần chúng đủ mọi trình độ,
căn cơ, mà không sợ có xảy ra các phản tác dụng của tâm lý tu tập. Có
thể gọi đây là pháp môn tu tập hiền thiện nhất. Mật tông,
Tịnh độ tông và Thiền Công án không phải là pháp môn thích hợp với
mọi căn cơ. Chỉ có Thiền của Tứ niệm xứ và Niệm giác chi
này mới thật sự là thích ứng với mọi căn cơ.
Nếu pháp môn tu tập trái với căn cơ thì có
thể không đem lại kết quả, có khi còn gây thêm tác hại nữa. Thế
Tôn đã ví trường hợp tâm lý thụ động mà tu tập Xả, Khinh an và Ðịnh
giác chi như là nhen lên một ngọn lửa bằng cỏ ướt, củi ướt ở giữa mưa
gió; và ví trường hợp tâm lý dao động mà tu tập Hỷ, Tinh tấn và
Trạch pháp giác chi, như là dập tắt một ngọn lửa đang bốc cháy bằng
cách ném thêm vào cỏ khô, củi khô và thổi hơi vào. (Theo Tương Ưng V,
Sđd., 90-91)
Vật lý cũng như tâm lý, có những luật tắc
riêng của nó. Hành giả cần để tâm theo dõi chúng để áp dụng pháp
môn tu tập thích ứng, thiện xảo thì việc giải thoát mới hy vọng
có thể thành tựu ngay trên cuộc đời này.
Một điểm đặc biệt nữa của Thất giác chi là
pháp môn này có thể tu tập cùng với Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ,
xả). Khi tu tập mỗi giác chi liên hệ với tan rã, đoạn diệt, từ
bỏ, hành giả có thể trú tưởng bất tịnh hay tịnh trong tất cả các pháp
(dù pháp ấy là tịnh hay bất tịnh), hoặc trú xả, chánh niệm tỉnh giác
đối với tất cả pháp. Nếu tu tập Thất giác chi cùng với Từ tâm, thì
hành giả sẽ đạt được từ tâm giải thoát, trú vào đệ Tứ Thiền sắc
giới là cao nhất (đây thuộc về tâm giải thoát, khác với tuệ giải
thoát). Nếu tu tập Thất giác chi cùng với Bi tâm, thì hành giả trú vào
Không vô biên xứ là cao nhất (đây chỉ nói đến tâm giải thoát). Nếu
tu tập Thất giác chi cùng với Hỷ tâm, thì hành giả sẽ đạt tới Thức vô
biên xứ là cao nhất (đây chỉ đề cập tâm giải thoát). Nếu tu tập
Thất giác chi cùng với Xả tâm thì hành giả sẽ đạt tới Vô sở hữu xứ là
cao nhất (đây chỉ đề cập tâm giải thoát). (Theo Tương Ưng V, Sđd., tr.
123-125).
Thế là, nếu tu tập Thất giác chi cùng với Tứ
vô lượng tâm sẽ chắc chắn không rơi vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên.
Kinh Trung Bộ I nói rằng, khi hành giả ở Vô sở hữu xứ
thiên muốn băng qua Phi tưởng hi phi tưởng xứ để đến Diệt
thọ tưởng định thì nên hành Tứ vô lượng tâm. Tại đây có một phần
khác biệt với sự trình bày ở Tương Ưng V ở trên, nhưng điểm nhất
quán quan trọng là nếu tu Tứ vô lượng tâm thì quyết định không
rơi vào Phi tưởng phi phi tưởng. Chúng ta cũng có thể nhận định rằng
các cảnh giới Thiền này là thuộc phần tâm giải thoát, nếu tại các
cảnh giới này hành giả vận dụng Thiền quán để trực tiếp đoạn
trừ các kiết sử, lậu hoặc, thì có thể vào thẳng Diệt thọ
tưởng định và đắc Chánh trí, Giải thoát.
Ngoài kết quả trên, tu tập Thất giác chi được sung
mãn thì sẽ được bảy kết quả, bảy lợi ích:
1. Ngay trong hiện tại có thể lập tức thành tựu
Chánh trí.
2. Nếu không thể, thì khi lâm chung thành tựu được Chánh trí.
3. Nếu không được như thế, thì khi lâm chung đoạn tận được năm hạ
phần kiết sử và chứng đắc Trung gian Bát-niết-bàn (Antaràparinibbàyi).
4. Nếu không được như thế thì khi lâm chung, sau khi đoạn tận năm hạ
phần kiết sử, chứng được Tổn hại Niết-bàn (Upahaccaparinibbàyi).
5. Nếu không như thế thì khi lâm chung, sau khi đoạn tận được năm hạ
phần kiết sử, sẽ chứng Vô hành Niết-bàn (asankhàraparinibbàyi).
6. Nếu không như thế thì khi lâm chung, sau khi đoạn tận được năm hạ
phần kiết sử, sẽ chứng Hữu hành Niết-bàn (Sankhàraparinibbàyi).
7. Nếu không như thế, thì khi lâm chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần
kiết sử, hành giả sẽ là bậc Thượng lưu (Uddhasoto), đạt được Sắc cứu
cánh thiên.
(Theo Tương Ưng V, Sđd., tr. 71-72).
Một Nét Ðặc Biệt Nổi Bật
Của Thất Giác Chi.
(Kinh Tương Ưng Bộ V, tiểu mục về
bệnh, tr. 82-83, bd. Thích Minh Châu, ghi rõ một số trường hợp Thất giác
chi đã giúp các bậc Thánh vô lậu vượt qua được các cơn trọng
bệnh, trong khi các pháp môn khác thì không).
Tôn giả Ðại Ca-diếp (Mahà Kassapa) mắc trọng
bệnh, đau đớn kịch liệt, khó có thể kham nhẫn. Thế Tôn
đến thăm và nói tóm lược Thất giác chi, nghe xong Tôn giả liền lành
hẳn bệnh.
Một hôm Thế Tôn lâm trọng bệnh, khi Tôn giả
Ðại Thuần-đà (Mahà Cunda) đến hầu Thế Tôn, Thế Tôn bảo Tôn giả
nói về Thất giác chi cho Thế Tôn nghe. Tôn giả liền bắt đầu:
"Một lần con đã nghe Thế Tôn dạy về Thất giác chi...". Nghe
xong, Thế Tôn liền ra khỏi cơn trọng bệnh.
Kinh Tương Ưng không giải thích tại sao Thất giác chi
lại có tác dụng trị lành bệnh một cách thần diệu như thế. Kinh
cũng không nói rõ là tác dụng trị bệnh ấy có thể xảy đến với
bậc Thánh hữu học hay xảy đến với bậc Tùy pháp hành, Tùy tín hành.
Nếu các tâm lý hỷ, xả, khinh an, định hay
tinh tấn lực giúp cho bậc Thánh đi ra khỏi bệnh thì tại sao ở Tứ niệm
xứ, Ngũ căn, Ngũ lực... không được đề cập đến đặc tính trị
bệnh này? Có lẽ bậc Thánh vô học khi nghe Thất giác chi thì thân sắc
sẽ phát khởi cảm giác khinh an đặc biệt khiến có thể đẩy lùi
cơn bệnh chăng?
Con đường tu tập Thất giác chi là con đường bàng bạc
hạnh phúc giải thoát của hỷ, khinh an, lạc, định. Một bước chân đi vào
giải thoát của hành giả là một bước đi thanh thoát của khinh an, lạc và
hỷ ấy. Hành giả đã biến tất cả những vô thường, khổ đau của cuộc
đời đã biến tất cả những vô thường, khổ đau của cuộc đời thành chất
liệu giải thoát qua tịnh tưởng, bất tịnh tưởng để ly tham, ly sân và
qua chánh niệm trú tâm vào từ, bi, hỷ và xả. Hành giả đã biến
những khó khăn, gai góc thành chất liệu làm phát khởi tinh tấn lực; đã
biến những rối ren, sương mù của cuộc sống thành chất liệu làm phát
khởi Trạch pháp giác chi; đã biến những nghịch cảnh, nghịch lý, vô
thường thành chất liệu làm phát khởi Xả, Ðịnh, Khinh an giác chi.
Nói tóm, Thất giác chi nếu được khéo tu tập thì
sẽ chuyển biến được khổ đau sinh tử thành giải thoát, Niết-bàn
ngay trong hiện tại, thiết lập các đạo tràng tu tập Thất giác chi ở
giữa cuộc đời đầy mê vọng, khổ đau này hệt như là thiết lập
các nhà máy than trắng để cho tỏa đầy ánh sáng giác ngộ và giải thoát.
Tất cả những gì thuộc công việc chuyển hóa đều có mặt trong
chúng ta. Tất cả đang chờ đợi sự giác tỉnh và quyết tâm của hành giả
ngay từ hiện tại, trên đời này./.
-oOo-
Bài trước
|
Mục lục | Bài
kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục