354. Ta sẽ chế ngự ngươi,
Như cửa khóa ngăn voi,
Ta sẽ không thúc ngươi,
Đưa tâm vào điều ác,
Ngươi chính là lưới dục,
Ngươi do thân sanh ra.
355. Chế ngự ngươi không
đi,
Như voi, không cửa mở,
Này tâm, kẻ phù thủy,
Dầu ngươi cố gắng mãi,
Ngươi không còn lang thang,
Ưa thích làm điều ác.
356. Như người cầm câu móc,
Ngăn mãi voi chưa thuần,
Như người dùng sức mạnh,
Cải hóa kẻ không muốn,
Cũng vậy đối với ngươi,
Ta sẽ cải hóa ngươi.
357. Như bánh xe tuyệt hảo,
Khéo huấn luyện ngựa hay,
Cũng vậy ta điều ngươi,
Dựa lên trên Năm lực.
358. Ta sẽ cột chặt ngươi,
Với chánh niệm vững chắc,
Tự mình đã chế ngự,
Ta sẽ chế ngự ngươi,
Nhờ sức nặng tinh tấn,
Ngươi được ta áp lực,
Do vậy, hỡi này tâm,
Ngươi sẽ không xa ta.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana
(Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc (Kalandakanivapa).
Lúc bấy giờ, Sa-di Aciravata (Tân Học Sa-môn)
đang ở tại am thất Aranna [1]. Rồi vương tử
Jayasena [2] trong khi tản bộ du hành,
đi đến Sa-di Aciravata, sau khi đến nói lên với Sa-di Aciravata
những lời chào đón hỏi thăm; sau khi đến, nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân
hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, vương tử Jayasena nói
với Sa-di Aciravata:
-- Tôn giả Aggivessana, tôi có nghe như sau: "Ở
đây, Tỳ-khưu sống không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần, sẽ được nhứt tâm".
-- Sự việc là vậy, này Vương tử! Sự việc là vậy, này
Vương tử! Ở đây, Tỳ-khưu sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần sẽ chứng được nhứt tâm.
-- Thật là tốt lành nếu Tôn giả Aggivessana thuyết pháp
cho tôi như đã
được nghe, như đã
được học.
-- Này Vương tử, tôi không có thể thuyết pháp cho Vương
tử như đã
được nghe, như đã được học. Nếu nay
tôi thuyết pháp cho Vương tử như đã
được nghe, như đã được học, và
nếu Vương tử không hiểu lời tôi nói, như vậy sẽ làm tôi mệt mỏi, làm tôi
phiền muộn.
-- Tôn giả Aggivessana, hãy thuyết pháp cho tôi như
đã được
nghe, như đã được học! Rất có thể, tôi
sẽ hiểu ý nghĩa lời nói của Tôn giả Aggivessana.
-- Này Vương tử, tôi sẽ thuyết pháp cho Vương tử như
đã được
nghe, như đã được học. Nếu Vương tử có
thể hiểu ý nghĩa lời nói của tôi, như vậy là tốt
đẹp. Nếu Vương tử không thể hiểu lời nói của
tôi, hãy dừng lại trên sự trạng của mình, chớ có hỏi tôi thêm nữa!
-- Tôn giả Aggivessana, hãy thuyết pháp cho tôi như
đã được
nghe, như đã được học! Nếu tôi có thể
hiểu được ý nghĩa lời nói của Tôn giả Aggivessana, như vậy là tốt
đẹp. Nếu tôi không có thể hiểu được ý nghĩa
lời nói của Tôn giả Aggivessana, tôi sẽ dừng lại trên sự trạng của
tôi, ở đây, tôi sẽ không hỏi Tôn giả
Aggivessana thêm nữa.
Rồi Sa-di Aciravata thuyết pháp cho vương tử Jayasena
như đã
được nghe, như đã được học. Khi được
nghe vậy, Vương tử nói với Sa-di Aciravata như sau:
-- Sự việc không phải là như vậy, Tôn giả Aggivessana;
trường hợp không phải là như vậy, rằng Tỳ-khưu sống không phóng dật, nhiệt
tâm, tinh cần lại có thể chứng đắc nhất tâm.
Rồi Vương tử Jayasena sau khi nói lên với Sa-di
Aciravata sự việc không phải như vậy và trường hợp không phải như vậy, từ
chỗ ngồi đứng dậy và ra
đi.
Rồi Sa-di Aciravata, sau khi vương tử Jayasena ra
đi không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, sau
khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Sa-di
Aciravata kể lại cho Thế Tôn tất cả cuộc đàm
thoại với vương tử Jayasena.
Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Sa-di Aciravata:
-- Như vậy, này Aggivessana, nào có lợi ích gì? Vương
tử Jayasenna sống giữa các dục, thọ hưởng các dục, bị tư tưởng dục nhai
nghiến, bị nhiệt não dục thiêu đốt, tha thiết
truy cầu dục, lại có thể biết, có thể thấy, hay có thể chứng quả vị chỉ có
ly dục mới biết được, chỉ có ly dục mới thấy được, chỉ có ly dục mới đạt
được, hay chỉ có ly dục mới chứng được: sự kiện như vậy không xảy ra.
Này Aggivessana, ví như giữa các con voi, con ngựa hay
con bò được dạy điều phục có hai con voi, hai
con ngựa hay hai con bò được dạy điều
phục, được khéo huấn luyện; và có hai con voi, hai con ngựa hay hai
con bò không được khéo điều phục, không được
khéo huấn luyện. Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Hai con voi,
hai con ngựa hay hai con bò, được khéo điều
phục, được khéo huấn luyện, các con ấy có thể đi đến khả năng điều phục
(dantakaranam), có thể đạt đến điều phục địa không?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-- Còn hai con voi, hai con ngựa hay hai con bò
được dạy điều phục, nhưng không được khéo
điều phục, không được khéo huấn luyện, các con ấy không được điều phục, có
thể đi đến khả năng điều phục, không được điều phục có thể đạt đến điều
phục địa, như hai con voi, hai con ngựa hay hai con bò
được khéo điều phục, được khéo huấn luyện kia
không?
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Cũng vậy, này Aggivessana, vương tử Jayasena sống
giữa các dục, thọ hưởng các dục, bị tư tưởng dục nhai nghiến, bị nhiệt não
dục thiêu đốt, tha thiết truy cầu dục, lại có
thể biết, có thể thấy, hay có thể chứng quả vị chỉ có ly dục mới biết
được, chỉ có ly dục mới thấy được, chỉ có ly dục mới đạt được, chỉ có ly
dục mới chứng được: sự kiện như vậy không xảy ra.
Ví như, này Aggivessana, một hòn núi lớn không xa làng
hay thị trấn. Và có hai người bạn, tay trong tay
đi ra khỏi làng hay thị trấn ấy, và
đi đến hòn núi kia. Sau khi
đến, một người bạn đứng dưới chân núi, còn
người bạn kia leo lên đỉnh núi. Người bạn
đứng dưới chân núi ấy có thể nói với người bạn đứng trên
đỉnh núi: "Này Bạn thân, Bạn
đứng trên
đỉnh núi, Bạn thấy những gì?" Người kia nói: "Này Bạn thân,
đứng trên
đỉnh núi tôi thấy các vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các đất bằng khả
ái, các ao hồ khả ái". Người kia nói: "Không có sự kiện này, này
Bạn thân, không có trường hợp này, Bạn đứng
trên đỉnh núi lại có thể thấy các khu
vườn khả ái, khu rừng khả ái, các đất bằng khả ái, các ao hồ khả ái".
Rồi người bạn đã
đứng trên
đỉnh núi, sau khi đi xuống chân núi, nắm tay bạn, khiến bạn trèo
lên đỉnh núi, để bạn nghỉ thở một thời gian,
rồi nói: "Này Bạn thân, nay Bạn có thể thấy gì, khi Bạn
đứng trên
đỉnh núi?" Và người bạn ấy có thể nói: "Này Bạn thân, nay
đứng trên
đỉnh núi, tôi thấy các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các đất bằng
khả ái, các ao hồ khả ái". Người kia có thể nói như sau: "Vừa rồi, này
Bạn thân, chúng tôi hiểu Bạn nói: "Không thể có sự kiện này, này Bạn thân,
không thể có trường hợp này, Bạn đứng trên
đỉnh núi lại có thể thấy các khu vườn khả ái,
các khu rừng khả ái, các đất bằng khả ái, các ao hồ khả ái". Nhưng nay
chúng tôi hiểu Bạn nói: "Này Bạn thân, nay
đứng trên
đỉnh núi, tôi thấy các khu vườn khả ái, các khu rừng khả ái, các đất bằng
khả ái, các ao hồ khả ái". Người kia nói như sau: "Này Bạn thân, vì
tôi bị che khuất bởi sườn núi này, nên không thấy
được những điều đáng thấy".
Cũng vậy, nhưng to lớn hơn, này Aggivessana, là Vương
tử Jayasena, bị che khuất, bị chận đứng, bị
chướng ngại, bị bao vây bởi vô minh uẩn này. Vương tử Jayasena sống
giữa các dục, thọ hưởng các dục, bị tư tưởng dục nhai nghiến, bị nhiệt não
dục thiêu đốt, tha thiết truy cầu dục, lại có
thể biết, có thể thấy hay có thể chứng quả vị chỉ có ly dục mới biết được,
chỉ có ly dục mới thấy được, chỉ có ly dục mới đạt được, chỉ có ly dục mới
chứng được; sự kiện như vậy không xảy ra.
Nếu hai ví dụ này được Ông
đề cập cho Vương tử Jayasena, thời Vương tử Jayasena tự nhiên tin
tưởng Ông và khi đã tin tưởng, sẽ hành
động đúng theo cung cách một người đã
tin tưởng Ông.
-- Nhưng làm sao, bạch Thế Tôn, hai ví dụ này khởi
đến từ nơi con cho Vương tử Jayasena, khởi lên
một cách tự nhiên, từ trước chưa từng được
nghe, như Thế Tôn được?
-- Ví như, này Aggivessana, một vị vua Sát-đế-lỵ
đã quán đảnh bảo người nài voi:
"Này Tượng sư, hãy cưỡi con vương tượng, đi vào
rừng có voi; khi Ông thấy con voi rừng, hãy cột nó lại vào cổ con vương
tượng". -- "Thưa vâng, tâu Ðại vương". Này Aggivessana, người tượng sư
vâng theo lời vị vua Sát-đế-lỵ đã làm
lễ quán đảnh, cỡi con vương tượng, vào
trong rừng có voi, thấy con voi rừng, cột con voi rừng ấy vào cổ con vương
tượng. Con vương tượng kéo nó ra chỗ ngoài trời. Cho
đến như vậy, này Aggivessana, con voi
rừng được đi đến chỗ ngoài trời. Nhưng
này Aggivessana, con voi rừng còn có sự tham luyến tức là
đối với rừng có voi.
Người tượng sư tâu với vị vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh về con voi rừng
ấy. "Tâu Ðại vương, con voi rừng đã
ra chỗ ngoài trời". Rồi vị vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh bảo người điều phục voi: "Hãy
đến, này người Ðiều phục voi, hãy
điều phục con voi rừng này bằng cách
điều phục nếp sống rừng của nó, bằng cách
điều phục tâm tư rừng núi, bằng cách điều phục sự ưu tư, mệt nhọc, nhiệt não
đối với rừng núi của nó bằng cách làm
cho nó thích thú với thôn làng, và bằng cách làm cho nó quen thuộc với nếp
sống loài người". -- "Thưa vâng, tâu Ðại vương". Này Aggivessana, người
điều phục voi vâng theo lời vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh, đóng một cọc trụ lớn vào
đất, cột cổ con voi rừng, để điều phục nếp
sống rừng của nó, để điều phục tâm tư rừng núi, để điều phục sự suy tư,
mệt nhọc, nhiệt não của rừng núi, để làm
cho nó thích thú với thôn làng và làm cho nó quen thuộc với nếp sống loài
người.
Rồi người điều phục voi
lại nói với nó bằng những lời nhẹ nhàng,
đẹp tai, thân tình,
đi đến tâm, thanh nhã, khiến nhiều
người vui thích, khiến nhiều người hoan hỷ. Và này Aggivessana, con voi
rừng khi được nói với những lời nhẹ nhàng,
đẹp tai, thân tình,
đi đến tâm, thanh nhã, khiến nhiều
người vui thích, khiến nhiều người hoan hỷ, liền nghe, lóng tai, trú tâm
vào học hỏi (anna). Tiếp đến người điều phục
voi đem cỏ và nước cho con voi rừng. Này Aggivessana, khi con voi
rừng nhận cỏ và nước, người điều phục voi mới
nghĩ: "Nay con voi rừng sẽ sống".
Rồi người điều phục voi
khiến con voi rừng làm thêm một động
tác khác: "Này Bạn, nhặt lên! Này Bạn,
đặt xuống!" Này Aggivessana, sau khi con vương tượng vâng theo lời
người điều phục voi, làm
đúng theo lời dạy nhặt lên,
đặt xuống rồi, người điều phục voi khiến nó làm
thêm một động tác khác: "Này Bạn,
đi tới! Này Bạn,
đi lui!" Này Aggivessana, sau khi con
vương tượng vâng theo lời người điều phục
voi, làm đúng theo lời dạy đi tới, đi
lui rồi, người điều phục voi khiến nó làm thêm một
động tác khác: "Này Bạn,
đứng dậy! Này Bạn, ngồi xuống!" Này
Aggivessana, sau khi con vương tượng vâng theo lời người
điều phục voi, làm
đúng theo lời dạy, đứng dậy, ngồi xuống rồi,
người điều phục voi khiến nó làm thêm một
động tác khác tên gọi "bất
động". Nó cột cái khiên bằng gỗ vào
cái vòi của con vật to lớn, và một người tay cầm ngọn giáo ngồi trên cổ,
và xung quanh một số người tay cầm ngọn giáo
đứng bao vây. Và người điều phục voi,
tay cầm một ngọn giáo với cán cây dài,
đứng ở phía trước. Con voi ấy làm động
tác bất động, không có di động chân trước, không có di động chân sau,
không có di động thân trước, không có di động thân sau, không di động đầu,
không có di động tai, không có di động ngà, không có di
động vòi. Con vương tượng là con voi
có thể nhẫn chịu đao, kiếm, tên, búa
chém bắn, nhẫn chịu tiếng vang động của trống
lớn, trống nhỏ, tù và, như là vàng ròng tẩy sạch các tỳ vết nhơ
bẩn, xứng đáng được vua dùng, một sở
hữu của vua, một biểu tượng của vua.
(Lòng tín thành)
Cũng vậy, này Aggivessana, ở
đây, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc
A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau
khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này là Thiên giới, Ma
giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên,
Nhơn, lại tuyên bố điều Ngài
đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ
thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn
nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh [3] hoàn toàn
đầy đủ thanh tịnh.
Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một
người sanh ở giai cấp hạ tiện nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, người ấy
sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy
nghĩ: "Ðời sống gia đình
đầy những triền phược, con đường đầy những
bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ
gì cho một người sống ở gia đình có
thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn
toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia
đình, sống không gia
đình". Một thời gian sau, người ấy bỏ
tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con
quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Cho
đến đây, này Aggivessana, là vị Thánh
đệ tử đi đến chỗ ngoài trời. Nhưng này
Aggivessana, các vị Thiên, Nhân có tham ái này, tức là năm
dục công đức.
(Giữ giới)
Rồi Như Lai huấn luyện thêm cho vị
đệ tử ấy: "Hãy
đến, này Tỳ-khưu, hãy giữ giới, sống
chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa),
đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm
trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong học pháp!"
(Phòng hộ các căn)
Này Aggivessana, sau khi vị Thánh
đệ tử đã giữ giới, sống chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai
nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh
và tu học trong học pháp, Như Lai lại huấn luyện thêm cho vị
đệ tử ấy: "Hãy
đến, này Tỳ-khưu, hãy bảo hộ các căn!
Khi mắt thấy sắc, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được
chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, hãy
tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt.
Khi tai nghe tiếng,... mũi ngửi hương,... lưỡi nếm vị,... thân cảm xúc,...
ý nhận thức các pháp, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng
riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không
được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên,
hãy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn,
thực hành sự hộ trì ý căn".
(Tiết độ ăn uống)
Này Aggivessana, sau khi Thánh
đệ tử đã hộ trì các căn,
Như Lai huấn luyện thêm vị Thánh đệ tử
ấy: "Hãy đến, này Tỳ-khưu, hãy
tiết độ trong ăn uống, chơn chánh giác sát
thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải
để đam mê, không phải
để trang sức, không phải để tự làm
đẹp mình, chỉ
để thân này
được duy trì,
được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp trì
Phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho
khởi lên các cảm thọ mới. Và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống
được an ổn".
(Chú tâm cảnh giác)
Này Aggivessana, sau khi vị Thánh
đệ tử đã tiết
độ trong ăn uống, Như Lai lại huấn luyện thêm
vị ấy: "Hãy đến, này Tỳ-khưu, hãy chú
tâm cảnh giác! Ban ngày khi đi kinh hành
và trong khi đang ngồi, hãy gột sạch
tâm trí khỏi các chướng ngại pháp. Ban đêm
trong canh một, trong khi đi kinh hành
và trong khi đang ngồi, hãy gột sạch
tâm trí khỏi các chướng ngại pháp. Ban đêm
trong canh giữa, hãy nằm xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử,
chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm
đến lúc ngồi dậy. Ban đêm canh cuối,
khi đã thức dậy, trong khi
đi kinh hành và trong khi
đang ngồi, hãy gột sạch tâm trí khỏi
các chướng ngại pháp".
(Chánh niệm tỉnh giác)
Này Aggivessana, sau khi Thánh
đệ tử đã chú tâm cảnh giác, Như Lai
huấn luyện thêm vị ấy: "Hãy đến, này
Tỳ-khưu, hãy thành tựu chánh niệm tỉnh giác! Khi
đi tới khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn
thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co
tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y
đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều
tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng ngồi,
nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh
giác".
Này Aggivessana, sau khi vị Thánh
đệ tử đã thành tựu chánh niệm tỉnh
giác, Như Lai lại huấn luyện thêm vị ấy: "Hãy
đến, này Tỳ-khưu, hãy lựa một trú xứ thanh vắng, khu rừng, gốc cây,
ngọn núi, chỗ hoang vu, hang núi, bãi tha ma, khóm rừng, ngoài trời,
đống rơm!"
(Đoạn trừ triền cái)
Vị ấy lựa chọn một trú xứ thanh vắng, khu rừng, gốc
cây, ngọn núi, chỗ hoang vu, hang núi, bãi tha ma, khóm rừng, ngoài trời,
đống rơm. Vị ấy sau khi ăn xong, trên
đường khất thực trở về, ngồi xuống, kiết-già,
giữ lưng cho thẳng, trú niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở
đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa
tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng
từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ
hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng
hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy
miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối quá, nội tâm
trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống với
tâm thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ
đối với thiện pháp.
(Hành Tứ niệm xứ)
Vị ấy sau khi đoạn trừ năm
triền cái này, những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí
tuệ, vị ấy sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để điều phục tham ưu ở đời, quán thọ trên
các cảm thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để điều phục tham ưu ở
đời.
Ví như, này Aggivessana, một người
điều phục voi đóng một cọc trụ lớn vào
đất, cột cổ con voi rừng để điều phục nếp
sống rừng của nó, để điều phục tâm tư rừng núi của nó, để điều phục sự ưu
tư mệt nhọc nhiệt não của rừng núi, để
làm cho nó thích thú với thôn làng và làm cho nó quen thuộc với nếp
sống loài người; cũng vậy, này Aggivessana, bốn niệm xứ này là những dây
cột tâm tư để điều phục tánh cư sĩ, để điều
phục tâm tư cư sĩ, để điều phục sự ưu tư mệt nhọc nhiệt não của các
cư sĩ, để đạt được chánh lý (naya), để chứng
ngộ Niết-bàn.
Rồi Như Lai huấn luyện thêm vị ấy:
-- Hãy đến, này
Tỳ-khưu, hãy trú quán thân trên thân, và chớ có suy tư trên tầm liên hệ
đến thân; hãy trú quán thọ trên các
cảm thọ, và chớ có suy tư trên tầm liên hệ
đến cảm thọ; hãy trú quán tâm trên tâm, chớ có suy tư trên tầm liên
hệ đến tâm; hãy trú quán pháp trên các
pháp, và chớ có suy tư trên tầm liên hệ đến
các pháp.
(Phát triển thiền-na)
Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai [4],
một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không
tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu
đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền
thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
(Tam minh)
Với tâm định tĩnh, thanh
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy
hướng tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một
đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm
mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời,
một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp,
nhiều thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế
này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này,
ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như
thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.
Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ
nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai
cấp như thế này, ăn uống như thế này,
thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta
được sanh ra ở đây". Như vậy vị ấy nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng
với các nét đại cương và các chi tiết.
Với tâm định tĩnh, thanh
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy
hướng tâm đến sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn
thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri
rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người
đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh
đều do hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng: "Thật sự những vị chúng sanh này
thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành
tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các
nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải
sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn
những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu
những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ
báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những
người này, sau khi thân hoại mạng chung, được
sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên
đời này". Như vậy, vị ấy với thiên
nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ
tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người
đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh
đều do hạnh nghiệp của họ.
Với tâm định tĩnh, thanh
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm [5], không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị
ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ"
[6], tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ tập", tuệ tri như thật: "Ðây là Khổ
diệt", tuệ tri như thật: "Ðây là Con Ðường
đưa đến khổ diệt" tuệ tri như thật: "Ðây là những lậu hoặc", tuệ
tri như thật: "Ðây là nguyên nhân của các lậu hoặc", tuệ tri như thật:
"Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc", tuệ tri như thật: "Ðây là Con Ðường
đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
(Giải thoát)
Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi
dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân
đã giải thoát như vậy, khởi lên sự
hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy
tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, việc cần làm
đã làm; sau
đời hiện tại, không có trở lui đời sống này
nữa".
Tỳ-khưu kham nhẫn lạnh, nóng,
đói, khát, sự xúc chạm của muỗi, ruồi, gió,
mặt trời và các loài bò sát, các ác ngữ, các lời nói chửi mắng, vị
ấy sống quen kham nhẫn với những cảm thọ về thân, thống khổ,
đau nhói, đau đớn, kịch liệt, bất khoái,
không thích ý, đau đớn đến chết, được gột sạch về uế nhiễm tham, sân, si
[7]. Vị ấy xứng đáng được cúng dường, cung kính, tôn trọng, chấp tay, là
vô thượng phước điền trên
đời.
Nếu, này Aggivessana, một con vương tượng tuổi già chết
đi, không được điều phục, không được huấn
luyện, thời con vương tượng tuổi già
được gọi là đã chết với cái
chết không được điều phục. Nếu, này
Aggivessana, một con vương tượng tuổi bậc trung; nếu, này Aggivessana, một
con vương tượng tuổi trẻ chết đi, không được
điều phục, không được huấn luyện, thời con vương tượng tuổi trẻ được gọi là
đã chết với cái chết không
được điều phục. Cũng vậy, này
Aggivessana, nếu vị Trưởng lão Tỳ-khưu chết với lậu hoặc chưa
đoạn tận, thời Trưởng lão Tỳ-khưu
được gọi là
đã chết với cái chết không
được điều phục. Nếu, này Aggivessana,
một Tỳ-khưu trung niên; nếu, này Aggivessana, một Tỳ-khưu thiếu niên chết
với lậu hoặc chưa đoạn tân, thời Tỳ-khưu
thiếu niên được gọi là
đã chết với cái chết không
được điều phục.
Nếu, này Aggivessana, một con vương tượng tuổi già khéo
điều phục, khéo huấn luyện chết đi, thời con
vương tượng tuổi già được gọi là
đã chết với cái chết
được điều phục. Nếu, này Aggivessana,
một con vương tượng tuổi bậc trung, nếu, này Aggivessana, một con vương
tượng tuổi trẻ khéo điều phục, khéo huấn
luyện chết đi, thời con vương tượng tuổi trẻ được gọi là
đã chết với cái chết
được điều phục. Cũng vậy, này
Aggivessana, nếu một Trưởng lão Tỳ-khưu với lậu hoặc
đã đoạn
tận chết đi, thời Trưởng lão Tỳ-khưu
được gọi là đã chết, với cái
chết được điều phục. Nếu, này
Aggivessana, một trung niên Tỳ-khưu; nếu, này Aggivessana, một thiếu niên
Tỳ-khưu, với lậu hoặc đã
đoạn tận chết đi, thời vị thiếu niên
Tỳ-khưu được gọi là
đã chết, với cái chết
được điều phục.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sa-di Aciravata hoan hỷ
tín thọ lời Thế Tôn dạy.
[Trung Bộ 125]
Ghi chú:
[1] Am thất trong một khu biệt lập của vườn Trúc Lâm,
dành để cho các tu sĩ tinh tấn tu thiền
(theo Chú giải).
[2] Con của vua Bimbisara.
[3] Brahmacariyam: Đời sống
trong sạch của một tu sĩ sống độc thân.
[4] Cần ghi nhận ở đây là tiếp theo
đoạn hành Tứ niệm xứ là phát triển Thiền-na thứ hai (Nhị thiền)
mà không thấy đề cập đến Thiền-na thứ nhất
(Sơ thiền). Có thể là vì hành giả đã
thuần thục đạt đến Sơ thiền từ trước. Nhưng
cũng có thể là vì với sự hành trì Tứ niệm xứ một cách tinh tấn,
với chú tâm vào quán sát đơn thuần, thường
có khuynh hướng giảm thiểu tầm, khiến hành giả có thể tiến thẳng
vào Nhị thiền, không còn tầm và tứ (vitakha-vicara). Trường hợp
nầy có thể giải thích bằng các sự kiện rằng (1) trong bài kinh, pháp
hành Tứ niệm xứ theo liền sau việc tạm thời dừng bỏ năm
triền cái, ám chỉ một mức độ tâm định rất cao, tiến gần đến thiền-na; và
(2) trong bài kinh, hành giả được dạy không
có suy tư trên tầm liên hệ đến thân,
đến thọ, đến tâm, đến pháp -- có nghĩa là từ bỏ chi tầm vốn hiện
diện trong Sơ thiền.
[5] Asava.
[6] Dukkha.
[7] Raga, dosa, moha.
-ooOoo-
5. Trưởng lão ni
Dantikà
Trong đời đức Phật
hiện tại, bà được sanh ở
Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình vị
giáo sĩ nhà vua. Khi đến tuổi trưởng thành,
bà trở thành tín nữ ở Jetavana (Kỳ Viên) và về sau xuất gia, dưới
sự chỉ đạo của Tỳ-khưu Ni
Mahàpajàpati. Một thời khi đang ở
Ràjagaha (Vương Xá), bà leo lên núi Linh Thứu; và sau buổi
ăn, khi đang còn ngồi nghỉ, thấy một
người nài điều khiển một con voi; và
nhờ vậy bà chứng quả A-la-hán; với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Về sau, vô
cùng hân hoan với quả chứng của mình, bà nói lên bài kệ như sau:
48. Ra khỏi ngôi tinh xá,
Ðể nghỉ trưa ban ngày,
Trên đỉnh núi Linh Thứu,
Ta thấy một con voi,
Dầm nước xong đi lên,
Trên bờ một con sông.
49. Một người cầm cái móc,
Yêu cầu đưa chân lên,
Con voi duỗi chân ra,
Và người leo lên voi.
50. Thấy kẻ chưa nhiếp phục,
Ði đến được nhiếp phục,
Ta thấy nó vâng chịu,
Theo quyền lực của người.
Như vậy, ta định tâm,
Ði vào trong rừng ấy.
[Trưởng Lão Ni Kệ 3.48]
-ooOoo-
6. Gậy Thúc Ngựa
1. - Có bốn loài ngựa hiền thiện thuần thục này, này
các Tỳ-khưu, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào
là bốn?
Ở đây, này các
Tỳ-khưu, có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa
liền bị dao động, kích thích nghĩ rằng: "Hôm
nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì, và ta
đáp ứng thế nào?" Như vậy, này các
Tỳ-khưu, ở đây là loại ngựa hiền thiện
thuần thục. Này các Tỳ-khưu, đây là
loại ngựa hiền thiện thuần thục thứ nhất, có mặt, hiện hữu ở
đời.
2. Lại nữa, này các Tỳ-khưu, ở
đây có loài ngựa hiền thiện thuần
thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao
động, kích thích. Nhưng khi bị gậy thúc ngựa
đâm vào lông, nó liền bị dao động,
kích thích, nghĩ rằng: "Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm
gì, và ta đáp ứng thế nào?" Như vậy,
này các Tỳ-khưu, ở đây là loài ngựa
hiền thiện thuần thục. Này các Tỳ-khưu, đây là
loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ hai, có mặt, hiện hữu ở
đời.
3. Lại nữa, này các Tỳ-khưu, ở
đây có loài ngựa hiền thiện thuần
thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao
động, kích thích. Khi bị gậy thúc ngựa đâm vào
lông, nó không bị dao động, kích thích. Nhưng
khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, liền bị dao
động, kích thích, nghĩ rằng: "Hôm nay, người
đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì và ta
đáp ứng thế nào?" Như vậy, này các
Tỳ-khưu, ở đây là loài ngựa hiền
thiện, thuần thục. Này các Tỳ-khưu, đây là
loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ ba, có mặt, hiện hữu ở
đời.
4. Lại nữa, này các Tỳ-khưu, ở
đây có loài ngựa hiền thiện thuần
thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao
động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào
lông, không bị dao động, kích thích; bị cây
gậy thúc ngựa đâm vào thịt, không bị dao
động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào
xương, bị dao động, kích thích, nghĩ rằng:
"Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm gì và ta
đáp ứng thế nào?" Như vậy, này các
Tỳ-khưu, ở đây là loài ngựa hiền
thiện, thuần thục. Này các Tỳ-khưu, đây là
loài ngựa hiền thiện, thuần thục thứ tư, có mặt, hiện hữu ở
đời.
Này các Tỳ-khưu, có bốn loài ngựa hiền thiện, thuần
thục, có mặt, hiện hữu ở đời.
5. Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có bốn hạng người hiền
thiện, thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời.
Thế nào là bốn?
Ở đây, này các
Tỳ-khưu, có hạng người hiền thiện, thuần thục nghe tại một làng hay thị
trấn kia, có người đàn bà hay người
đàn ông bị khổ
đau hay bị mạng chung; người ấy do vậy bị dao
động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với
thân, vị ấy chứng ngộ được tối thắng sự thật; với trí tuệ, vị ấy sau khi
thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỳ-khưu, con ngựa
hiền thiện, thuần thục ấy, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, bị dao
động kích thích, Ta nói rằng, này các
Tỳ-khưu, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy,
này các Tỳ-khưu, ở đây có hạng người hiền
thiện. Này các Tỳ-khưu, đây là
hạng người hiền thiện thuần thục thứ nhất có mặt, hiện hữu ở
đời.
6. Lại nữa, này các Tỳ-khưu, ở
đây có hạng người hiền thiện, thuần thục
không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người
đàn bà hay người
đàn ông bị
đau khổ hay bị mệnh chung, nhưng khi tự mình
thấy người đàn bà hay người
đàn ông khổ
đau hay mệnh chung, người ấy do vậy bị dao
động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với
thân, vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi
thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỳ-khưu, con ngựa
hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa
đâm vào da, bị dao
động, kích thích, Ta nói rằng, này các
Tỳ-khưu, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy,
này các Tỳ-khưu, ở đây có hạng người hiền
thiện. Này các Tỳ-khưu, đây là
hạng người hiền thiện thuần thục thứ hai có mặt, hiện hữu ở
đời.
7. Lại nữa, này các Tỳ-khưu, ở
đây có hạng người hiền thiện, thuần thục
không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người
đàn bà hay người
đàn ông bị khổ
đau hay bị mệnh chung, không có tự mình
thấy người đàn bà hay người
đàn ông khổ
đau hay mệnh chung. Nhưng, khi có một người bà
con hay người đồng một huyết thống khổ đau
hay bị mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích,
vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân vị ấy chứng ngộ được sự thật
tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy. Ví
như, này các Tỳ-khưu, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây
gậy thúc ngựa đâm vào thịt, bị dao
động, kích thích, Ta nói rằng, này các
Tỳ-khưu, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy. Như vậy,
này các Tỳ-khưu, ở đây có hạng người hiền
thiện. Này các Tỳ-khưu, đây là
hạng người hiền thiện thuần thục thứ ba có mặt, hiện hữu ở
đời.
8. Lại nữa, này các Tỳ-khưu, ở
đây có hạng người hiền thiện thuần thục không
có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người
đàn bà hay người
đàn ông bị khổ
đau hay mệnh chung, không có tự mình
thấy người đàn bà hay người
đàn ông khổ
đau hay bị mệnh chung, không có người bà
con hay người đồng một huyết thống khổ đau
hay bị mệnh chung. Nhưng khi tự mình cảm xúc những cảm thọ về thân
khổ đau, nhói đau, chói đau, mãnh
liệt, kịch liệt, không phải khả hỷ, không khả ý,
đoạt mạng sống, vị ấy bị dao động, kích
thích. Bị kích thích, vị ấy như lý tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy
chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập,
thấy được sự thật ấy. Ví như, này các Tỳ-khưu, con ngựa hiền thiện
thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào
xương mới bị dao động, kích thích, Ta nói
rằng, này các Tỳ-khưu, con người hiền thiện thuần thục này giống
như ví dụ ấy. Như vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây
có hạng người hiền thiện thuần thục. Này các Tỳ-khưu,
đây là hạng người hiền thiện thuần
thục thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.
Này các Tỳ-khưu, có bốn hạng người hiền thiện thuần
thục này có mặt, hiện hữu ở đời.
[Tăng Chi 4.113]
-ooOoo-
7. Phẩm Tâm
33. "Tâm hoảng hốt giao
động,
Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng,
Như thợ tên, làm tên." |
34. "Như cá quăng
trên bờ,
Vất ra ngoài thủy giới;
Tâm này vũng vẫy mạnh,
Hãy đoạn thế lực Ma." |
35. "Khó nắm giữ, khinh
động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm;
Tâm điều, an lạc đến." |
36. "Tâm khó thấy, tế nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến." |
37. "Chạy xa, sống một mình,
Không thân, ẩn hang sâu
Ai điều phục được tâm,
Thoát khỏi Ma trói buộc" |
38. "Ai tâm không an trú,
Không biết chân diệu pháp,
Tịnh tín bị rúng động,
Trí tuệ không viên thành." |
39. "Tâm không
đầy tràn dục,
Không bị hận công phá,
Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi," |
40. "Biết thân như
đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống ma với gươm trí;
Giữ chiến thắng không tham" |
41 "Không bao lâu thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng." |
42. "Kẻ thù hại kẻ thù,
Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân." |
43. "Ðiều mẹ cha bà con,
Không có thể làm được
Tâm hướng chánh làm được,
Làm được tốt đẹp hơn." |
[Pháp Cú]
|
---o0o---
Nguồn:
http://www.budsas.org
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2005
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục