(Bát Chánh Ðạo)
Phạm Kim Khánh
Bát
Chánh
Ðạo
không
phải
là
tám
con
đường
chánh,
cũng
không
phải
là
con
đường
chia
làm
tám
giai
đoạn
nối
tiếp
nhau
từ
xa
đưa
đến
gần
mục
tiêu,
mà
giống
như
một
sợi
thừng
do
tám
tao
nhợ
se
lại.
Người
muốn
nương
nhờ
dây
thừng
để
leo
lên
cao,
mỗi
lần
chỉ
nắm
chặt
lấy
một
số
tao
nhợ.
Khi
bỏ
tay
kia
lên
lại
nắm
vào
một
số
tao
nhợ
khác,
cao
hơn.
Hành
giả
mỗi
lần
chỉ
thực
hành
một
số
chi.
Hiểu
theo
nghĩa
cùng
tột,
mỗi
chi
của
Bát
Chánh
Ðạo
là
một
tâm
sở.
Một
loại
tâm
vương
tại
thế
chỉ
bao
gồm
một
số
nhiều
hay
ít
các
tâm
sở
này.
Chỉ
đến
khi
chứng
ngộ
Thánh
quả
thì
toàn
thể
tám
tâm
sở
đồng
phát
sanh
cùng
một
lúc
trong
loại
tâm
siêu
thế. Ðứng
về
phương
diện
thực
hành,
tức
xem
như
một
phương
pháp
tu
tập,
Bát
Chánh
Ðạo
có
thể
phân
làm
ba
là: 1.
Ba
chi
Chánh
Ngữ,
Chánh
Nghiệp
và
Chánh
Mạng
đề
cập
đến
những
lời
không
nên
nói,
những
việc
không
nên
làm
và
những
nghề
không
nên
hành.
Ðó
là
giới
luật,
nêu
lên
nhưng
sai
lầm
nên
tránh.
Nên
hiểu
rằng
đây
chỉ
là
khía
cạnh
tiêu
cực,
những
gì
không
nên
làm.
Tuy
nhiên,
giới
luật
trong
Phật
Giáo
cũng
bao
hàm
phần
tích
cực.
Thí
dụ
như
không
nên
nói
dối,
nói
đâm
thọc,
nói
thô,
nói
nhảm
cũng
hàm
ý
nên
nói
lời
chân
thật,
nói
lời
đem
lại
hòa
hợp,
lời
thanh
tao
nhã
nhặn,
lời
hữu
ích
v.v... 2.
Ba
chi
Chánh
Tinh
Tấn,
Chánh
Niệm,
Chánh
Ðịnh
đề
cập
đến
công
phu
thanh
lọc
tâm
bằng
pháp
môn
hành
thiền,
thiền
vắng
lặng
và
thiền
minh
sát. 3.
Hai
chi
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy,
vừa
là
bảng
chỉ
đường
đưa
khách
lữ
hành
vào
đúng
con
đường
chân
chính
lúc
sơ
khởi,
vừa
là
đuốc
tuệ
soi
sáng
con
đường
theo
từng
bước
một
của
hành
giả,
vừa
là
Ánh
Ðạo
Vàng,
Ánh
Sáng
Chân
Lý
cùng
tột,
sau
khi
hành
giả
đã
hoàn
mãn
trải
qua
suốt
Con
Ðường,
là
thành
quả
của
công
phu
hoàn
tất
mỹ
mãn
cuộc
hành
trình.
Ánh
Sáng
Trí
Tuệ
đến
đâu
thì
đêm
tối
của
Vô
Minh
lui
dần
đến
đó.
Mãi
đến
khi
chỉ
còn
Chánh
Kiến,
và
Vô
Minh
hoàn
toàn
tan
biến. Như
vậy
ta
có
thể
sắp
xếp
tám
chi
của
Bát
Chánh
Ðạo
vào
ba
nhóm
như
sau: -
Giới
:
Chánh
Ngữ,
Chánh
Nghiệp,
Chánh
Mạng Giới-Ðịnh-Tuệ
là
Con
Ðường
Giải
Thoát.
Khi
kể
tám
chi
cuả
Bát
Chánh
Ðạo
thì
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy
đứng
đầu.
Ðến
lúc
xem
như
một
pháp
tu
tập
thì
ba
phần
của
Bát
Chánh
Ðạo
được
kể
theo
thứ
tự
Giới,
Ðịnh,
Tuệ.
"Tuệ"
gồm
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy
lại
được
kể
sau
cùng.
Như
vậy
nhìn
vào
toàn
diện,
có
phải
đây
là
một
lối
trình
bày
thiếu
nhất
trí
hay
không? Không
phải
thiếu
nhất
trí
mà
hợp
lý.
Chánh
Kiến
ở
mức
sơ
khởi,
là
hiểu
đúng
con
đường.
Như
người
kia
lạc
nẻo,
bỡ
ngỡ
trước
nhiều
ngả
đường
vì
không
biết
phải
chọn
ngã
nào
thì
may
thay,
chợt
thấy
một
tấm
bảng
chỉ
đường
bên
cạnh
một
con
đường
mòn.
Bảng
chỉ
đường
là
Chánh
Kiến.
Ở
giai
đoạn
đầu
tiên
Chánh
Kiến
là
ánh
sáng
rọi
vào
chánh
đạo,
là
sự
hiểu
biết
dẫn
dắt
hành
giả
sơ
cơ
vào
con
đường
chánh,
và
người
có
Chánh
Kiến
là
người
đã
nhận
ra
con
đường.
Chánh
Kiến,
sự
hiểu
biết
chân
chánh,
hay
khả
năng
phân
biệt
chánh
tà,
phải
dẫn
đầu,
phải
hướng
đạo
toàn
thể
các
chi
khác
của
con
đường,
vì
Chánh
Kiến
giúp
hành
giả
có
sự
hiểu
biết
về
con
đường,
về
khởi
điểm
và
hướng
đi
của
con
đường,
về
những
gì
hành
giả
sẽ
gặp
dài
theo
con
đường
và
về
mức
đến
cuối
cùng
của
con
đường.
Muốn
thực
hành
Giáo
Pháp
mà
không
có
Chánh
Kiến
cũng
giống
như
người
kia
leo
lên
xe,
mở
máy
cho
xe
chạy
mà
không
biết
đường
đi
vì
chưa
xem
bản
đồ,
cũng
không
hỏi
han
ai
trước.
Người
ấy
sẽ
gặp
nguy
cơ
là
sẽ
không
đi
về
hướng
mà
mình
muốn
đi. Chánh
Kiến
cho
hành
giả
một
ý
niệm
về
con
đường.
Chánh
Tư
Duy
đặt
hành
giả
vào
con
đường
và
chỉ
hướng
đi
cho
hành
giả.
Tuy
nhiên
vai
trò
của
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy
không
chấm
dứt
tại
đó.
Khi
hành
giả
vững
bước
đi
suốt
con
đường,
từ
Giới,
Ðịnh
đến
Tuệ
thì
giai
đoạn
Tuệ
cuối
cùng
này
là
Chánh
Kiến
Chánh
Tư
Duy
cao
siêu,
có
hiệu
năng
đưa
hành
giả
thoát
ra
khỏi
vòng
sanh
tử
luân
hồi. Phương
pháp
tu
tập
được
trình
bày
theo
thứ
tự
ba
giai
đoạn
Giới,
Ðịnh,
Tuệ
có
thuận
lý
không?
Ðể
giải
đáp
thắc
mắc
này
chúng
ta
hãy
tìm
hiểu
mục
tiêu
cứu
cánh
của
toàn
thể
Giáo
Pháp,
nói
chung,
và
Bát
Chánh
Ðạo
nói
riêng
là
gì?
Ðức
Phật
dạy
rằng
nước
trong
đại
dương
tuy
mênh
mông
nhưng
chỉ
có
một
vị
là
vị
mặn.
Cùng
thế
ấy,
giáo
lý
mà
Như
Lai
truyền
dạy
tuy
rộng
rãi
nhưng
chỉ
có
một
vị
là
vị
giải
thoát.
Vậy
mục
tiêu
của
Giáo
Pháp
cũng
như
của
Bát
Chánh
Ðạo
là
giải
thoát,
vượt
ra
khỏi
mọi
hình
thức
khổ
đau
của
kiếp
sinh
tồn. Tại
sao
đau
khổ
?
--
Vì
ái
dục;
và
có
ái
dục
là
vì
có
vô
minh.
Vậy,
muốn
chấm
dứt
đau
khổ
phải
phá
tan
vô
minh.
Vô
minh
là
tối
tăm,
không
thấy,
không
biết
thực
tứơng
của
sự
vật.
Trí
tuệ
là
tri
kiến,
là
ánh
sáng,
là
thấy
và
hiểu
biết
sự
vật,
thấu
triệt
sự
vật
như
thật
sự
sự
vật
là
như
vậy,
là
thấu
đạt
thực
tướng
của
vạn
pháp.
Do
đó,
phương
pháp
tu
tập
của
Phật
Giáo
là
phát
triển
trí
tuệ
để
đối
trị,
phá
tan
vô
minh. Ðây
là
công
trình
dai
dẳng
và
cần
phải
kiên
trì
cố
gắng,
liên
tục
tinh
tấn.
Tuy
nhiên,
khi
ánh
sáng
trí
tuệ
được
phát
triển
đến
đâu
thì
đêm
tối
của
vô
minh
bị
đẩy
lui
đến
đó,
và
chỉ
dầu
một
tia
nhỏ
bé
lu
mờ
của
trí
tuệ
cũng
cần
phải
được
phát
triển
do
tâm
an
trụ,
vắng
lặng,
không
phóng
dật,
không
xao
lãng. Muốn
thành
đạt
trí
tuệ
phải
có
tâm
định.
Và
muốn
định
tâm
giới
đức
phải
trang
nghiêm.
Một
người
tàn
ác,
gây
tổn
thương
hay
sát
hại
sanh
linh,
người
trộm
cắp,
người
tà
dâm
lăng
loàn,
người
có
lời
nói
giả
dối,
đâm
thọc,
thô
lỗ,
nhảm
nhí,
người
có
tật
say
sưa,
tức
nhiên
không
thể
làm
cho
tâm
an
tĩnh.
Tâm
chao
động
không
thể
an
trụ.
Tâm
không
an
trụ
sẽ
không
định.
Trí
tuệ
không
thể
phát
sanh
nếu
tâm
không
định. Bước
đầu
tiên
của
phương
pháp
tu
tập
là
Giới.
Nhờ
có
giới
đức
làm
nền
tảng
hành
giả
trau
dồi
tâm
trí,
tiến
đến
Ðịnh
và
dùng
tâm
định
soi
sáng
sự
vật,
phát
triển
trí
tuệ.
Trí
tuệ
phá
tan
Vô
Minh,
không
vô
minh
tức
không
ái
dục,
và
không
ái
dục
tức
không
đau
khổ.
Vì
lẽ
ấy,
Giới-Ðịnh-Tuệ
là
con
đường
giải
thoát,
là
phương
cách
cởi
mở
mọi
trói
buộc,
tận
diệt
mọi
ô
nhiễm,
mọi
hoặc
lậu
để
thoát
ra
khỏi
khổ
đau,
phiền
lụy. Pháp
này
có
ai
kinh
nghiệm
thực
hành
chưa,
có
công
hiệu
không,
và
có
phải
dành
riêng
cho
một
hạng
người
tốt
số
nào
không? Trong
lịch
sử
được
ghi
nhận,
Ðức
Phật
là
người
đầu
tiên
khám
phá
và
thực
hành
Bát
Chánh
Ðạo.
Ngài
sanh
ra
là
một
người
và
không
bao
giờ
tự
xưng
là
Thần
Linh
hay
hiện
thân
của
Thần
Linh.
Một
ngày
tươi
đẹp
kia,
tại
Boddh
Gaya
(Bồ
Ðề
Ðạo
Tràng)
Ngài
tận
diệt
mọi
ô
nhiễm,
chứng
ngộ
thực
tướng
của
vạn
pháp
và
thành
đạt
Ðạo
quả
Phật. Sau
ngày
thành
đạo,
trọn
45
năm
trường
Ngài
đi
từ
làng
này
đến
làng
khác,
từ
tỉnh
nọ
đến
tỉnh
kia,
trên
những
con
đường
lớn
và
các
nẻo
nhỏ,
cùng
khắp
miền
Bắc
xứ
Ấn
Ðộ
để
mang
lại
cho
nhân
loại
bức
thông
điệp
hòa
bình
và
phúc
lợi
và
để
truyền
dạy
Giáo
lý
cao
siêu.
Các
môn
đệ
Ngài
đã
đến
với
Ngài
từ
mọi
từng
lớp
xã
hội,
giầu
sang
quyền
qúi
cũng
như
nghèo
nàn
khốn
khổ,
học
rộng
hiểu
nhiều
cũng
như
tối
tâm
dốt
nát,
đạo
đức
thánh
thiện
cũng
như
tội
lỗi
hư
hèn,
cả
nam
lẫn
nữ,
từ
lão
đến
ấu,
tất
cả
đều
được
Ngài
thâu
nhận
như
nhau
và
nhiều
vị,
nhờ
tinh
tấn
chuyên
cần
tu
tập,
đã
thành
đạt
nhiều
Ðạo
Quả
cao
thượng. Bát
Chánh
Ðạo
là
con
đường
cũ
xa
xưa
mà
bao
nhiêu
vị
Phật
đã
trải
qua
trong
quá
khứ.
Trên
con
đường
ấy
bao
nhiêu
vị
Ðộc
Giác
Phật
và
bao
nhiêu
vị
A
La
Hán
đã
trải
qua.
Ðức
Phật
chỉ
khám
phá
chứ
không
tạo
nên
con
đường, Bằng
cách
nào
chúng
sanh
bị
trói
buộc
vào
những
kiếp
sống
đau
khổ
trong
vòng
luân
hồi? Nguồn
gốc
của
mọi
đau
khổ
là
ái
dục.
Ái
dục
vì
vô
minh,
ái
dục
nằm
trong
vô
minh.
Vì
vô
minh
và
ái
dục
chúng
ta
không
thấy
đúng
sự
thật.
Vì
không
thấy
đúng
sự
thật
chúng
ta
tự
đồng
hóa
mình
với
sắc,
thọ,
tưởng,
hành,
thức,
xem
ngũ
uẩn
là
"Ta"
là
"Của
Ta". Với
sự
hiểu
biết
lầm
lạc
ấy
chúng
ta
hành
động,
tức
tạo
nghiệp.
Nghiệp
quá
khứ
đưa
đến
quả
hiện
tại
là
thức,
danh
sắc,
lục
căn,
xúc,
thọ.
Tùy
thuộc
nơi
thọ
ái
phát
sanh.
Do
ái
thủ
phát
sanh,
do
thủ
hữu
phát
sanh
và
do
hữu
có
sanh,
lão
tử
phát
sanh.
Vòng
lẩn
quẩn
cứ
thế
trở
đi
trở
lại,
mãi
mãi
từ
vô
lượng
kiếp. Chúng
ta
tạo
nghiệp
bằng
thân,
khẩu,
ý.
Trong
ba
đường
lối
ấy
ý
dẫn
đầu,
ý
là
chủ.
Có
ý
nghĩ
mới
có
việc
làm
và
lời
nói.
Ý
nghĩ
phát
sanh
do
lục
căn
tiếp
xúc
với
lục
trần
và
chịu
ảnh
hưởng
của
những
khuynh
hướng
tâm
tánh
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp
(anusaya).
Khuynh
hướng
tâm
tánh
này
nằm
trên
nền
tảng
vô
minh. Như
vậy
trong
tiến
trình
đưa
đến
hành
động
chúng
ta
thấy
có
ba
tầng
lớp: -
Sâu
dưới
đáy
là
lớp
tâm
tánh
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp
mà
ta
đã
mang
theo
với
ta
từ
vô
lượng
tiền
kiếp.
Khuynh
hướng
tâm
tánh
này
nằm
trên
nền
tảng
vô
minh
và
gây
ảnh
hưởng
đến
tư
tưởng. -
Lớp
trên
kế
đó
là
tư
tưởng,
phát
sanh
do
lục
căn
tiếp
xúc
với
lục
trần
và
chịu
ảnh
hưởng
của
khuynh
hướng
tâm
tánh
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp. -
Lớp
cuối
cùng,
biểu
hiện
ra
ngoài
bằng
hành
động
và
lời
nói. Hãy
lấy
cây
quẹt
làm
hình
ảnh
cụ
thể.
Trên
đầu
cây
quẹt
có
chất
diêm,
chứa
đựng
tiềm
năng
phát
hỏa.
Nếu
để
cây
quẹt
nằm
yên
thì
không
có
gì
xảy
ra.
Nhưng
diêm
có
thể
phực
cháy
bất
luận
lúc
nào
khi
có
người
cầm
cây
quẹt
quẹt
trên
hộp
diêm.
Cũng
giống
như
vậy,
tiềm
tàng
sâu
ẩn
bên
trong
tâm
tánh
chúng
ta
có
những
năng
lực
ngủ
ngầm
như
vô
minh
ái
dục
v.v...
Những
năng
lực
này
ngủ
ngầm,
bất
động
nhưng
có
thể
khởi
phát
trổi
dậy
bất
cứ
lúc
nào
hội
đủ
cơ
duyên.
Ðó
là
tầng
lớp
dưới
đáy
sâu. Khi
lục
căn
tiếp
xúc
với
lục
trần
tức
có
lục
thức.
Thí
dụ
mắt
xúc
với
hình
thể
tức
có
sự
thấy
và
từ
đó
phát
sanh
những
tư
tửơng.
Bản
chất
của
những
tư
tưởng
này
như
thế
nào
tùy
nơi
khuynh
hướng
tâm
tánh
vốn
sẵn
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp
mà
ta
mang
theo
từ
các
kiếp
sống
quá
khứ.
Như
cùng
trong
một
cảnh
ngộ
mà
người
bẩm
tánh
nóng
thì
giận
dữ
còn
người
tâm
tánh
từ
ái
nhu
hòa
thì
có
những
tư
tưởng
dịu
hiền.
Cùng
đứng
trước
một
pho
tượng
Phật,
người
Phật
tử
thuần
thành
thì
có
những
tư
tưởng
tôn
kính,
người
thường,
không
phải
Phật
tử
thì
dửng
dưng,
còn
người
đã
sẵn
có
ác
cảm
với
Phật
Giáo
thì
sanh
tâm
bất
mãn.
Dầu
sao,
ngày
nào
chưa
chứng
đắc
Quả
A
La
Hán
thì
tâm
tánh
vẫn
còn
nằm
trong
vô
minh.
Ðó
là
tầng
lớp
thứ
nhì,
có
thể
so
sánh
với
ý
tưởng
muốn
cầm
cây
quẹt. Cuối
cùng,
do
sự
thúc
đẩy
của
những
tư
tưởng
vừa
phát
sanh
--
như
những
ý
nghĩ
thấm
nhuần
từ,
bi,
hỷ,
xả
hay
những
tư
tưởng
tham
lam,
sân
hận
hay
ganh
tỵ
v.v...
--
ta
có
những
hành
động
thanh
cao
hiền
đức
hay
hung
ác
bạo
tàn.
Hành
động
này
cũng
như
ngọn
lửa
phực
lên
vì
có
người
cầm
quẹt
quẹt
vào
hộp
diêm.
Người
ấy
sẽ
dùng
lửa
để
thắp
đèn,
nấu
bếp
hay
thiêu
dốt
một
vật
gì.
Ðây
là
tầng
lớp
hiển
hiện
ra
ngoài,
lớp
trên
nhất,
ví
như
băng
tuyết
trên
mặt
biển,
chì
để
lộ
lên
trên
mặt
nước
một
phần
nhỏ.
Phần
lớn
thì
chìm
đắm
trong
nước,
ta
không
thấy. Giới
luật
kỷ
cương
có
khả
năng
kiểm
soát
những
việc
làm
và
những
lời
nói,
tầng
lớp
trên
hết.
Chánh
Ngữ
kiểm
soát
khẩu
nghiệp.
Chánh
Nghiệp
và
Chánh
Mạng
kiểm
soát
thân
nghiệp. Ðịnh
thanh
lọc
tư
tưởng,
tầng
lớp
thứ
nhì.
Chánh
Niệm,
theo
dõi
và
phát
giác
các
pháp
thiện
hay
bất
thiện,
chưa
hoặc
đã
phát
sanh,
hay
biết
bạn
hay
thù,
đã
đến
hoặc
chưa
đến.
Chánh
Tinh
Tấn
ngăn
chặn
và
diệt
trừ
bất
thiện
pháp,
đồng
thời
phát
triển
và
củng
cố
các
thiện
pháp,
tức
ngăn
chận
quân
thù
chưa
đến,
diệt
trừ
quân
thù
đã
đến,
dồng
thời
đón
mừng
và
cố
giữ
bạn
lành.
Chánh
Ðịnh
củng
cố
Chánh
Niệm
để
phát
huy
trí
tuệ. Tuệ
diệt
trừ
những
ô
nhiễm
tiềm
tàng
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp,
tầng
lớp
cuối
cùng
dưới
đáy
sâu.
Ánh
Sáng
của
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy
lấn
dần
bóng
tối
của
Vô
Minh
cho
đến
ngày
tuyệt
đối
chỉ
còn
hào
quang
rực
rỡ
của
trí
tuệ. Với
trí
tuệ
siêu
phàm
hành
giả
đã
chứng
ngộ
thực
tứơng
của
vạn
pháp
là
vô
thường,
khổ,
vô
ngã.
Nhận
thức
chắc
thật
rằng
không
có
cái
gì
có
thể
gọi
là
"Ta"
và
"Của
Ta"
tự
nhiên
hành
giả
không
còn
ái
và
do
đó
chấm
dứt
tiến
trình
sanh
tử,
thoát
ra
khỏi
vòng
luân
hồi,
thành
tựu
trạng
thái
Vô
Sanh
Bất
Diệt,
Tịch
Tịnh
Trường
Cửu,
Niết
Bàn. Ðứng
về
phương
diện
Thanh
Tịnh
Ðạo,
Chánh
Ngữ,
Chánh
Nghiệp
và
Chánh
Mạng
tạo
nên
Giới
Tịnh,
giai
đoạn
đầu
tiên.
Chánh
Tinh
Tấn,
Chánh
Niệm
và
Chánh
Ðịnh
đưa
đến
Tâm
Tịnh,
giai
đoạn
thứ
nhì.
Cuối
cùng,
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy,
làm
cho
Tri
Kiến
Thanh
Tịnh,
gồm
Kiến
Tịnh,
Ðoạn
Nghi
Tịnh,
Ðạo
Phi
Ðạo
Tri
Kiến
Tịnh
và
Kiến
Tịnh. Như
vậy
Bát
Chánh
Ðạo
thanh
lọc
chúng
sanh
trên
suốt
bảy
giai
đoạn
của
Con
Ðường
Trong
Sạch,
Thanh
Tịnh
Ðạo.
Bát
Chánh
Ðạo
là
Con
Ðường
dẫn
chúng
sanh
từ
bờ
mê
đến
bến
giác,
từ
Phàm
đến
Thánh,
là
Con
Ðường
Giải
Thoát,
Con
Ðường
đưa
đến
hoàn
toàn
Tự
Do.
Ðó
là
con
đường
lên
từng
bậc,
tuy
dài
dẳng
nhưng
châu
toàn. Trong
Kinh
Mahã
Parinibãna
(
Ðại
Niết
Bàn),
để
trả
lời
một
câu
hỏi
của
đạo
sĩ
du
khất
Subhadda,
Ðức
Thế
Tôn
dạy
: "Trong
bất
luận
giáo
đoàn
nào,
nếu
không
có
Bát
Chánh
Ðạo
thì
cũng
không
có
hạng
nhất
đẳng
Sa
môn
(Tu
Ðà
Hườn),
cũng
không
có
nhị
đẳng
sa
môn
(Tu
Ðà
Hàm),
tam
đẳng
sa
môn
(A
Na
Hàm)
hay
tứ
đẳng
sa
môn
(
A
La
Hán). "Trong
giáo
đoàn
nào
có
Bát
Chánh
Ðạo,
này
Subhada,
thì
cũng
có
hạng
nhất
đẳng,
nhị
đẳng,
tam
đẳng
và
tứ
đẳng
sa
môn.
Bát
Chánh
Ðạo
là
con
đường
duy
nhất
". Vì
là
Con
Ðường
Duy
Nhất
(ekayana),
Bát
Chánh
Ðạo
cũng
là
Con
Ðường
Cũ
Xa
Xưa
mà
tất
cả
chư
Phật
và
chưa
vị
A
La
Hán
quá
khứ
đều
phải
trải
qua. Bát
Chánh
Ðạo
là
con
đường,
Ðức
Phật
là
người
vạch
ra
con
đường.
Chư
Tăng,
những
vị
hội
viên
của
Giáo
Hội
Tăng
Già
là
những
người
rọi
sáng
và
dẫn
dắt
ta
noi
theo
con
đường.
Nhưng
chính
ta
phải
tự
lực
cố
gắng.
Chánh
Tinh
Tấn
là
yếu
tố
cực
kỳ
trọng
yếu
của
con
đường.
Trong
toàn
thể
Bát
Chánh
Ðạo
không
có
lời
dạy
nào
khuyên
ta
van
vái
nguyện
cầu
để
giải
thoát. Trước
khi
quyết
định
truyền
bá
Giáo
Pháp
Ðức
Phật
dùng
huệ
nhãn
quan
sát
thế
gian
xem
có
ai
lãnh
hội
được
Lời
Dạy
của
Ngài
chăng.
Bài
kinh
Ariyapariyesana
Sutta
của
Bộ
Trung
A
Hàm,
Majjhima
Nikãya,
ghi
lại
như
sau
: "Như
trong
đầm
có
những
loại
sen
trắng,
sen
hồng,
sen
xanh
lẫn
lộn.
Có
những
ngó
sen
chớm
nở
khỏi
bùn,
mọc
lên
trong
nước,
có
những
cây
khác
vừa
lém
đém
ngang
mặt
nước
và
cũng
có
những
búp
sen
đã
vượt
hẳn
lên
cao,
không
còn
vướng
chút
bùn
nhơ
nước
đục.
Chúng
sanh
trong
thế
gian
cũng
dường
thế
ấy
dưới
tầm
mắt
của
bậc
Chánh
Biến
Tri.
Như
Lai
nhìn
thấy
chúng
sanh
đủ
hạng,
hạng
đầy
bợn
nhơ
và
hạng
tương
đối
trong
sạch,
hạng
thông
minh
sáng
suốt
và
hạng
tối
tăm
mờ
mịt,
hạng
tốt
hạng
xấu,
hạng
thiện
tri
thức
và
hạng
cuồng
si.
Như
Lai
cũng
thấy
hạng
chúng
sanh
đang
gieo
mầm
xấu
xa
và
hạng
chúng
sanh
đang
gặt
quả
dữ
của
nhân
đã
gieo
từ
những
kiếp
quá
khứ." Theo
sách
Puggala
Pannati,
Chỉ
Danh
Những
Cá
Tính
của
Tạng
Luận
bài
160
và
bài
số
153
của
Bộ
Tăng
Nhứt
A
Hàm,
Anguttara
Nikaya,
của
Tạng
Kinh,
trong
số
những
người
có
duyên
lành
được
gặp
Phật
Pháp
(Buddha
sasana)
có
bốn
hạng
như
sau
: 1-
Ugghãtitannu,
người
thấu
hiểu
tức
khắc,
là
người
gặp
được
chính
Ðức
Phật
và
có
đủ
khả
ngăn
thành
đạt
Ðạo
và
Quả
tức
khắc,
sau
khi
chỉ
nghe
qua
một
lời
dạy
vắn
tắt
và
ranh
mạch.
Ðó
là
những
búp
sen
đã
vựơt
ra
khỏi
bùn
nhơ
nước
đục,
là
những
búp
sen
trong
trắng
chỉ
chờ
tia
nắng
đầu
tiên
của
buổi
ban
mai
để
nở
tung
ra
một
cách
huy
hoàng
rực
rỡ. 2-
Vipancitannu,
người
thấu
hiểu
sau
khi
được
nghe
giải
thích
cặn
kẽ,
là
người
không
có
khả
năng
thành
đạt
Ðạo
và
quả
tức
khắc
sau
khi
chỉ
nghe
suông
một
lời
dạy
vắn
tắt
và
rành
mạch
nhưng,
nếu
được
giải
thích
dông
dài
và
cặn
kẽ
thì
sẽ
chứng
ngộ
Ðạo
Quả. 3-
Neyya,
người
cần
phài
được
dắt
dẫn,
được
chở
đi
v.v...
hàm
ý
là
người
cần
phải
được
dạy
dỗ,
là
người
không
thể
thành
đạt
Ðạo
và
Quả
sau
khi
nghe
bài
kinh
vắn
tắt
và
rành
mạch,
hoặc
sau
khi
được
nghe
giải
thích
dong
dài
và
cặn
kẽ,
nhưng
cần
phải
chăm
chú
nghiên
cứu,
cần
mẫn
học
hỏi
và
tinh
tấn
thực
hành
Giáo
Pháp
trong
nhiều
ngày,
nhiều
tháng,
nhiều
năm
mới
có
thể
thành
công. Những
người
trong
hạng
Neyya
này
lại
được
chia
nhỏ
ra
làm
nhiều
tiểu
phân
hạng,
tùy
theo
thời
gian
cần
thiết
phải
thực
hành
của
mỗi
người
để
đến
mục
tiêu.
Và
thời
gian
này
dài
hay
ngắn
lại
tùy
thuộc
nơi
vốn
liếng
Ba
La
Mật
(Parami)
đã
được
tích
trữ
của
từng
cá
nhân
và
những
ô
nhiễm
(kilesa)
mà
mỗi
cá
nhân
cần
phải
gội
rửa.
Các
tiểu
phân
hạng
này
bao
gồm
từ
những
cá
nhân
chỉ
cần
tận
lực
kiên
trì
tinh
tấn
trong
bảy
ngày
đến
những
người
phải
cần
đến
ba
mươi,
hay
sáu
mươi
năm
mới
đến
mức. Trong
phân
hạng
này
lại
có
những
trường
hợp
khác
nhau.
Thí
dụ
như
người
kia
có
đủ
duyên
lành
và
đủ
tinh
tấn
để
chứng
ngộ
Ðạo
và
Quả
Tu
Ðà
Hoàn
trong
bảy
ngày.
Nếu
người
ấy
tận
lực
cố
gắng
trong
khi
tuổi
còn
niên
thiếu
hoặc
lúc
trung
niên
thì
sau
khi
đắc
Quả
Tu
Ðà
Hoàn
còn
thì
giờ
để
cố
gắng
tiếp
tục
đến
A
La
Hán
Ðạo
và
A
La
Hán
Quả.
Nhưng
nếu
để
đến
tuổi
già
mới
đắc
quả
Tu
Ðà
Hoàn
thì
lắm
khi
không
còn
đủ
thì
giờ
để
tiến
đến
tầng
Thánh
cùng
tột
trong
kiếp
sống
hiện
tiền. Lại
nữa,
người
kia
có
đủ
khả
năng
để
thành
đạt
Ðạo
Quả
trong
bảy
ngày
có
nghĩa
là
người
ấy
phải
hết
sức
nỗ
lực
trong
bảy
ngày
để
đến
nơi.
Nếu
không
tinh
tấn
đúng
mức
thì
bảy
ngày
có
thể
trở
thành
bảy
tháng,
bảy
năm
hoặc
lâu
hơn
nữa. Những
vị
này,
nếu
không
thành
đạt
Thánh
Quả
trong
thời
kỳ
của
vị
Phật
hiện
tại,
phải
chờ
đến
thời
kỳ
của
một
vị
Phật
tương
lai,
nếu
có
duyên
lành
gặp
được,
mới
có
cơ
may
giải
thoát.
Giữa
thời
kỳ
của
vị
Phật
hiện
tại
và
thời
kỳ
của
vị
Phật
tương
lai
có
mọt
khoảng
thời
gian
trống,
không
có
Phật
Pháp,
và
trong
suốt
thời
gian
ấy
không
thể
có
giải
thoát
vì
không
có
Giáo
Pháp,
tức
không
có
Bát
Chánh
Ðạo.
Bây
giờ,
vào
thời
kỳ
của
vị
Phật
tương
lai
chỉ
có
những
vị
đã
được
thọ
ký
--
niyata
vyãkarana,
những
người
đã
được
một
vị
Phật
cho
biết
trứơc
là
sẽ
đắc
Ðạo
Quả
--
mới
chắc
chắn
là
gặp
Phật
Pháp.
Còn
những
vị
khác,
mặc
dầu
đã
tích
trữ
đầy
đủ
Ba
La
Mật
và
đã
gội
rửa
mọi
bợn
nhơ
trong
tâm,
có
thể
gặp,
có
thể
không
gặp
được
Phật
Pháp
để
nương
nhờ
đó
giải
thoát
ra
khỏi
vòng
đau
khổ
của
những
kiếp
sinh
tồn
triền
miên
liên
tục. 4-
Padaparama,
là
người
mặc
dầu
đã
gặp
Phật
Pháp
và
đã
hết
sức
cố
gắng
học
hỏi
và
thực
hành
Giáo
Pháp
nhưng
không
thể
thành
đạt
Thánh
Ðạo
và
Thánh
Quả
trong
kiếp
sống
hiện
tiền.
Tất
cả
những
gì
mà
vị
này
có
thể
làm
được
là
tạo
cho
mình
một
đức
tánh
cao
thượng
và
một
năng
lực
tiềm
tàng
hữu
dụng
về
sau. Ðó
là
những
búp
sen
chưa
sẵn
sàng
để
nở
trong
ngày
mai,
khi
mặt
trời
mọc.
Họ
là
những
ngó
sen
hoặc
còn
dưới
sâu
trong
bùn
non
của
vòng
luân
hồi,
hoặc
chưa
lên
khỏi
mặt
nước.
Nhưng
tất
cả
đều
mang
theo
bên
trong
mình
một
tiềm
năng
để
trở
thành
những
đóa
hoa
tươi
đẹp,
màu
sắc
rực
rỡ. Khả
năng
thành
đạt
Ðạo
và
Quả
của
chúng
sanh
khác
nhau
là
vì
trình
độ
"
Minh"
và
"Hạnh"
của
mỗi
cá
nhân
khác
nhau. Minh
(vijjã)
là
sáng
suốt,
thấu
đạt
thực
chất
của
đời
sống,
là
tuệ
Minh
Sát,
có
Tri
Kiến
của
bậc
Giác
Ngộ,
hay
chứng
ngộ
Tứ
Diệu
Ðế.
Minh
cũng
có
nghĩa
là
thông
suốt
Thập
Nhị
Nhân
Duyên,
tức
những
yếu
tố
phát
sanh
do
những
yếu
tố
trứơc
đó
tạo
duyên
và
trở
lại
làm
duyên
cho
những
yếu
tố
khác
phát
sanh.
Và
cứ
thế
mười
hai
yếu
tố
ảnh
hưởng
lẫn
nhau
trong
một
vòng
lẩn
quẩn
của
những
kiếp
sống,
sanh
tử,
tử
sanh
triền
miên
diễn
tiến,
gọi
là
vòng
luân
hồi.
Do
sự
phá
tan
những
bí
ẩn
của
kiếp
nhân
sinh
bằng
cách
thấu
hiểu
trọn
vẹn
và
đầy
đủ
mối
liên
quan
giữa
mưới
hai
yếu
tố
trên,
bậc
Thánh
Nhân
cũng
đập
vỡ
tung
cái
kính
ảo
kiến
mà
từ
vô
lượng
kiếp
xuyên
qua
đó
ta
thấy
giả
ngỡ
là
thật,
thấy
vô
thừơng
là
vĩnh
cửu
trừơng
tồn,
xem
đau
khổ
là
hạnh
phúc
và
cái
vô
ngã
là
linh
hồn
trừơng
cửu
và
tin
có
một
Thần
Linh
Tạo
Hóa
trong
khi
chỉ
có
sự
phát
sanh
của
những
yếu
tố
tùy
thuộc
và
những
yếu
tố
trứơc
đó. Hạnh
(carana)
là
đức
dộ
của
người
luôn
luôn
trau
giồi
tâm
tánh
để
ngày
càng
trở
nên
trong
sạch
và
cao
thượng. Cái
gì
làm
cho
tâm
ta
nhơ
bẩn
và
kéo
ta
xuống? Vi
Diệu
Pháp
(Abhidhamma)
dạy
rằng
nguồn
cội
của
tất
cả
những
tánh
hư
tật
xấu
là
tham,
sân,
si.
Ngưười
Phật
Tử
thuần
thành
phải
là
một
chiến
si
can
đảm
và
bất
khuất.
Họ
chiến
đấu.
Nhưng
không
phải
bằng
cách
thả
bom,
nhả
đạn.
Họ
giết
chóc.
Nhưng
không
giết
đàn
ông,
đàn
bà,
trẻ
con
vô
tội.
"Họ
chiến
đấu
chống
chính
họ,
bởi
vì
con
người
là
kẻ
thù
tệ
hại
nhất
của
con
người.
Tâm
là
địch
thủ
độc
hiểm
nhất
mà
cũng
là
người
bạn
tốt
nhất.
Không
chút
xót
thương
người
Phật
Tử
tàn
sát
và
tận
diệt
những
khát
vọng
tham
ái,
sân
hận
và
si
mê
trong
tâm
họ".
Và
võ
khí
của
họ
là
Giới,
Ðịnh,
Tuệ.
Giới
làm
cho
việc
làm
và
lời
nói
trong
sạch.
Ðịnh
thanh
lọc
tư
tương,
Tuệ
tận
diệt
những
ô
nhiễm
(kilesa)
và
những
lậu
hoặc
(asava)
ẩn
tiềm
ngủ
ngầm
trong
luồng
nghiệp
từ
vô
lượng
kiếp.
Giới
và
Ðịnh
trau
dồi
Hạnh.
Tuệ
phát
triển
Minh. Ðối
với
con
người,
minh
như
cặp
mắt
sáng,
hạnh
như
tay
chân.
So
với
loài
chim,
minh
như
đôi
mắt,
hạnh
như
cặp
cánh.
Hạnh
mà
không
minh
như
người
tay
chân
liền
lạc
mà
mù
cả
hai
mắt.
Minh
mà
không
hạnh
như
người
mắt
sáng
mà
chân
tay
qùe
quặt.
Có
đủ
minh
và
hạnh
cũng
như
người
đầy
đủ
tay
chân
và
có
cặp
mắt
sáng.
Một
trong
những
phẩm
hạnh
của
Ðức
Phật
là
Minh
Hạnh
Túc,
đầy
đủ
minh
hạnh.
Thiếu
cả
minh
lẫn
hạnh
như
người
vừa
mù
mắt
vừa
thiếu
tay
chân
và
do
đó
không
trọn
vẹn
là
con
người. Trong
số
những
người
sống
trong
thời
kỳ
còn
Phật
Pháp
(Buddha-sàsana),
tức
thời
kỳ
còn
giáo
lý
của
một
vị
Phật
đang
được
lưu
truyền,
có
người
cố
gắng
thực
hành
giới
và
định,
tức
trau
giồi
hạnh,
nhưng
không
tích
trữ
đủ
hột
giống
trí
tuệ,
tức
minh,
như
hiểu
biết
sâu
sắc
bản
chất
của
đời
sống.
Nhờ
hạnh
cao,
người
này
có
nhiều
cơ
may
được
gặp
Phật
Pháp
trong
thời
kỳ
của
vị
Phật
vị
lai,
kế
sau
Ðức
Phật
Thích
Ca.
Tuy
nhiên,
vì
thiếu
hột
giống
minh,
dầu
có
gặp
Phật
hay
Phật
Pháp,
không
thể
chứng
đắc
Thánh
Quả.
Bao
nhiêu
người,
bao
nhiêu
chúng
sanh
đã
có
duyên
lành
được
sanh
vào
thời
Ðức
Phật
còn
tại
tiền.
Hơn
nưã
bao
nhiêu
người
bao
nhiêu
chúng
sanh
được
sống
dưới
chân
Ðức
Phật,
chẳng
hạn
như
những
vị
Tỳ
Khưu,
những
thân
bằng
quyến
thuộc
của
Bồ
Tát,
những
vua
chúa
thời
bấy
giờ
và
bao
nhiêu
người
khác,
đã
được
nghe
chính
bản
thân
Ðức
Phật
dạy
--
có
người
cũng
cố
gắng
thực
hành
Giáo
Pháp
--
nhưng
vì
không
tích
trữ
đủ
mầm
giống
minh
nên
không
thành
tựu
được
Thánh
Quả.
Mặc
dầu
vậy,
nhờ
sự
cố
gắng
này,
các
vị
ấy
sẽ
thành
công
trong
một
kiếp
sống
tương
lai. Có
người
khác,
đủ
minh
nhưng
thiếu
hạnh.
Nếu
được
gặp
một
vị
Phật
và
được
nghe
Giáo
Pháp
ắt
có
thể
chứng
đắc
Thánh
Quả
vì
có
đầy
đủ
minh.
Nhưng
vì
thiếu
hạnh,
người
này
có
rất
ít
cơ
may
được
gặp
Giáo
Pháp
của
một
vị
Phật.
Trong
hiện
tại
--
và
trong
thời
gian
dài
dẵng
giữa
thời
kỳ
hai
vị
Phật
--
vì
không
đức
hạnh,
người
ấy
không
nghiêm
túc
trì
giới,
gây
những
nghiệp
bất
thiện,
tạo
cho
mình
một
bản
chất
giống
như
bản
chất
của
những
chúng
sanh
trong
bốn
đường
ác
đạo
và
do
đó,
sau
kiếp
sống
hiện
tiền
sẽ
tái
sanh
vào
bốn
cảnh
giới
thấp
kém
ấy.
Một
khi
đã
lọt
vào
giữa
đám
những
chúng
sanh
tội
lỗi,
tham
lam,
hung
tợn
dữ
dằn
ấy
và
phải
tranh
đấu
để
tồn
tại,
thật
rất
khó
mà
tự
tạo
một
bẩm
tánh
thanh
cao
đạo
đức
hầu
trồi
lên
trở
lại
những
cảnh
giới
mà
có
thể
hưởng
được
hương
vị
của
Giáo
Pháp. Trên
đây
là
hai
hạng
người,
hoặc
không
thể
gặp
Phật
Pháp,
hoặc
có
gặp
cũng
không
thể
trọn
vẹn
thừa
hưởng
hương
vị.
Bây
giờ,
trong
số
những
người
có
tích
trữ
đầy
đủ
mầm
giống
minh
và
hạnh
cũng
có
nhiều
mức
độ
khác
nhau.
Có
những
hột
giống
trửơng
thành
đúng
mức,
sẵn
sàng
nở
mộng
và
đâm
chồi
để
mọc
lên
thành
cây
con.
Có
những
hột
khác,
ở
vào
thời
kỳ
đang
trửơng
thành.
Cũng
có
những
hột
hư
thúi.
Khi
đọc
tụng
câu
kinh,
có
người
để
hết
tâm
trí
vào,
thông
suốt
ý
nghĩa
và
thực
hành
đúng
Lời
Dạy.
Có
người
chăm
chú
ít
hơn
và
ít
cố
gắng
thực
hành
hơn.
Cũng
có
người
không
hiểu
gì
hết
mặc
dầu
miệng
đọc
những
lời
vàng
ngọc
của
Giáo
Pháp,
tay
vẫn
lần
chuỗi
Bồ
Ðề.
Vì
lẽ
ấy
chúng
sanh
trưởng
thành
có
cao
thấp
khác
nhau,
giống
như
ngó
sen
trong
đầm. Có
ai
biết
rõ
số
lượng
Ba
La
Mật
mà
mình
đã
tích
trữ?
Dầu
sao
quá
khứ
đã
trôi
qua.
Ðiều
tốt
hơn
hết
và
cũng
rất
cần
thiết
là
nên
tích
trữ
đồng
đều
Minh
và
Hạnh
bằng
cách
thực
hành
đầy
đủ
Giới-Ðịnh-Tuệ.
Người
thiếu
minh,
kém
sáng
suốt
mà
giới
hạnh
trang
nghiêm
sẽ
có
cơ
may
gặp
Phật
Pháp
và
nhờ
đó,
phất
triễn
trí
tuệ
để
rồi
dần
dần,
sẽ
có
ngày
thành
công
giải
thoát. Lối
sang
Bờ
Giác
đã
được
rọi
sáng.
Chính
tự
mỗi
người
chúng
ta
phải
đặt
chân
lên
con
đường
và
thận
trọng
tiến
bước. Hãy
lắng
nghe
lời
khuyên
của
Ðại
Ðức
Kassapa: "Những
bộ
chân
cừơng
tráng
dũng
mãnh
tiến
bước
trên
con
đường
đầy
gay
go
cam
khổ,
giữa
đám
giông
tố
bão
lớn
và
trải
qua
bao
nguy
hiểm
gian
lao
để
lần
hồi
trèo
lên
đỉnh
núi. "Người
yếu
sức
nghiêng
ngả
bên
này
bên
kia
theo
chiều
gió,
vẫn
còn
quanh
quẩn
dưới
chân
đồi
và,
vì
qúa
mệt
mỏi,
dừng
bước
lại
nhiều
lần
để
nghỉ. "Con
Ðường
Tám
Chi
(
Bát
Chánh
Ðạo)
dẫn
đến
nơi
an
vui
hạnh
phúc
cũng
dường
thế
ấy.
Người
mạnh
kẻ
yếu,
người
cao
thượng
kẻ
thấp
hèn,
chúng
ta
cùng
nỗ
lực
lần
hồi
tiến
bước
trên
con
đường
ấy.
Có
những
bẩm
tánh
cương
quyết,
không
ngại
bão
bùng
giông
tố.
Cũng
có
những
tâm
hồn
ươn
hèn,
mỏi
mệt,
dừng
bước
nghỉ
chân
bên
đàng. "Tất
cả
chúng
ta
đều
có
đủ
tiềm
năng
vượt
qua
cơn
giông
tố
để
rồi
một
ngày
kia
bước
chân
lên
tận
đỉnh
núi
cao,
nơi
tuyết
phủ
trắng
trong,
rực
rỡ
chói
lọi
trong
ánh
sáng
mặt
trời." |
Mục lục |
1993/2536
-
Ðịnh:
Chánh
Tinh
Tấn,
Chánh
Niệm,
Chánh
Ðịnh
-
Tuệ:
Chánh
Kiến,
Chánh
Tư
Duy.
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
Nguồn: www.quangduc.com