(Bát Chánh Ðạo)
Phạm Kim Khánh
Lời
nói
là
một
khả
năng
của
con
người
có
giá
trị
vô
cùng
trọng
đại.
Bằng
lời
nói,
ta
biểu
lộ
những
tư
tưởng
thầm
kín
để
chia
xẻ
với
người
khác.
Người
có
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy
tức
nhiên
cũng
có
Chánh
Ngữ.
Những
người
khác,
dầu
chưa
đạt
đến
mức
cao
thượng
ấy,
vẫn
có
thể
tu
tập,
thận
trọng
chú
tâm
vào
những
gì
mình
sắp
nói.
Nếu
con
người
có
thể
kiểm
soát
được
cái
lưỡi
không
xương
của
mình
nhân
loại
ắt
tránh
được
bao
nhiêu
phiền
phức
và
đời
sống
trên
thế
gian
này
sẽ
tốt
đẹp
hơn
bao
nhiêu.
Lời
nói
trong
sạch
sẽ
không
đượm
nhuần
những
tâm
sở
bất
thiện
như
tham
lam,
sân
hận,
ganh
tỵ,
ngã
mạn,
ích
kỷ
v.v... Bốn
loại
khẩu
nghiệp
bất
thiện
là:
nói
dối,
nói
đâm
thọc,
nói
thô
lỗ
cộc
cằn
và
nói
nhảm
nhí. a.
Không
nói
dối
mà
luôn
luôn
nói
lời
chân
thật
là
đức
hạnh
đầu
tiên
của
Chánh
Ngữ.
Người
nghiêm
trì
giới
này
cố
tránh
và
kiêng
cữ
nói
lời
giả
dối,
tức
chuyện
có
nói
không,
chuyện
không
nói
có.
Người
ấy
nói
lời
chân
thật,
tận
tâm
sống
chân
thật,
chắc
chắn,
đáng
được
tín
cẩn.
Tâm
sở
bất
thiện
nằm
phía
sau
lời
nói
giả
dối,
hay
ý
định
làm
cho
người
khác
hiểu
sai
sự
thật,
có
thể
khác
nhau
như
khi
nói
dối
để
được
lợi
về
tài
sản
vật
chất,
địa
vị,
quyền
thế,
danh
vọng
v.v...
cho
mình
hay
cho
người
thân
mình
thì
đó
là
tâm
tham.
Nói
dối
cố
tình
làm
hại
người
khác
là
tâm
sân
v.v... Nói
lời
giả
dối
tác
hại
cho
người
mà
cũng
làm
hại
chính
mình.
Xã
hội
chỉ
có
thể
tồn
tại
êm
thấm
trong
sự
tín
cẩn
lẫn
nhau
khi
mà
người
này
có
lý
do
để
tín
nhiệm
người
khác.
Tật
nói
dối
còn
ảnh
hưởng
đến
tâm
tánh
tự
nhiên
của
mình.
Khi
đã
nói
dối
một
lần
ta
bị
bắt
buộc
phải
nói
dối
nữa
để
che
đậy
cái
dối
trước
và
như
vậy,
gài
chặt
người
nói
dối
vào
một
loại
cạm
bẩy
rất
chằn
chịt,
không
lối
thoát.
Lắm
lúc,
đến
độ
nào,
chính
người
nói
dối
cũng
không
còn
biết
đâu
là
sự
thật. Giả
dối
là
một
trở
ngại
quan
trọng
trên
đường
giác
ngộ.
Giác
ngộ
là
thấu
triệt
sự
thật,
thấy
rõ
thực
tướng
của
sự
vật,
còn
nói
dối
là
nói
sai
sự
thật,
cố
tình
làm
cho
người
khác
hiểu
sai
sự
thật.
Chứng
ngộ
Chân
Lý
là
trọn
vẹn
tự
hòa
đồng
với
sự
thật,
với
cái
gì
thật
sự
là
như
vậy.
Người
giả
dối
nghĩ
một
đàng
nói
ra
một
nẽo,
lấy
giả
làm
thật.
Con
đường
giả
dối
hẳn
là
ngược
chiều
với
con
đường
giác
ngộ.
Như
vậy,
cố
tránh,
cố
kiêng
cữ
lời
nói
giả
dối
là
vươn
mình
cố
vượt
qua
khỏi
phạm
vi
luân
lý
của
đời
sống
xã
hội.
Vấn
đề
ở
đây
là
trọn
vẹn
hòa
đồng
với
Chân
Lý. Ðến
mức
cùng
tột,
chân
thật
là
một
Parami
(Ba
La
Mật),
tức
là
một
trong
mười
pháp
có
khả
năng
đưa
người
thực
hành
thuần
tục
từ
bờ
mê
đến
bến
giác
(Sacca
Paramita,
Ba
La
Mật
Chân
Thật).
Một
vị
Bồ
Tát
luôn
luôn
chân
thật,
trong
sạch
và
chánh
trực.
Phương
châm
của
Ngài
là,
"nói
sao
làm
vậy,
làm
sao
nói
vậy",
không
hề
sai
chạy,
không
bao
giờ
có
sự
chênh
lệch
giữa
hành
động
và
lời
nói.
Ðời
công
các
Ngài
như
thế
nào
đời
tư
như
thế
ấy.
Dầu
có
phải
hy
sinh
mạng
sống
đi
nữa
Bồ
Tát
vẫn
không
hề
nói
lời
giả
dối.
Sở
dĩ
chư
vị
Bồ
Tát
rất
chú
tâm
đến
hạnh
chân
thật
như
vậy
là
vì
ảnh
hưởng
của
sự
giả
dối
rất
sâu
đậm. b.
Không
nói
đâm
thọc
là
pháp
tu
học
thứ
nhì.
Danh
từ
"pisunavacca"
được
Ðức
Thế
Tôn
dùng
ở
đây
có
nghĩa
là
lời
nói
nhằm
bẻ
gảy
tình
bằng
hữu.
Thành
ngữ
mà
người
thế
gian
thường
dùng
là
đâm
bị
thóc
chọc
bị
gạo.
Ði
đầu
này
nói
xấu
đầu
kia,
rồi
trở
lại
đầu
kia
đặt
chuyện
dèm
pha
người
này
nhằm
tạo
sự
thù
hằn,
hờn
giận
hay
chia
rẽ.
Ðức
Phật
dạy: "Người
trì
giới
này
cố
tránh
và
kiêng
cữ,
không
dùng
lời
lẽ
có
tánh
cách
đâm
thọc.
Ðiều
gì
nghe
ở
đây,
người
ấy
không
lặp
lại
ở
nơi
khác
nhằm
tạo
chia
rẽ,
hoặc
nghe
ở
nơi
khác
người
ấy
không
lặp
lại
ở
đây
với
ý
định
làm
cho
hai
đàng
hờn
giận
lẫn
nhau.
Người
ấy
đoàn
kết
những
ai
chia
rẽ
và
khuyến
khích
những
ai
đoàn
kết.
Không
khí
thuận
hòa
là
niềm
vui
của
người
ấy.
Người
ấy
hoan
hỷ
thỏa
thích
và
phấn
khởi
trong
sự
hòa
hợp
và,
bằng
lời
nói,
cố
gắng
gieo
trồng
mầm
mống
thuận
hòa"
(Tăng
Nhứt
A
Hàm.
Anguttara
Nikàya,
176) Ðộng
cơ
thúc
đẩy,
đưa
đến
lời
nói
đâm
chọc
thường
là
tâm
bất
mãn,
sân
hận
hay
ganh
tỵ.
Thấy
ai
thành
công
hay
thấy
người
có
giới
đức
được
tôn
trọng
thì
sanh
tâm
muốn
hạ
uy
tín
hoặc
làm
giảm
suy
giá
trị.
Ðôi
khi
vì
muốn
ám
hại
hay
muốn
lấy
lòng
một
người,
cũng
có
khi
chỉ
vì
thỏa
thích
muốn
thấy
người
ta
giận
dũi
cấu
xé
lẫn
nhau. Ðứng
về
phương
diện
nghiệp
báo,
quả
của
lời
nói
đâm
thọc
rất
là
tai
hại.
Tâm
sân,
làm
nguyên
nhân
cho
lời
nói,
đã
là
một
căn
bất
thiện
rồi,
người
có
ác
ý
cố
gây
chia
rẽ
thường
nghiền
ngẩm
suy
tư,
tìm
lời
lẽ
để
châm
chích
cho
đúng
lúc,
đúng
tâm
lý
v.v...
Càng
ấp
ủ
dưỡng
nuôi
trong
lòng,
nghiệp
ác
càng
nặng.
Nếu
cố
tâm
bày
điều
giả
dối
để
thêm
bớt
thì
lại
còn
tạo
thêm
khẩu
nghiệp
giả
dối.
Cả
hai,
lời
nói
giả
dối
và
lời
nói
đâm
thọc,
phối
hợp
lại
tạo
thành
một
khẩu
nghiệp
bất
thiện
vô
cùng
tai
hại. Người
nói
đâm
thọc
tựa
hồ
như
loài
muổi,
hút
máu
đầu
này
rồi
đến
ve
vản
đầu
kia,
hút
một
ít
máu
và
trong
lúc
ấy,
không
quên
để
lại
một
phần
nọc
độc.
Miệng
nói
ngọt
ngào
như
mật
nhưng
tâm
thì
đượm
nhuần
chất
độc. Lời
chân
chính
không
tạo
phiền
phức
cho
ai
mà
chỉ
đem
lại
hòa
hợp
và
an
tĩnh.
Thay
vì
gieo
rắc
mầm
mống
chia
rẽ
người
ấy
luôn
luôn
tạo
hòa
khí
giữa
những
người
bất
đồng
ý
kiến,
xây
dựng
tình
bằng
hữu
giữa
những
người
thù
nghịch. Trong
xã
hội
loài
người
chúng
ta
không
thể
sống
riêng
rẽ
một
mình
mà
phải
tùy
thuộc
lẫn
nhau.
Vậy,
trong
sự
lợi
ích
kế
cận
nhất
của
mỗi
người,
chúng
ta
hãy
cố
gắng
tập
sống
chung
với
nhau
trong
bầu
không
khí
thuận
hòa,
trong
tình
huynh
đệ
và
trong
sự
điều
hòa. c.
Không
nói
lời
thô
lỗ
cộc
cằn
mà
chỉ
nói
thanh
tao
nhã
nhặn.
Lời
thô
tiếng
cộc
biểu
lộ
ra
ngoài
tâm
hung
tợn
bên
trong
và
được
thốt
ra
trong
cơn
nóng
giận.
Tánh
cách
thô
bạo
của
lời
nói
như
thế
có
thể
biểu
hiện
dưới
nhiều
hình
thức
như
la
rầy,
mắng
nhiếc,
chưởi
rủa
hay
nói
xiêng
nói
xỏ
v.v...
tất
cả
đều
phát
sanh
từ
tâm
bất
mãn,
sân
hận
và
nhằm
gây
phiền
muộn
khổ
đau
cho
người
khác. Những
cơn
nóng
giận
thường
bộc
phát
đột
ngột,
không
có
sự
nghiền
ngẫm
suy
tính,
do
đó
hậu
quả
không
đến
nổi
trầm
trọng
lắm.
Tuy
nhiên,
vì
nó
có
khuynh
hướng
tái
diễn,
nếu
chúng
ta
lơ
đểnh
để
lặp
đi
lặp
lại
nhiều
lần
ắt
thành
thói
quen
và
từ
đó,
trở
thành
tâm
tánh
sân
hận
và
hung
bạo
thì
rõ
ràng
là
một
hiểm
họa.
Lời
nói
thô
bạo,
biểu
lộ
sự
nóng
giận,
lúc
nào
cũng
là
một
tai
hại
cho
người
nghe
cũng
như
cho
người
nói,
trong
hiện
tại
cũng
như
trong
tương
lai. Vào
thời
Ðức
Phật
có
vài
vị
tỳ
khưu
thường
nặng
lời
lăng
mạ
một
vị
khác
và
vị
này
trả
lời
lại.
Ðức
Phật
khuyên: "Không
nên
dùng
lời
thô
lỗ
cộc
cằn.
Người
bị
nói
cộc
sẽ
trả
lời
thô.
Những
lời
gây
thù
trả
oán
thô
tục
thật
là
đau
đớn.
Lời
qua
tiếng
lại
sẽ
làm
tổn
thương
như
gây
thương
tích."
(Kinh
Pháp
Cú,
câu
133) Ngài
giảng
dạy
về
sự
lợi
ích
của
người
biết
giữ
im
lặng
trước
những
lời
lăng
mạ
của
kẻ
khác
như
sau,
"Nếu
giữ
được
im
lặng
như
cái
mõ
bể,
con
đã
đắc
quả
Niết
Bàn",
ý
nói
người
hành
đúng
như
vậy,
dầu
còn
tại
thế
cũng
được
xem
như
đã
đắc
Niết
Bàn. Tự
kềm
chế,
cố
tránh
và
kiêng
cữ
những
lời
thô
bạo
trong
cơn
nóng
giận
là
trau
giồi
hạnh
nhẫn
nhục,
cũng
là
một
Ba
La
Mật,
Khanti
Paramita,
Nhẫn
Nhục
Ba
La
Mật,.
Ðó
là
chịu
đựng
những
lời
khiển
trách
khắc
khe
và
khoan
hồng
bỏ
qua
những
sai
lầm
của
người
khác,
tôn
trọng
những
quan
điểm
dị
đồng
và
cảm
thông
những
thiếu
sót
của
người.
Tự
kiểm
soát
thân
tâm
là
cái
chìa
khóa
mở
cửa
đưa
vào
hạnh
phúc
và
để
cho
những
cảm
xúc
vô
độ
lượng,
vô
trật
tự,
đượm
nhuần
sân
hận,
điều
khiển
mình
là
tự
đạt
mình
vào
tình
trạng
nô
lệ
tệ
hại
nhất. Túc
Sanh
Truyện
số
269
có
thuật
chuyện
Bồ
Tát,
tiền
thân
của
Ðức
Thế
Tôn,
là
vua
xứ
Bernares
(Ba
La
Nại),
trong
một
kiếp
sống.
Ðức
Hoàng
Thái
Hậu,
mẹ
Ngài,
là
người
hiền
lương
nhưng
đôi
khi
ăn
nói
cộc
cằn.
Hôm
nọ
Vua
cùng
đi
chơi
với
Hoàng
Thái
Hậu
và
đoàn
tùy
tùng,
dạo
chơi
trong
ngự
uyển.Bên
đàng
có
con
chim
ác
là,
màu
sắc
xanh
tươi
lộng
lẩy,
nhưng
mỗi
khi
cất
tiếng
lên
thì
giọng
kêu
chác
chúa,
ai
nấy
cũng
bịt
tai,
ngoảnh
mặt
than
phiền.
Một
lúc
sau,
đến
nơi
khác
có
con
chim
chích
chòe,
lông
đen
xấu
xí
mà
tiếng
hát
lãnh
lót
thanh
tao
dịu
ngọt,
ai
cũng
thích
nghe,
ai
cũng
trông
cho
nó
hát
thêm
nữa
để
nghe.
Nhân
cơ
hội
Vua
mở
lời
khuyên
nhủ
mẹ: "Kính
Thưa
Mẫu
Hậu
thân
mến,
tiếng
kêu
của
con
chim
ác
là
thật
chác
chúa
khó
chịu,
ai
cũng
muốn
xa
lánh.
Thật
không
ai
thích
nghe
lời
thô
lỗ.
Chim
chích
chòe
trái
lại,
mặc
dầu
đen
đúa
xấu
xa
nhưng
đã
thu
hút
mọi
người
bằng
giọng
hát
thanh
nhã
dịu
hiền.
Như
vậy,
lời
nói
của
ta
phải
cẩn
ngôn,
êm
dịu,
hiền
lành,
đầy
ý
nghĩa
v.v..." Do
lời
khuyên
của
người
con
sáng
suốt
kể
từ
đó
về
sau
Hoàng
Thái
Hậu
giữ
gìn
lời
ăn
tiếng
nói
và
trở
nên
thanh
nhã
dịu
hiền. d.
Không
nói
nhảm
nhí
mà
chỉ
nói
lời
hữu
ích.
Pháp
học
này
được
Ðức
Phật
dạy
như
sau: "Người
(thọ
trì
phẩm
hạnh
này)
cố
tránh
và
kiêng
cữ
nói
lời
nhảm
nhí,
vô
ích.
Người
ấy
nói
đúng
lúc,
đúng
như
sự
việc
xảy
ra,
nói
những
lời
hữu
ích,
nói
về
Giáo
Pháp
và
Giới
Luật.
Lời
nói
của
người
ấy
là
một
kho
tàng,
thốt
ra
đúng
lúc,
hữu
ly,
hòa
nhã
và
đầy
ý
nghĩa."
(Tăng
Nhứt
A
Hàm,
Anguttara
Nikàya,
bài
số
176) Lời
nói
nhảm
ắt
vô
ý
nghĩa,
nông
cạn
và
không
mang
lại
lợi
ích
nào.
Những
lời
lẽ
như
thế
ấy
chỉ
khơi
động
vọng
tâm.
Ðức
Phật
khuyên
nên
hạn
chế
những
ngôn
từ
thuộc
loại
này.
Ðối
với
bậc
xuất
gia,
lời
nói
phải
thật
là
cẩn
ngôn,
phải
được
chọn
lọc
và
chỉ
nói
những
gì
thích
hợp
với
Giáo
Pháp.
Ngài
dạy: "Này
chư
Tỳ
Khưu,
khi
các
con
tụ
họp
đông
đảo
thì
chỉ
có
hai
việc
nên
làm:
hoặc
thảo
luận
về
Giáo
Pháp,
hoặc
im
lặng
cao
thượng."
(Trung
A
Hàm,
Majjhima
Nikàya,
bài
số
26) Thảo
luận
về
Giáo
Pháp
là
đề
cập
đến
bản
chất
thật
sự
của
vạn
hữu,
là
đề
cập
đến
Con
Ðường
dẫn
đến
chứng
ngộ
Chân
Lý
cùng
tột,
Niết
Bàn,
và
do
đó,
quả
thật
là
hữu
ích.
Ðàng
khác
trầm
lặng
là
một
hình
thức
nhàn
lạc
của
kiếp
sinh
tồn.
Lại
nữa,
khi
ẩn
rút
trong
im
lặng
chúng
ta
hoàn
toàn
đơn
độc
để
nhìn
vào
bên
trong
chúng
ta,
vào
bản
chất
thật
sự
của
chúng
ta,
để
tận
tường
thấy
rõ
mình
như
thật
sự
mình
là
vậy.
Chừng
đó
ta
có
thể
học
được
phương
cách
vượt
qua
những
khuyết
điểm
và
giới
hạn
của
cuộc
sống
bình
thường.
Hàng
cư
sĩ
tại
gia,
vì
nhu
cầu
xã
hội,
còn
phải
cần
nói
năng
lịch
thiệp
trong
câu
chuyện
giao
dịch
hằng
ngày.
Mặc
dầu
vậy,
Ðức
Phật
dạy
không
nên
lơ
đểnh
để
buông
trôi
quá
xa,
vì
người
chú
nguyện
đi
trên
con
đường
giải
thoát
phải
hết
sức
thận
trọng
phân
biệt
điều
nào
sẽ
dẫn
đi
đâu,
và
phải
luôn
luôn
chuyên
cần
canh
chừng
"anh
chàng
nói
láo"
sâu
ẩn
lẫn
trốn
bên
trong
chúng
ta
một
cách
rất
là
kín
đáo. Không
nên
nói
lời
nhảm
nhí
mà
luôn
luôn
có
lời
hữu
ích.
Vào
thời
Ðức
Phật
có
tên
sát
nhân
khát
máu
nọ
gia
nhập
vào
đảng
cướp,
gây
nhiều
tội
ác
và
về
sau
trở
thành
đao
phủ
thủ
của
triều
đình.
Nhờ
Ðức
Sàriputta
(Xá
Lợi
Phất)
cảm
hóa,
tánh
tình
anh
đổi
hẳn
từ
hung
tàn
bạo
ngược
trở
nên
hiền
lành
lương
thiện
và
sau
khi
chết
tái
sanh
vào
cảnh
Trời.
Ðức
Phật
giải
thích
rằng
sở
dĩ
anh
tái
sanh
tốt
đẹp
là
nhờ
lời
khuyên
hữu
hiệu
đượm
nhuần
từ
bi
của
bậc
đạo
đức
cao
thượng.
Ngài
dạy: "Chỉ
một
lời
nói
hữu
ích,
làm
cho
người
nghe
an
tĩnh,
còn
quý
hơn
cả
ngàn
tiếng
nói
vô
ích."
(Kinh
Pháp
Cú,
câu
100) Không
phải
nói
nhiều
mà
chứng
tỏ
rằng
mình
học
rộng
biết
nhiều.
Cũng
không
phải
nói
nhiều
mà
mình
tạo
lợi
ích
cho
mình
hoặc
cho
ai
khác.
Kinh
sách
Tây
Tạng
có
lời
dạy
rằng
nói
nhiều
lắm
khi
đưa
đến
hậy
quả
tai
hại,
như
trường
hợp
con
két,
vì
ham
nói
mà
phải
chịu
cảnh
chim
lồng. Chánh
nghiệp
là
tạo
nghiệp
chân
chánh,
tức
không
sát
sanh,
không
trộm
cắp
và
không
tà
dâm,
ba
điều
tu
tập
đầu
tiên
trong
ngũ
giới.
Giới
thứ
tư,
vọng
ngữ,
đã
đề
cập
đến
trong
phần
Chánh
Ngữ.
Phần
lớn
các
kinh
sách
không
đề
cập
đến
giới
thứ
năm
--
không
dùng
chất
say
--
trong
Chánh
Nghiệp.
Nên
hiểu
rằng
không
dễ
duôi
uống
rượu
và
dùng
các
chất
say
là
giữ
gìn
tâm
cho
được
luôn
luôn
sáng
suốt
để
luôn
luôn
quyết
định
chân
chính. a)
Không
Sát
Sanh:
là
không
có
ý
cắt
đứt,
ngăn
chặn,
tiêu
diệt
hay
làm
trở
ngại
sức
tiến
triển
của
năng
lực
một
đời
sống,
không
cho
nó
liên
tục
trôi
chảy,
là
không
làm
tổn
thương
cuộc
sống
của
bất
luận
sinh
vật
nào,
cũng
không
sai
biểu,
xúi
dục
hay
quyến
dụ
người
khác
làm
những
điều
này.
Trong
hình
thức
thô
sơ
nhất,
hành
động
sát
sanh
gồm
đủ
năm
yếu
tố
là:
Có
một
sinh
vật
đang
sống,
có
sự
hiểu
biết
rằng
sinh
vật
ấy
đang
sống,
có
ý
định
cắt
đứt
sự
sinh
sống
của
sinh
vật
ấy,
có
sự
cố
tâm
cố
gắng
làm
cho
con
vật
chết
và
chính
tác
động
sát
sanh. Ðức
Phật
dạy:
"Ai
cũng
run
sợ
trước
gậy
gộc.
Tất
cả
đều
qúy
trọng
đời
sống.
Hãy
lấy
bụng
ta
suy
lòng
người.
Không
nên
giết
cũng
không
nên
làm
cho
người
khác
giết."
(Kinh
Pháp
Cú,
câu
129). Một
ngày
nọ
khi
vào
thành
Savatthi
(Xá
Vệ)
để
trì
bình
Ðức
Phật
thấy
một
đám
trẻ
con
cầm
gậy
xúm
lại
đập
một
con
rắn
nước.
Ngài
dừng
chân
lại
hỏi: -
Này
các
con,
các
con
đang
làm
gì
đó? -
Bạch
Ngài
chúng
con
đập
con
rắn. -
Tại
sao
các
con
đập
nó? -
Bạch
Ngài,
vì
chúng
con
sợ
nó
cắn. Ðức
Phật
mở
lời
khuyên
rằng
trong
khi
làm
đau
đớn
con
rắn
các
con
hãy
nghĩ
đến
chính
các
con.
Hành
động
hung
bạo
này
sẽ
làm
tổn
thương
đến
hạnh
phúc
của
các
con
trong
tương
lai.
Người
nào
muốn
tìm
hạnh
phúc
cho
mình
chớ
nên
đánh
đập
kẻ
khác.
Và
Ngài
dạy: "Kẻ
nào
tìm
hạnh
phúc
cho
chính
mình
bằng
cách
hành
hạ
chúng
sanh
khác,
cũng
ưa
thích
an
lạc,
kẻ
ấy
sẽ
không
được
hạnh
phúc." Khi
giảng
về
Trì
Giới
Ba
La
Mật
(Sĩla
Paramita),
Ðại
Ðức
Nãrada
có
lời
khuyên
dạy
như
sau: "Mọi
người
đều
quý
trọng
đời
sống
của
mình.
Không
ai
có
quyền
cướp
sự
sống
của
kẻ
khác.
Bồ
Tát
rải
tâm
từ
đến
tất
cả
chúng
sanh,
cho
đến
những
con
vật
bé
nhỏ
đang
bò
dưới
chân
và
không
khi
nào
sát
hại
hoặc
làm
tổn
thương
một
sinh
vật
nào.
Con
người
vốn
sẵn
có
một
thú
tính
xúi
dục
giết
hại
những
chúng
sanh
khác
để
ăn
thịt
mà
không
chút
thương
hại.
Cũng
có
khi
sát
sanh,
như
săn
bắn
hay
đi
câu,
để
tiêu
khiển
thì
giờ.
Dầu
để
nuôi
sống
thân
mạng
hay
để
tìm
thú
vui,
không
có
lý
do
nào
chánh
đáng
để
giết
một
sinh
linh
hoặc
làm
một
cách
nào
khác
cho
một
sinh
linh
bị
giết.
Có
những
phương
pháp
tàn
nhẫn,
ghê
tởm,
cũng
có
những
phương
pháp
mà
ngươi
ta
gọi
là
"nhân
đạo"
để
sát
sanh.
Nhưng,
làm
đau
khổ
một
chúng
sanh
khác
là
thiếu
lòng
từ
ái. Giết
một
con
thú
đã
là
hành
động
bất
chánh,
nói
chi
đến
giết
một
người,
mặc
dầu
nhiều
lý
do
đã
được
viện
ra,
gọi
là
chánh
đáng,
có
khi
gọi
là
cao
qúy,
để
con
người
tàn
sát
con
người." Ðể
giải
thích
cho
một
thanh
niên
tên
Subha,
thắc
mắc
trước
trạng
huống
bất
đồng
giữa
loài
người
Ðức
Phật
dạy: "Nếu
người
kia
trọn
đời
chỉ
biết
sát
sanh,
nguời
thợ
săn
chẳng
hạn,
bàn
tay
luôn
luôn
đẫm
máu,
hàng
ngày
sống
trong
sự
giết
chóc
và
gây
thương
tích
không
chút
xót
thương.
Do
tính
hiếu
sát
ấy,
nếu
tái
sanh
trong
cảnh
người,
người
ấy
sẽ
yểu
mạng. "Nếu
người
kia
luôn
luôn
thận
trọng,
không
hề
xúc
phạm
đến
cuộc
sống
của
ai,
sống
xa
gươm
đao
giáo
mác
và
các
loại
vũ
khí,
lấy
lòng
từ
ái
đối
xử
với
tất
cả
chúng
sanh.
Do
sự
không
sát
sanh
ấy,
nếu
tái
sanh
trong
cảnh
người,
người
ấy
sẽ
trường
thọ. "Nếu
người
kia
độc
ác,
luôn
luôn
tìm
cách
hại
người,
luôn
luôn
dùng
đấm
đá
và
gươm
đao
đối
xử
với
mọi
người.
Do
nết
hung
dữ
bạo
tàn
ấy,
nếu
tái
sanh
trong
cảnh
người,
người
ấy
sẽ
ươn
hèn
yếu
bệnh
hoạn. "Nếu
người
kia
không
bao
giờ
làm
tổn
thương
ai.
Do
đức
tánh
hiền
lương
nhu
hòa
ấy,
nếu
tái
sanh
trong
cảnh
người,
người
ấy
sẽ
mạnh
khỏe...
"
(Kinh
Cũllakammavibhanga
Sutta
số
135
của
bộ
Trung
A
Hàm,
Majjhima
Nikãya). Quả
của
nghiệp
sát
sanh
nặng
hay
nhẹ
tùy
theo
tầm
quan
trọng
của
chúng
sanh
bị
giết
vì
sự
cố
gắng
để
thực
hiện
hành
động
sát
sanh
và
tai
hại
gây
ra
khác
nhau.
Sát
hại
một
người
thánh
thiện
là
gâsy
nhiều
tai
họa
hơn
là
giết
một
tương
cướp. b.
Không
trộm
cắp:
là
không
có
ý
lấy
hoặc
xúi
dục
người
khác
lấy
một
vật
có
chủ
mà
không
được
cho
đến
mình.
"Lấy
một
vật
không
được
cho
đến
mình"
có
thể
bao
gồm
nhiều
hình
thức
như
trộm
cắp,
tức
lén
lút
lấy
của
người
như
móc
túi,
khoét
vách
đào
ngạch
vào
nhà
lấy
trộm
v.v...
;
như
cướp
gịưt
tức
công
khai
lấy
của
người
bằng
võ
lực
hoặc
bằng
cách
hăm
dọa,
lẹ
làng
gịưt
lấy
món
đồ
rồi
bỏ
chạy,
làm
cho
người
ta
không
kịp
trở
tay;
như
gian
lận,
tức
giả
dối,
tráo
trở
dành
quyền
sở
hữu
của
một
người
khác;
như
lường
gạt,
buôn
bán
của
ít
nói
nhiều,
giá
thấp
nói
cao
hay
đo,
lường,
cân
thiếu,
của
hư
xấu
nói
tốt,
v.v...
Tất
cả
những
hình
thức
trên
đều
tạo
nghiệp
trộm
cắp. Một
khi
nhân
đã
gieo
rồi
thì
qủa
đương
nhiên
ắt
phải
trổ,
sớm
hay
chầy,
nơi
này
hay
nơi
khác.
Theo
đúng
giáo
huấn
của
Ðức
Bổn
Sư,
không
thể
van
lơn
cầu
cạnh
hay
hối
lộ
hoặc
gian
lận
bằng
cách
nào
mà
ta
có
thể
đổi
được
định
luật
nhân
qủa,
cũng
không
thể
lẩn
trốn
nơi
nào,
dầu
trên
trời
lồng
lộng
mênh
mông,
giữa
đại
dương
sâu
thẳm
hoặc
ở
thâm
sơn
cùng
cốc
mà
ta
có
thể
tránh
khỏi
hậu
quả
của
nghiệp
bất
thiện
đã
tạo.
Không
có
vị
Trời
nào,
chí
đến
Ðức
Phật
đi
nữa,
có
thể
can
thiệp
vào
sự
báo
ứng
của
nghiệp.
Qủa
của
nghiệp
trộm
cắp
là
nghèo
nàn,
khốn
khổ,
bị
thất
vọng
và
làm
thân
nô
bộc. Năm
chi
tạo
nghiệp
trộm
cắp
là:
Có
một
vật
sở
hữu
của
người
khác,
mình
biết
như
vậy,
mà
có
ý
định
đoạt
vật
ấy
làm
sở
hữu
của
mình,
rồi
cố
gắng
đoạt
lấy. Người
thực
hành
Chánh
Nghiệp
lánh
xa
mọi
hình
thức
trộm
cắp,
dầu
là
sự
trộm
cắp
hiển
nhiên,
lộ
liễu
hay
vi
tế,
kín
đáo,
ẩn
núp
dưới
một
lớp
gì
khác,
trái
lại,
luôn
luôn
cố
gắng
phát
triển
những
đức
hạnh
thanh
bạch,
liêm
khiết,
chân
thật
và
chánh
trực. c.
Không
tà
dâm:
tức
là
giữ
gìn
đời
sống
gia
đình
cho
được
trong
sạch,
không
lang
chạ
phóng
túng,
là
pháp
tu
học
thứ
ba
trong
Chánh
Nghiệp. Về
phương
diện
luân
lý
giới
này
nhằm
bảo
vệ
hạnh
phúc
gia
đình,
không
để
cho
người
ngoài
xâm
phạm
vào
tình
trạng
an
lạc
trong
nhà,
tạo
sự
tín
cẩn
lẫn
nhau
và
xiết
chặt
tình
nghiã
giữa
vợ
và
chồng.
Về
mặt
đạo
đức,
giới
này
giúp
làm
giảm
thiểu
năng
lực
tự
nhiên
có
chiều
hướng
lan
rộng
của
dục
vọng
và
đằng
khác
tăng
trưởng
hạnh
từ
khước
buông
bỏ
và
tự
chế
của
lối
sống
thanh
cao. Lẽ
dĩ
nhiên
đời
sống
độc
thân
của
các
vị
tu
sĩ
chân
chánh
là
hình
thức
trong
sạch
đáng
qúy
trọng
nhất,
vì
các
Ngài
có
thể
tận
dụng
tất
cả
năng
lực
và
thì
giờ
của
mình
để
phục
vụ
kẻ
khác.
Tuy
nhiên,
Ðức
Phật
là
vị
giáo
chủ
thực
tế,
Ngài
không
bao
giờ
trông
chờ
hàng
tín
đồ
tại
gia
cư
sĩ
sống
cuộc
sống
của
các
bậc
xuất
gia.
Hiểu
biết
bản
năng
và
những
kích
thích
của
đời
sống,
khát
vọng
và
những
thúc
giục
của
con
người
Ðức
Bổn
Sư
không
ép
buộc
người
Phật
Tử
cư
sĩ
sống
tuyệt
đối
độc
thân
như
các
vị
Tỳ
Khưu.
Nhưng
Ngài
khuyên
chúng
ta
nên
thận
trọng,
đừng
để
sai
lầm
làm
nô
lệ
cho
thể
xác
và
do
đó,
làm
giảm
suy
phẩm
giá
con
người. Quả
của
nghiệp
Tà
dâm
là
có
nhiều
kẻ
thù
và
đời
sống
gia
đình,
giữa
vợ
và
chồng,
không
có
hạnh
phúc. Chánh
Mạng
là
hành
nghề
chân
chánh
để
nuôi
mạng.
Kinh
sách
thường
đề
cập
đến
năm
nghề
không
nên
làm
là:
Buôn
bán
khí
giới,
nuôi
hay
bán
thú
để
làm
thịt,
buôn
bán
người
để
làm
nô
lệ,
buôn
bán
độc
dược,
buôn
bán
rượu
và
các
chất
say.
Tinh
thần
của
năm
điều
kiêng
cữ
này
là
không
nên
nuôi
mạng
sống
bằng
những
nghề
mà,
trong
khi
hành
,
ta
trực
tiếp
hay
gián
tiếp
tạo
nghiệp
bất
thiện. Trong
bài
thuyết
minh
về
Tứ
Diệu
Ðế,
đạo
hữu
V.F.
Gunaratna
viết: "...Cuộc
chiến
đấu
để
sống
và
những
nhu
cầu
khẩn
thiết
được
tạo
nên
để
bảo
tồn
đời
sống
cá
nhân
và
nuôi
sống
gia
đình
bắt
buộc
con
người
phải
xem
công
cuộc
làm
ăn
sinh
sống
là
một
vấn
đề
trọng
đại
và
do
đó,
có
một
thúc
dục
cấp
bách
đẩy
con
người
đi
dài
theo
kiếp
sống
để
thành
tựu
điều
này. "Xét
rằng
những
gì
công
bằng
và
lịch
sự
đều
bị
vứt
bỏ,
biến
tan
theo
chiều
gió,
và
xét
rằng
những
hậu
qủa
tai
hại
sẩy
đến
cho
kẻ
khác
sẽ
bị
lãng
quên,
không
ai
để
ý
đến,
con
người
có
thể
bị
quyến
rũ
đi
vào
con
đường
bất
chánh.
Ðó
là
điều
mà
chúng
ta
phải
thận
trọng
giữ
mình,
đừng
để
bị
rơi
vào
những
quyến
rũ
tương
tợ.
Bằng
mọi
giá
chúng
ta
phải
giữ
cho
Chánh
Mạng
của
mình
được
trong
sạch.
Yếu
tố
Chánh
Mạng
dẫn
đến
giới
đức
trong
sạch,
người
hành
nghề
theo
đúng
Chánh
Mạng
mới
có
thể
trang
nghiêm
trì
giới,
bằng
cách
tránh
xa
sự
buôn
bán
khí
giới,
bán
thú
để
làm
thịt,
bán
người
làm
nô
lệ,
bán
rượu,
bán
độc
dược. "Thông
thường
ta
nghĩ
rằng
phải
tránh
chỉ
có
bấy
nhiêu
nghề
đó
để
giữ
cho
Chánh
Mạng
được
trong
sạch.
Không
phải
chỉ
có
vậy.
Trong
bộ
Trung
A
Hàm,
Majjhima
Nikãya,
có
đoạn
ghi
rằng
hành
những
nghề
có
"sự
lường
gạt,
nịnh
bợ,
mờ
ám,
chia
rẽ,
cố
ăn"
đều
được
sxem
là
không
Chánh
Mạng.
Một
cách
tổng
quát
,
như
đã
ghi
trong
Trường
A
Hàm
Dĩgha
Nikãya,
Chánh
Mạng
được
xem
là
tránh
xa
những
lối
sống
bất
chánh
và
sống
đời
chân
chánh." Các
vị
Tỳ
khưu
sống
không
nhà
cửa,
không
gia
đình,
và
tất
cả
tài
sản
chỉ
bao
gồm
có
bộ
y
và
bình
bát.
Các
Ngài
không
phải
buôn
bán
hay
làm
lụng
để
sinh
sống
như
người
tại
gia
cư
sĩ
nhưng
cũng
có
giới
Chánh
Mạng.
Ngài
Ðại
Ðức
Ledi
Sayadaw
phân
làm
bốn
loại
Chánh
Mạng
cho
các
vị
tu
sĩ
là: 1.
Tránh
xa
sự
nuôi
mạng
bằng
những
phẩm
hạnh
sai
lạc
như
phạm
một
trong
ba
thân
bất
thiện
nghiệp
và
bốn
khẩu
bất
thiện
nghiệp. 2.
Tránh
xa
sự
nuôi
mạng
bằng
những
phương
tiện
bất
chánh,
đối
với
nhà
sư
như
nịnh
bợ,
đưa
thơ
từ
qua
lại
v..v... 3.
Tránh
xa
sự
nuôi
mạng
bằng
cách
gạt
gẫm
người
khác
như
dụ
dỗ
người
theo
mình
tu
học
để
được
phép
thần
thông
hay
khoe
mình
đã
đắc
Thánh
Qủa,
hay
nói
cho
người
ta
bực
mình
phải
cho
ra
một
vật
gì
để
mình
đi
cho
rồi,
hoặc
nữa,
bỏ
ra
một
món
quà
nhỏ
để
câu
lấy
một
món
qúy
giá
hơn... 4.
Tránh
xa
sự
nuôi
mạng
bằng
những
kiến
thức
trần
tục
như
coi
tướng
số,
bói
quẻ... Tóm
lại,
Chánh
Mạng
tạo
điều
hòa
trong
đời
sống
xã
hội
và
đem
lại
an
lành
hạnh
phúc
cho
từng
cá
nhân.
Nếu
người
sống
tà
mạng
hàng
ngày
gạt
gẫm,
giết
chóc,
hoặc
say
sưa,
trộm
cắp
và
do
đó
gây
xáo
trộn
cho
toàn
thể
cộng
đồng
thì
người
có
Chánh
Mạng
đem
lại
tình
trạng
an
toàn,
hòa
hợp
cho
tất
cả
mọi
người. Ba
chi
Chánh
Ngữ,
Chánh
Nghiệp,
Chánh
Mạng
hợp
thành
phân
hạng
giới,
hay
phần
luân
lý
trong
Bát
Chánh
Ðạo.
Giới
là
những
quy
tắc
đạo
đức
có
tác
dụng
như
tấm
bảng
màu
đỏ
dựng
bên
lrề
đường
để
cảnh
cáo
hiểm
họa
sa
đọa,
những
gì
không
nên
làm,
những
điều
nên
tránh
(varitta).
Ðằng
khác
Giới
cũng
là
nếp
sống
kỷ
cương
được
xem
như
những
tảng
đá
vững
chắc
cẩn
trên
con
đường
đưa
đến
an
tĩnh
hoàn
toàn,
hạnh
phúc
tuyệt
đối,
những
gì
nên
làm
(caritta). Giới
được
ban
hành
nhằm
tạo
thân
và
khẩu
nghiệp
trong
sạch,
nhưng
chính
phẩm
hạnh
tuyệt
hảo
tự
nó
chỉ
là
phương
tiện.
Mục
tiêu
tối
hậu
của
Giới
-
hiểu
theo
Bát
Chánh
Ðạo
-
là
thoát
ra
khỏi
mọi
hình
thức
khổ
đau
của
đời
sống
và
vượt
đến
hạnh
phúc
trường
cửu,
Niết
Bàn.
1993/2536
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
Nguồn: www.quangduc.com