Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Phần
I
Đức
Phật
Namo
tassa Bhagavato Arahato Samma-Sambuddhassa
Con
xin thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn,
Ngài là bậc Úng Cúng, Đấng Chánh Biến Tri
-oOo-
[01]
"Một Chúng Sanh
duy nhất, một Con Người phi thường, xuất hiện trong thế
gian này, vì lợi ích cho phần đông, vì hạnh phúc của phần
đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và
hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại." -- Tăng Nhứt A Hàm
[1]
Đản Sanh
Nhằm
ngày trăng tròn tháng năm [2], năm 623 [3] trước D.L., trong vườn
Lumbini [4] (Lâm Tỳ Ni) tại Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) [5] bên
ranh giới Ấn Độ của xứ Nepal ngày nay, có hạ sanh một hoàng
tử mà về sau trở thành vị giáo chủ vĩ đại nhất trên
thế gian.
Cha hoàng tử là Đức Vua Suddhodana
[6] (Tịnh Phạn) thuộc quý tộc Sakya (Thích Ca) [7] và mẹ là
Hoàng Hậu Maha Maya (Ma Da). Sau khi hạ sanh hoàng tử được
bảy ngày thì hoàng hậu thăng hà. Em bà là Maha Pajapati Gotami,
cũng cùng kết duyên với Vua Tịnh Phạn, thay thế bà để dưỡng
dục hoàng tử và gởi con là Nanda cho một bà vú nuôi chăm sóc.
Khi tin lành hoàng tử chào đời được
loan truyền trong dân gian, tất cả thần dân trong vương quốc
đều vui mừng không xiết kể.
Thuở ấy có một đạo sĩ tên Asita
(A Tư Đà), cũng được gọi là Kaladevala đặc biệt hoan hỷ.
Ông là một người thân tín của nhà vua nên xin được vào
thăm hoàng tử. Đức Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho
bồng hoàng tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Nhưng, trước sự kinh
ngạc của mọi người, hoàng tử bỗng nhiên quay về phía đạo
sĩ và đặt hai chân lên đầu tóc của ông.
Đang ngồi trên ghế, vị đạo sĩ
vội vã chỗi dậy, chắp tay xá chào hoàng tử [8]. Ông tiên
tri rằng về sau hoàng tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quý
nhất của nhân loại. Đức vua cũng làm theo đạo sĩ, xá chào
hoàng tử.
Xong rồi đạo si thoạt tiên cười
khan, cười rồi lại khóc. Mọi người đều ngạc nhiên trước
những cảm xúc vui buồn lẫn lộn của ông. Vị đạo sĩ
giải thích rằng ông cười vì lấy làm hoan hỷ được biết
rằng về sau hoàng tử sẽ đắc Quả Phật, và ông khóc vì
biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ chết và tái sanh vào
cảnh giới Vô Sắc (Arupa-loka) [9]. Do đó ông sẽ không được
phước lành thọ giáo với bậc trí tuệ cao minh, Chánh Đẳng
Chánh Giác.
Lễ Quáng Đính (đặt tên)
Khi hoàng tử được năm ngày, Đức
Vua Tịnh Phạn đặt tên là Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) có nghĩa là
người được toại nguyện. Gotama (Cồ Đàm) là họ Ngài
[10]. Theo phong tục thời bấy giờ, vua cho thỉnh nhiều vị đạo
sĩ Bà La Môn học rộng tài cao vào triều nội để dự lễ
đặt tên cho hoàng tử. Trong các đạo sĩ, có tám vị đặc
biệt lỗi lạc. Sau khi quan sát đặc tướng của hoàng tử,
bảy vị đưa lên hai ngón tay và giải thích rằng có hai lẽ.
Một, là hoàng tử sẽ trở nên vị hoàng đế vĩ đại nhất
thế gian. Hai, là Ngài sẽ đắc Quả Phật. Nhưng vị đạo sĩ
trẻ tuổi và thông minh nhất trong tám vị, tên Kondanna [11] (Kiều
Trần Như), chỉ đưa lên một ngón quả quyết rằng ngày kia
hoàng tử sẽ hoàn toàn thoát tục và đắc Đạo Quả Phật.
Lễ Hạ Điền
Một sự kiện lạ lùng đã xảy ra
trong thời thơ ấu của Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta). Sự
kiện ấy là một kinh nghiệm tinh thần sẽ giúp hoàng tử
thật nhiều sau này, khi Ngài quyết tâm tìm chân lý. Sự
kiện ấy cũng là cái chìa khoá mở đường cho Ngài tiến đến
Giác Ngộ [12].
Lúc bấy giờ, để khuyến khích nông
dân, Vua Tịnh Phạn ra lệnh tổ chức một cuộc lễ gọi là
Hạ Điền. Đây quả thật là một cơ hội cho tất cả, giàu
như nghèo, sang như hèn, ăn mặc tốt đẹp để vui chơi hỷ
hạ một bữa, trước khi bắt tay vào công việc ruộng nương
đồng áng. Sáng ngày, đức vua cùng quần thần, áo mặc
chỉnh tề, ra tận nơi hành lễ. Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt
Ta) cũng được cung phi mỹ nữ đặt trong một cái kiệu, màn
che sáo phủ, khiêng ra để dưới bóng mát một cội trâm. Hôm
ấy đức vua chủ tọa một buổi lễ. Thấy mọi người vui
vẻ theo dõi cuộc vui, các cung phi có phận sự trông nom hoàng
tử cũng lén chạy đi xem. Trái hẳn với cảnh nhộn nhịp tưng
bừng của buổi lễ, tàng bóng mát mẻ dưới cội trâm và
khung cảnh êm đềm như mời mọc tĩnh lặng quán niệm. Hoàng
tử tuổi tuy còn nhỏ nhưng tâm trí đã thuần thục.
Khác với những người chỉ biết tìm
thích thú trong cuộc lễ, hoàng tử nối tréo hai chân lại
theo lối kiết già, trầm ngâm lặng lẽ, chăm chú vào hơi
thở-vào, thở-ra, gom tâm an trụ, định, và đắc Sơ Thiền
[13].
Giữa lúc mọi người vui vẻ thưởng
thức, các cung phi bỗng sực nhớ lại hoàng tử, vội vã
trở về với phận sự. Khi thấy hoàng tử ngồi trầm ngâm hành
thiền thì họ lấy làm ngạc nhiên, đến tâu lại tự sự
cho vua. Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) hối hả đến nơi,
thấy Hoàng Tử Siddhattha vẫn ngồi tham thiền. Đức vua đến
trước mặt hoàng tử, xá chào con và nói: "Hỡi này con yêu
quý, đây là lần thứ nhì, phụ vương đảnh lễ con".
Giáo Dục
Mặc dầu kinh sách không chép rõ, Hoàng
Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) chắc chắn đã hấp thụ một nền
giáo dục vững chắc vì Ngài là hoàng tử của một quốc gia
giàu mạnh. Ngài cũng thuộc dòng chiến sĩ nên chắc chắn
phải lão thông binh pháp và võ nghệ cao cường.
Kết Hôn
Khi lên mười sáu, theo phong tục
thời bấy giờ, hoàng tử kết duyên cùng Công Chúa Yasodhara (Da
Du Đà la) [14], một người em cô cậu, cũng cùng tuổi với Ngài.
Trong mười ba năm sau ngày hôn lễ, Ngài sống hoàn toàn cuộc
đời vương giả, không hay biết chi đến nỗi thống khổ
của nhân loại bên ngoài ngưỡng cửa cung điện.
Về cuộc đời nhung lụa ấy, khi còn
là hoàng tử, đã có lần Ngài nói:
"Đời sống của ta thật là tế
nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có
đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây
thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên
cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai.
Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng
từ xứ Kasi đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng may toàn
bằng hàng lụa bậc nhất từ Kasi [15] chở đến.
Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước
chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương đỡ nắng.
Phụ hoàng cũng kiến tạo riêng cho
ta ba tòa cung điện. Một, để cho ta ở mùa lạnh, một, mùa
nóng và một, mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa ta lưu ngụ
tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những
cung tần phi nữ. Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng
được ăn sung mặc sướng chớ không phải như ở các nhà khác,
gia đình chỉ được ăn cơm xấu và thức ăn cũ. [16]"
Thời gian trôi qua, Thái Tử Siddhattha
(Sĩ Đạt Ta) càng trưởng thành, ánh sáng chân lý càng rọi rõ
sự vật cho Ngài.
Bẩm tánh trầm tư mặc tưởng và lòng
từ bi vô lượng vô biên của Ngài không để yên cho Ngài
một mình an hưởng những lạc thú tạm bợ của đời vương
giả. Riêng mình được yên vui hạnh phúc, nhưng Ngài hằng
nghĩ đến thực chất của đời sống và biết rằng nhân
loại đang đau khổ bên ngoài cung điện, nên Ngài luôn luôn
thương xót.
Sống trong nhung lụa mà Ngài nhận định
được rằng đời là đau khổ.
Xuất Gia
Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) suy
niệm như sau:
"Chính ta phải chịu cảnh sanh,
già, bệnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại sao vẫn còn
mải mê chạy theo tìm những điều mà bản chất cũng còn như
vậy. Vì chịu sanh, lão, bệnh, tử, phiền não và ô nhiễm,
ta đã nhận thức sự bất lợi của những điều ấy. Hay ta
thử tìm cái chưa được thành đạt, trạng thái tối thượng
và tuyệt đối châu toàn: Niết Bàn! [17]"
"Cuộc sống tại gia rất tù túng
chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược, nhưng
đời của bậc xuất gia là cảnh trời mênh mông bát ngát! Người
đã quen với nếp sống gia đình ắt thấy khó mà chịu đựng
Đời Sống Đạo Hạnh Thiêng Liêng, với tất cả sự hoàn
hảo và trong sạch của nó. [18]"
Một ngày vẻ vang kia, thái tử ra
khỏi hoàng cung để nhìn xem thế gian bên ngoài và trực
tiếp tiếp xúc với sự thật phũ phàng của đời sống.
Trong phạm vi nhỏ hẹp của cung điện, Ngài chỉ thấy phần
tươi đẹp, nhưng đám đông nhân loại thì biết bề đen
tối, đáng ghê sợ của đời. Chính cặp mắt quan sát của
thái tử đã nhận thấy một cụ già chân mỏi gối dùn,
một người bệnh hoạn đau khổ, một thây ma hôi thúi và
một đạo sĩ nghiêm trang khả kính [19]. Ba cảnh già, bệnh và
chết, hùng hồn xác nhận quan điểm của thái tử về đời
sống đau khổ của nhân loại. Hình ảnh thong dong từ tốn
của nhà tu sĩ thoáng cho Ngài hé thấy con đường giải thoát,
con đường an vui hạnh phúc thật sự. bốn quang cảnh bất
ngờ ấy càng thúc giục thái tử ghê tởm và sớm thoát ly
thế tục.
Nhận định rõ ràng rằng những thú
vui vật chất mà phần đông tranh nhau tìm kiếm đều không
thể đem lại lợi ích, chỉ có sự xuất gia, sự từ bỏ
tất cả mùi danh bã lợi của trần gian này mới thật là chân
giá trị, Thái Tử Siddhattha nhất định rời bỏ cung điện
đền đài để ra đi, tìm chân lý và An Dưỡng Trường Cửu.
Giữa lúc ấy thì có tin đưa đến
rằng Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La), vợ Ngài, vừa hạ sanh
hoàng nam.
Đối với thế gian, đó là một tin
lành. Nhưng, trái hẳn với mọi dự đoán, Ngài không quá đỗi
vui mừng vì thấy đó là thêm trở ngại. Thế thường, khi
sanh được người con đầuloq, cha mẹ cảm nghe trong lòng
chớm nở lần đầu tiên một tình thương mặn nồng sâu
sắc, một tình thương mới mẻ đậm đà, vô cùng trong sạch.
Nỗi vui mừng của người làm cha đầu tiên thật không sao
tả được. Nhưng Thái Tử Siddhattha không phải là một người
cha thường, Ngài than: "Lại thêm một trở ngại, lại thêm
một dây trói buộc". Do đó, Đức Vua Suddhodana (Tịnh
Phạn) đặt tên cháu nội là Rahula (La Hầu La) [20].
Đời vương giả không còn thích
hợp với vị Phật tương lai nữa. Đối với một tâm hồn
trầm tư mặc tưởng như Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), cung
điện nguy nga không còn là nơi thích đáng. Cả đến người
vợ trẻ đẹp và người con sơ sinh dễ mến cũng không làm
sờn ý chí quyết định từ bỏ thế gian. Ngài ra đi với
nguyện vọng góp một phần vô cùng quan trọng và hữu ích hơn
là phận sự của một người chồng, người cha, hay chí đến
nhiệm vụ làm chúa tể các vì vua đi nữa. Cung vàngđiện
ngọc không còn sức quyến rũ. Ngài không tìm thấy thích thú
trong đời sống vương giả. Giờ ra đi đã điểm.
Ngài truyền lệnh cho Channa (Xa Nặc),
người đánh xe yêu chuộng, thắng yên ngựa Kanthaka (Kiền
Trắc) và thẳng đến điện của công chúa. Ngài khẽ hé
cửa nhìn vợ và con đang yên giấc với một tấm lòng từ ái
nhưng bình thản, không chao động, không trìu mến. Tình thương
đối với vợ, con thật mặn nồng sâu sắc. Nhưng đối với
nhân loại trầm luân đau khổ, lòng trắc ẩn của Ngài lại
càng thâm thậm vô ngần. Ra đi, Ngài không lo sợ cho tương
lai của công chúa và hoàng tử, vì biết chắc chắn rằng
vợ và con sẽ có đầy đủ tiện nghi và đảm bảo để
sống an toàn và sung sướng. Ra đi, không phải vì kém tình thương
vợ, thương con, mà vì tình thương của Ngài mở rộng cho
mọi người, bao trùm tất cả nhân loại và chúng sanh.
Với một tâm hồn thanh thoát, Thái
Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) ra đi giữa đêm khuya, để lại sau
lưng tất cả đền đài cung điện, người cha yêu quý, vợ
đẹp, con thơ, và cả một tương lai huy hoàng rực rỡ. Ngài
trốn ra khỏi thành và giục ngựa thẳng xông trong đêm tối.
Cùng đi với Ngài chỉ có Channa (Xa Nặc), người đánh xe
trung thành. Không tiền của, không cửa nhà, nay đây mai đó,
Ngài bắt đầu lần bước trên đường đi tìm Chân Lý và An
Tĩnh. Thế là Ngài từ bỏ thế gian.
Đây không phải là sự từ bỏ của
một cụ già đã trải qua hầu hết cuộc đời của mình, hay
của người bần cùng nghèo đói không còn gì để bỏ lại
phía sau, nhưng là sự khước từ của một hoàng tử vinh
quang giữa thời niên thiếu, trong cảnh ấm no, sung túc và
thạnh vượng. Một sự thoát ly chưa từng có trong lịch sử.
Lúc ấy thái tử Siddhattha (Sĩ Đạt
Ta) được 29 tuổi.
Đến sáng hôm sau Ngài đi đã xa. Sau
khi Ngài vượt qua sông Anoma, Ngài dừng bước trên bãi cát,
tự cạo râu tóc và trao xiêm y lại cho Channa (Xa Nặc) đem
về. Rồi khoác lên mình tấm y vàng, Hoàng tử Siddhattha (Sĩ
Đạt Ta) tự nguyện sống đời tu sĩ và sẵn sàng chấp
nhận mọi thiếu thốn vật chất.
Từ một hoàng tử giàu sang vinh
hiển tột bậc, Ngài trở thành đạo sĩ nghèo nàn, không
tiền của, không cửa nhà, sống nhờ lòng từ thiện của bá
tánh thập phương.
Ngài không ở nơi nào thường trực.
Một cây cao bóng mát, hoặc một hang đá vắng vẻ hoang vu nào
cũng có thể che mưa đỡ nắng cho Ngài. Chân không giày dép,
đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và trong
sương gió lạnh lùng. Tâ;t cả xiêm y từ tốn chỉ là những
mảnh vải vụn vằn ráp lại, vừa đủ để che thân. Tất
cả tài sản chỉ là một bình bát để trì bình khất thực.
Vật thực và bộ y chỉ vừa đủ để sống.
Ngài tận dụng thì giờ và năng
lực trong việc khám phá chân lý.
Tìm Chân Lý
Như người thênh thang bất định, Ngài
đi tìm cái chi tốt đẹp, trạng thái tuyệt đối vắng lặng.
Ngài đến vị đạo sĩ rất lỗi lạc, Alarama Kalama, và nói :
"Này hỡi Đạo Hữu, xin Đạo
Hữu cho tôi thọ giáo và sống đời đạo hạnh thiêng liêng
dưới sự hướng dẫn của Đạo Hữu."
Alarama Kalama trả lời: "Hãy ở
lại đây với tôi, hỡi người đáng kính, đường lối dạy
dỗ ở đây là giúp cho người thông minh sớm thấu triệt
tất cả giáo lý của vị đạo sư bằng trí tuệ trực giác,
và sống ẩn náu trong sự thành đạt ấy."
Không bao lâu sau, Đạo Sĩ Gotama (Cồ
Đàm) đã học hết giáo lý của thầy, nhưng không chứng
ngộ được chân lý cao thượng hằng mong mỏi.
Tư tưởng sau đây phát sanh đến Ngài
:
"Khi Alarama Kalama tuyên bố: 'Ta đã
chứng ngộ giáo lý ấy bằng trí tuệ trực giác. Ta đã
sống ẩn náu trong sự thành đạt ấy', thì ắt đó không
phải chỉ là một lời phát biểu suông của ông. Chắc chắn
Alarama Kalama đã thấu triệt, nhận chân giáo lý này và đã
sống trong ấy."
Rồi Ngài đến gặp Kalama và nói :
"Này Đạo Hữu Kalama, giáo lý mà
chính Đạo Hữu đã chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác sâu
rộng đến mức nào?"
Alarama liền giải thích rằng đó là
cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Akincannayatana) [21], cảnh
giới có quan niệm về hư không, một tầng Thiền (Jhana) khá
cao.
Và ý tưởng sau đây phát sanh đến
Ngài :
"Không phải chỉ có một mình
Alarama Kalama mới có hạnh tinh tấn, niệm, định và tuệ. Ta
cũng có những đức tánh ấy. Hay là ta hãy cố gắng chứng
ngộ giáo lý mà Kalama nói rằng chính ông ta đã chứng ngộ và
ẩn náu trong sự thành đạt ấy."
Và sau đó không bao lâu, chính Đạo
Sĩ Gotama (Cồ Đàm) cũng chứng ngộ và thành đạt trạng thái
ấy đó trí tuệ và trực giác.
Nhưng giáo lý này không giúp Ngài
thấu triệt chân lý tối thượng.
Và Ngài đến gần Alarama và nói :
- Này Đạo Hữu Kalama, có phải đây
là mức tận cùng của giáo lý mà Đạo Hữu nói rằng Đạo
Hữu đã chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác và sống ẩn náu
trong sự thành đạt ấy chăng?
- Đúng vậy, đây chính là giáo lý mà
tôi nói rằng tôi đã chứng ngộ và ẩn náu trong sự thành
đạt ấy. Đây là mức sâu rộng tận cùng của chân lý.
- Nhưng, hỡi Đạo Hữu, tôi cũng đã
chứng ngộ đến mức này và ẩn náu trong sự thành đạt
ấy.
Vị đạo sư không có lòng ganh tỵ,
lấy làm hoan hỉ thấy đệ tử lỗi lạc của mình thành công
mau chóng, đặt Đạo Sĩ Gotama lên ngang hàng với mình cùng
chung hưởng tất cả vinh dự, và nói:
"Hỡi này Đạo Hữu, tôi rất
lấy làm hoan hỷ. Thật vậy, tôi thật vô cùng hoan hỷ được
gặp một người đồng tu đáng kính như Đạo Hữu. Giáo lý
mà tôi đã chứng ngộ bằng tuệ giác và đã tuyên bố thành
đạt. Đạo Hữu cũng chứng ngộ bằng tuệ giác và ẩn náu
trong sự thành đạt ấy. Giáo lý mà Đạo Hữu chứng ngộ
bằng tuệ giác và ẩn náu trong sự thành đạt ấy, chính tôi
cũng đã chứng ngộ bằng tuệ giác và đã tuyên bố thành đạt.
Như vậy, giáo lý mà tôi đã biết, Đạo Hữu cũng biết. Và
giáo lý mà Đạo Hữu biết, tôi cũng đã biết. Tôi như thế
nào thì Đạo Hữu cũng như thế ấy. Vậy, hãy đến đây, Đạo
Hữu, chúng ta hãy cùng nhau hợp sức dẫn dắt nhóm đạo sĩ
này."
Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) không thỏa
mãn với một kỷ luật và giáo lý chỉ đưa đến tầng khá
cao của tâm định mà không dẫn đến "trạng thái ghê
tởm, buông xả (không luyến ái), chấm dứt (mọi đau khổ),
tình trạng tĩnh lặng, trực giác, giác ngộ và Niết Bàn".
Nguyện vọng của Ngài cũng không phải là dẫn dắt một nhóm
đạo sĩ, dầu là hợp sức với một đạo sư quảng đại
khoan hồng cũng đã thành đạt mức tiến bộ tinh thần như
Ngài. Trước tiên, tự Ngài chưa làm cho mình được toàn
thiện và cảm nghĩ rằng như vậy không khác nào người mù
dẫn dắt người mù. Chưa được toại nguyện, Ngài từ giã
Alarama Kalama ra đi.
Vào những ngày thanh bình an lạc
thuở bấy giờ, trong xứ không bị hoàn cảnh chánh trị làm
xáo trộn, hàng trí thức xứ Ấn Độ chỉ lo nghiên cứu
học hỏi và truyền bá hệ thống tôn giáo của mình. Xã
hội cung ứng mọi dễ dàng những nơi vắng vẻ ẩn dật cho
người có khuynh hướng trở về với đời sống đạo đức.
Phần lớn các vị này có một số đông đệ tử, và Đạo Sĩ
Gotama không gặp nhiều khó khăn trong việc tìm đạo sư.
Ngài đến thọ giáo với một vị đạo
sư trứ danh khác tên Uddaka Ramaputta. Không bao lâu, vị đệ
tử thông minh xuất chúng Gotama đã thấu triệt giáo lý của
thầy và chứng đắc đệ bát thiền Vô Sắc tức là tầng
cao nhất của thiền Vô Sắc Giới: cảnh giới Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng, không còn tri giác (sanna, tưởng), mà cũng không có
không-tri-giác (N'eva sanna N'asannayatana) [22],ấy là tầng thiền
cao nhất trong tam giới. Khi đắc được Thiền này, tâm trở
nên vô cùng tinh vi tế nhị đến nỗi không thể nói là có tâm
hay không. Vào thời bấy giờ không có ai đắc được thiền
nào cao hơn nữa.
Vị đạo sư cao thượng lấy làm
hoan hỷ được biết sự thành công rực rỡ của người đệ
tử hoàng phái đặc sắc của mình. nhưng không như vị đạo
sư trước, đạo sĩ Uddaka Ramaputta mời Ngài nhận lãnh trọn
vẹn trách nhiệm dạy dỗ hàng môn đệ:
"Hỡi này Đạo Hữu, tôi lấy làm
hoan hỷ. Thật vậy, tôi vô cùng hoan hỷ được gặp một người
bạn đồng tu tài đức đáng tôn kính như Đạo Hữu. Giáo lý
mà Rama đã hiểu biết, Đạo Hữu cũng hiểu. Giáo lý mà Đạo
Hữu hiểu, Rama cũng đã hiểu biết. Rama đã như thế nào thì
hôm nay Đạo Hữu cũng như thế ấy. Ngày nay Đạo Hữu như
thế nào thì Rama đã như thế ấy. Vậy, hỡi này Đạo Hữu,
hãy ở lại đây, Đạo Hữu sẽ dẫn dắt nhóm đạo sĩ này".
Tuy nhiên Đạo Sĩ Gotama cảm thấy
rằng đó cũng chưa phải là mục tiêu cứu cánh. Ngài đã hoàn
toàn chế ngự, làm chủ tâm mình, nhưng mục tiêu cuối cùng
vẫn còn ở mãi xa. Ngài đang tìm con đường Niết Bàn tức là
tuyệt đối siêu thoát ra khỏi vòng phiền não trầm luân và
tận diệt mọi hình thức ái dục. Không thỏa mãn với phương
pháp tu tập của Ramaputta, Ngài lại ra đi.
Ngài nhận thấy rằng không ai có đủ
khả năng để dẫn dắt mình thành tựu mục tiêu vì tất
cả đều chưa thoát ra khỏi vòng vô minh. Từ đó Ngài không
tìm sự giúp đỡ từ bên ngoài nữa.
Chân lý và sự vắng lặng chỉ tìm
được ở bên trong chúng ta.
Chú thích:
[1] Anguttara Nikaya, Tăng Nhứt A Hàm,
phần I, XIII, trang 22
[2] Trùng với tháng Vesakha (Pali), hay
Vaisakha (Sanskrit). Tiếng Sinhala là Vesak.
[3] Không giống như kỷ nguyên Thiên
Chúa, Phật Lịch khởi đầu ngày Đức Phật Nhập Đại
Niết Bàn (viên tịch), vào năm 543 trước Dương Lịch, chớ
không phải ngày Bồ Tát đản sanh.
[4] Một thạch trụ do Vua Asoka (A
Dục) dựng lên nơi đây vẫn còn.
[5] Địa điểm của Kapilavatthu được
nhận ra là Bhuila (Bhulya) trong quận Basti cách Bengal 3 cây số
và nằm vào hướng Tây Bắc nhà ga xe lửa Babuan.
[6] Xem bảng
gia phả.
[7] Gotama (Cồ Đàm) là họ, và Sakya
(Thích Ca) là tên chủng tộc của Đức Phật. Tục truyền
rằng do âm mưu bất chính của bà mẹ ghẻ, những người con
của Vua Okkaka Mahasammata bị lưu đày. Trong cuộc đi bất định
ấy, các hoàng tử đến chân núi Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn) và
tại đây, gặp nhà hiền triết Kapila. Do lời khuyên của vị
này, các hoàng tử sáng lập thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ),
có nghĩa là nơi chốn của Kapila. Khi nghe được công trình
của các con, Vua Okkaka thốt lên rằng: "Sakya vata bho
rajakumara" - Các hoàng tử cao quý này quả thật có khả năng.
Từ đó dòng dõi và vương quốc mà các hoàng tử sáng lập
lấy tên là Sakya (Thích Ca).
Vương quốc của dòng Thích Ca nằm vào
phía Nam xứ Nepal và mở rộng hơn xứ Oudh ngày nay nhiều. (Xem
E.J. Thomas, Life of Buddha, trang 6)
[8] Xem quyển Buddhims in Translation, tác
giả Waren, trang 49, Chú Giải Túc Sanh Truyện.
Người cháu của đạo sĩ Asita là
Nalaka, xuất gia theo lời khuyên của đạo sĩ, và khi hoàng
tử đắc Quả Phật, Nalaka đến nghe Ngài thuyết giảng và đắc
Quả A La Hán. (Xem Nalaka Sutta, Sutta Nipata, trang 131).
[9] Arupa-lokas là những cảnh giới Vô
Sắc mà người đắc những tầng Thiền Vô Sắc (Arupa Jhana)
sẽ tái sanh vào.
[10] Sanskrit là Siddharta Gautama.
[11] Về sau, khi nghe tin Thái Tử
Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) thoát ly thế tục, chính vị đạo sĩ
Kondanna (Kiều Trần Như) này cũng ra đi, cùng với bốn người
con của những vị trong bảy vị Bà La Môn khác, theo thọ giáo
với Đạo Sĩ Gotama. Xem Chương 6.
[12] Xem Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, Maha
Saccaka Sutta, số 36.
[13] Sơ Thiền, tầng Thiền (Jhana)
thứ nhất, là một trạng thái tâm phát triển khá cao, nhờ
an trụ vững chắc.
[14] Công Chúa Yasodhara cũng được
gọi là Bhaddakaccana, Bimba Rahulamata.
[15] Kasi là một tỉnh ở miền Trung
Ấn Độ nổi tiếng có nhiều loại hàng lụa tốt. Tỉnh lỵ
của Kasi là Benares ngày nay.
[16] Anguttara Nikaya (Tăng Nhứt A Hàm),
phần 1, trang 145. Gradual Sayings, phần 1, trang 128.
[17] Majjhima Nikaya (Trung A Hàm), Phần
1, Ariyapariyesana Sutta, số 26, trang 163.
[18] Majjhima Nikaya (Trung A Hàm), Phần
1, Mahasaccaka Sutta, số 36.
[19] "Thấy bốn cảnh tượng, ta
lên ngựa ra đi..." Buddhavamsa, XXVI, trang 65.
[20] Rahula, có nghĩa bị buộc hay bị
cột (La) bởi một sợi dây (Rahu).
[21] Tầng Thiền Vô Sắc (Arupa Jhana)
thứ ba.
[22] Tầng Thiền Vô Sắc (Arupa Jhana)
thứ tư.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com