Trong
chương
này
tôi
xin
xét
đến
sự
phát
triển
của
triết
lý
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
ở
Ấn
độ,
sự
liên
hệ
giữa
triết
lý
Trung
đạo
và
triết
lý
(Pháp
tướng)
Duy
Thức
học
(Tâm
lý
học
Phật
giáo)
và
cái
cách
mà
hai
triết
lý
này
ảnh
hưởng
đến
các
tông
phái
khác
của
Phật
giáo.
Chúng
ta
đã
thảo
luận
các
triết
lý
Trung
đạo
và
Duy
thức
trong
chương
18
và
19
cũng
như
vẽ
sơ
qua
triết
lý
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Triết
lý
Trung
đạo
của
Bồ
tát
Long
thọ
và
triết
lý
Duy
thức
của
hai
anh
em
Vô
trước,
Thế
thân
là
2
triết
lý
căn
bản
của
truyền
thống
Bắc
truyền,
hình
thành
nền
móng
chung
lúc
chúng
phát
triển
trong
4
thế
kỷ
đầu
của
Tây
lịch. Trang
177.
Thời
kỳ
800
năm
phát
triển
sau
đó,
triết
lý
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
ở
Ấn
độ,
chưa
nói
đến
sự
tiếp
tục
phát
triển
trong
các
nước
Á
châu
khác
mà
Phật
giáo
đã
đi
qua
như
Trung
hoa,
Triều
tiên,
Nhật
bản,
Tây
tạng
và
Mông
cổ.
Ðể
được
một
hình
ảnh
toàn
thể
về
sự
phát
triển
này
ở
Ấn
độ,
tôi
xin
lần
dỡ
sự
tương
tác
giữa
trường
phái
Trung
đạo
và
Duy
thức
từ
thế
kỷ
thứ
IV
Tây
lịch
cho
đến
thiên
niên
kỷ
đầu
tiên. Hãy
nhìn
vào
những
gì
đã
xãy
ra
cho
trường
phái
Trung
đạo.
Những
nguyên
tắc
đặt
ra
bởi
Long
thọ
được
các
môn
đệ
và
những
người
tiếp
nối
ông
nói
rõ
thêm,
bắt
đầu
với
Thánh
thiên
(Aryadeva
hay
Ðề
bà).
Trong
khi
mối
quan
tâm
chính
yếu
của
Long
thọ
là
thiết
lập
tính
chất
có
thật
của
‘lý
không’
để
đối
lại
với
các
trường
phái
Phật
giáo
xuất
hiện
trước
đó
thì
mối
quan
tâm
của
Thánh
thiên
(Aryadeva)
là
chứng
minh
rằng
cái
‘lý
không’
chỉ
có
giá
trị
ngang
với
các
trường
phái
ngoại
đạo
như
Bà
la
môn
và
Vệ
đà. Trang
178.
Các
tác
phẩm
của
Long
thọ
và
Thánh
thiên
(Aryadeva)
rơi
vào
thời
kỳ
hình
thành
căn
bản
của
triết
lý
Trung
đạo.
Thời
kỳ
sau
Long
thọ
xuất
hiện
hai
trường
phái
phụ
là
phái
Ðối
pháp
(Prasangika)
và
the
Svatantrika.
Sự
khác
nhau
giữa
2
trường
phái
này
được
dựa
vào
cách
chúng
giới
thiệu
cái
lý
không
của
Bồ
tát
Long
thọ. Khi
thảo
luận
về
lý
không
ở
chương
18,
chúng
ta
đã
nói
về
phương
pháp
lý
luận
‘‘giảm
dần
đến
khi
vô
lý’’
(reductio
ad
absurdum;
xem
lại
trang
160),
rằng
các
luận
sư
Trung
đạo
thường
phản
bác
các
nguyên
tắc
do
các
người
đối
pháp
đưa
ra.
Hình
thức
của
lý
luận
này
tiếng
Phạn
gọi
là
prasanga
(đối
pháp),
và
từ
này
đã
được
trường
phái
Prasangika
đặt
tên
cho
mình.
Phương
pháp
‘‘Lý
luận
đến
khi
vô
lý’’
(Arguments
ad
absurdum)
được
đưa
ra
để
khám
phá
các
mâu
thuẩn
và
vô
lý
của
những
người
đối
pháp.
Thí
dụ,
lý
thuyết
‘‘tự
sản
sinh’’
(tức
các
thực
thể
khởi
sinh
từ
những
sự
vật
hiện
hữu)
được
đề
xướng
bởi
trường
phái
triết
lý
Sankhya
là
phái
đối
lập
với
nhóm
Ðối
Pháp
(Prasangikas).
‘‘Tự
sản
sinh’’
có
thể
bị
bác
bỏ
bởi
lý
luận
là
nếu
các
thực
thể
khởi
sinh
từ
chính
nơi
chúng,
thế
thì
chúng
sẽ
tiếp
tục
sản
sinh
không
biết
đến
chừng
nào
mới
dứt
và
chúng
ta
sẽ
có
vô
số
loạt
tái
sản
xuất
các
thực
thể
hiện
hữu
giống
nhau
một
cách
vô
hạn.
Nói
một
cách
khác,
sẽ
chẳng
có
gì
mới
dưới
mặt
trời
này.
Lý
luận
‘đối
pháp’
(prasanga)
là
các
thực
thể
không
khởi
đầu
từ
chính
chúng
bởi
vì
chúng
đã
hiện
hữu
rồi,
và
cái
khởi
đầu
của
cái
gì
đã
hiện
hữu
đó
hiển
nhiên
là
vô
lý.
Hơn
nữa,
nếu
các
thực
thể
hiện
hữu
thực
sự
có
khởi
đầu,
thì
tự
chúng
sẽ
tiếp
tục
tái
sản
sinh
mãi
mãi. Một
cách
khác,
người
ta
có
thể
bác
bỏ
triết
lý
‘‘tự
sản
sinh’’
của
Sankhya
bằng
phương
tiện
tam
đoạn
luận.
Hình
thức
này
được
gọi
là
lý
luận
độc
lập
(svatantra),
và
chính
từ
ngữ
này
mà
trường
phái
Svatantrika
đặt
tên
cho
nó.
Người
ta
có
thể
chứng
minh
phương
pháp
lý
luận
này
bằng
cách
nói,
‘Các
thực
thể
không
khởi
sinh
từ
chính
chúng.’
Ðây
là
cái
gợi
ý
đầu
tiên.
Kế
đó
ta
nói,
‘Ðúng
là
vậy,
vì
chúng
hiện
hữu’.
Ðây
là
điểm
thứ
hai
của
tam
đoạn
luận.
Kế
đó,
ta
có
thể
nói,
‘Chúng
hiện
hữu
giống
như
cái
bình
hiện
hữu’.
Ðây
là
điểm
thứ
ba
và
là
điểm
cuối
cùng.
Bằng
phương
tiện
ba
yếu
tố
của
một
tam
đoạn
luận,
ta
chứng
minh
cái
không
thể
có
của
tính
khởi
sinh
từ
cái
ngã--cái
mục
đích
tương
tự
được
chứng
minh
bởi
phái
‘lý
luận
cho
đến
khi
vô
lý’. Trang
179.
Thế
là
chúng
ta
có
hai
hình
thức
lý
luận,
lý
luận
giảm
bớt
và
lý
luận
tam
đoạn
luận
theo
luật
của
lý
luận
chính
thức.
Buddhapalita
vằ
Chandrakirti
nổi
tiếng
nhờ
sự
trình
bày
và
bênh
vực
mạnh
mẽ
của
họ,
đại
diện
phái
‘lý
luận
đến
khi
vô
lý’,
trong
khi
Bhavaviveka
nổi
tiếng
nhờ
sự
giải
thích
và
bênh
vực
mạnh
mẽ
của
ông,
đại
diện
phái
lý
luận
độc
lập,
tức
tam
đoạn
luận.
Cả
hai
trường
phái
Ðối
pháp
(Prasangika)
và
Ðộc
lập
(Svatantrika)
đều
được
chú
ý
đáng
kể
ở
Ấn
độ.
Sức
mạnh
của
trường
phái
Svatantrika
phản
ảnh
mối
quan
tâm
việc
tuân
theo
các
tiêu
chuẩn
lý
luận
đã
được
chấp
nhận.
Một
điều
thông
thường
là,
với
những
trường
phái
triết
lý
Ấn
độ
đối
nghịch
nhau
trong
khi
tham
gia
vào
các
cuộc
tranh
luận
công
cộng,
khuynh
hướng
đòi
hỏi
là,
những
lời
lập
luận
phải
đáp
ứng
được
các
tiêu
chuẩn
đã
được
chấp
nhận
và
có
giá
trị
pháp
lý.
Ðiều
này
dần
dần
dẫn
đến
những
đòi
hỏi
chính
thức
hơn
nữa,
đến
độ
ảnh
hưởng
đến
các
lý
luận
triết
lý
của
trường
phái
Trung
đạo.
Sự
yêu
thích
trường
phái
Lý
luận
Ðộc
lập
(Svatantrika)
càng
tăng.
Khuynh
hường
này
cũng
dẫn
đến
việc
trường
phái
Lý
luận
Ðối
pháp
(Prasangika)
cải
thiện
và
chính
thức
hóa
thuyết
‘lý
luận
đến
khi
vô
lý’.
Trong
vòng
thời
gian
vài
trăm
năm,
ta
đã
có
một
lối
trình
bày
hoàn
hảo,
chính
thức
hơn
về
‘lý
không’. Ðiều
xãy
ra
cho
trường
phái
Trung
đạo
cũng
xãy
ra
cho
trường
phái
Duy
thức.
Những
luận
sư
Duy
thức
đáng
kể
ở
Ấn
độ
vào
thế
kỷ
thứ
V
là
các
luận
sư
Phật
giáo
Dinnaga
và
Dharmakirti,
họ
đã
giữ
một
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
phát
triển
triết
lý
Duy
thức.
Họ
không
chấp
nhận
yếu
tố
sắc
trần
của
tâm
thức--như
sắc,
thanh,
v.v...
hiện
diện
trong
kinh
nghiệm.
Họ
là
những
luận
sư
bác
bỏ
các
biểu
hiện
của
thức.
Trong
khi
2
anh
em
Vô
trước
và
Thế
thân
xác
quyết
sự
hiện
hữu
của
trần
cảnh
đối
với
tâm
thức
thì
Dinnaga
và
Dharmakirti
lại
cho
rằng
cái
thực
tướng
của
tâm
thức
là
có,
nhưng
cái
của
sắc
trần
thì
không. Trang
180.
Vào
khoảng
thế
kỷ
thứ
8
Tây
lịch,
ở
Ấn
độ
xuất
hiện
một
học
giả
nổi
tiếng
đã
có
một
đóng
góp
rất
quan
trọng
vào
sự
hoà
nhập
hợp
nhất
giữa
các
khuynh
hướng
khác
nhau
trong
triết
lý
Ðại
thừa.
Tên
ông
là
Shantarakshita.
Ngoài
tiếng
tăm
với
các
luận
thuyết
triết
lý
và
kinh
văn,
Shantarakshita
là
người
đầu
tiên
giới
thiệu
tư
tưởng
Phật
giáo
một
cách
có
hệ
thống
cho
Tây
tạng.
Ông
hình
thành
cái
mà
chúng
ta
gọi
là
triết
lý
tổng
hợp.
Nó
kết
hợp
mạch
lạc
lý
không
với
triết
lý
Duy
Thức. Chúng
ta
đã
thảo
luận
sự
quan
trọng
của
tâm
trong
tư
tưởng
của
các
trường
phái
Trung
đạo,
cũng
như
sự
tương
cận,
song
hành
giữa
một
bên
là
tục
đế
-
chơn
đế
và
bên
kia
là
tính
giả
huyễn
(biến
kế
sở
chấp)
-
tính
toàn
hảo
(viên
thành
thật).
Chúng
ta
đã
nói
rõ
tình
trạng
song
hành
của
tâm,
liên
hệ
hỗ
tương,
và
tính
tùy
thuộc
trong
các
trường
phái
Trung
đạo
và
Duy
Thức
(xem
Chương
19).
Những
gì
chúng
ta
hiểu
được
tư
tưởng
của
Shantarakshita
là
sự
hoà
nhập
có
hệ
thống
các
giáo
thuyết
của
các
trường
phái
Trung
đạo
và
Duy
thức.
Vì
thế
‘lý
không’
được
thừa
nhận
là
phù
hợp
với
sự
thật
rốt
ráo
(chơn
đế)
và
tính
viên
thành
thật,
trong
khi
tính
chất
sáng
tạo
của
thức
được
thừa
nhận
là
phù
hợp
với
sự
thật
quy
ước
(tục
đế)
và
tính
giã
huyển. Ngoài
sự
hoà
giải
và
sắp
xếp
có
thứ
lớp
các
giáo
thuyết
chính
của
hai
trường
phái
này,
triết
lý
của
Shantarakshita
hợp
nhất
các
yếu
tố
của
một
lập
luận
hợp
lý
và
xem
xét
một
cách
có
hệ
thống
vai
trò
của
tâm
trong
việc
giải
quyết
cái
sinh
và
diệt
của
đau
khổ.
Ta
có
thể
nói
triết
lý
tổng
hợp
này
là
đỉnh
cao
của
sự
phát
triển
triết
lý
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
ở
Ấn
độ,
ở
chỗ
Shantarakshita
liên
hợp
các
tri
kiến
chánh
của
các
vị
thầy
Ðại
thừa
nổi
tiếng
như
Long
thọ,
Vô
trước,
Thế
thân
và
tạo
ra
được
một
hệ
thống
triết
lý
tổng
hợp
mạch
lạc
và
dễ
hiểu. Trang181.
Sự
tổng
hợp
các
giáo
thuyết
của
lý
không
và
Duy
Thức
đã
có
một
tác
động
trực
tiếp
và
quyết
dịnh
vào
hai
tông
phái
chánh
phát
triển
từ
triết
lý
Bắc
truyền:
1.
Kim
cương
thừa
(Vajrayana)
có
ảnh
hưởng
lớn
nhất
ở
Tây
tạng
và
Mông
cổ,
và
2.
Thiền
Tông
(Ch’an
của
Trung
hoa
và
Zen
của
Nhật
bản).
Mặc
dầu
lối
thực
hành
giữa
hai
tông
phái
này
khác
nhau
đáng
kể
trong
các
nghi
thức
biểu
lộ
của
họ,
nhưng
cả
hai
đều
dựa
một
cách
chặt
chẻ
vào
giáo
thuyết
của
lý
không
và
Duy
Thức
trong
vai
trò
hữu
hiệu
thực
tế
của
họ. Trong
Kim
cương
thừa,
chính
triết
lý
tánh
không
cung
ứng
sự
mở
ngõ
và
sẵn
sàng
thay
đổi,
tạo
điều
kiện
chuyển
hóa
các
hiện
tượng
uế
trược
sang
thuần
chất.
Nếu
các
thực
thể
có
tính
độc
lập,
không
thay
đổi
và
vì
vậy
không
sẵn
sàng
mỡ
rộng
tánh
không,
chúng
sẽ
không
thể
nào
chuyển
biến
kinh
nghiệm
uế
trược
đầy
đau
khổ
thành
kinh
nghiệm
thuần
chất
trọn
vẹn
hạnh
phúc.
Trong
khi
tánh
không
tạo
cơ
hội
cho
sự
chuyển
biến,
thì
tâm
thức
cung
ứng
các
phương
tiện
hữu
hiệu
cho
việc
hoàn
thành
sự
chuyển
biến
đó.
Chính
tâm
thức
hình
thành
và
quyết
định
kinh
nghiệm
bản
tánh
của
ta.
Bằng
cách
kiểm
soát,
kỷ
luật
và
khai
dụng
cái
tâm,
chúng
ta
có
thể
thay
đổi
một
kinh
nghiệm
uế
trược
thành
một
kinh
nghiệm
thuần
chất.
Trong
phần
lý
thuyết
và
thực
hành
của
Kim
cương
thừa,
‘tâm’
và
‘tánh
không’
không
thể
thay
thế
được:
không
có
tánh
không
thì
tâm
không
thể
chuyển
biến
các
sự
vật
được.Tâm
là
chìa
khóa
và
là
phương
tiện
cho
sự
hoàn
thành
các
chuyển
biến
đó. Trang
181.
Trong
Thiền
tông,
tánh
không
là
hình
ảnh
miêu
tả
của
thực
tướng
các
sự
vật.
Chính
nhờ
nhận
thức
tánh
không
mà
nó
đem
lại
kết
quả
siêu
việt
của
nhị
nguyên
và
đạt
được
giác
ngộ.
Làm
sao
mà
tánh
không
được
nhận
ra
trong
tông
phái
này?
-
Bằng
cách
nhìn
vào
cái
tâm,
bằng
cách
thiền
định
vào
chính
cái
bản
thể
chơn
tâm.
Trong
Kim
cương
thừa
(Vajrajana),
tánh
không
và
tâm
làm
cùng
một
nhiệm
vụ
với
nhau
và
không
thể
thay
thế
được.
Tánh
không
là
cơ
sở
của
sự
biến
đổi,
trong
khi
tâm
hoàn
thành
sự
biến
đổi
đó. Trang
182.
Không
phải
ngẩu
nhiên
Kim
cương
thừa
lẫn
Thiền
tông
tìm
được
sự
hứng
khởi
từ
các
ý
tưởng
căn
bản
của
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
Ấn
độ.
Theo
truyền
thống
các
ngài
Long
thọ
và
Vô
trước
được
xem
là
những
người
sáng
lập
Kim
cương
thừa;
Long
thọ
cũng
là
một
trong
những
giáo
trưởng
đầu
tiên
của
Thiền
tông.
Bồ
đề
đạt
ma,
người
giới
thiệu
Thiền
tông
vào
Trung
hoa,
được
cho
biết
là
đã
thích
Kinh
Lăng
già
hơn
tất
cả
những
bản
kinh
khác.
Do
vậy,
các
trường
phái
Trung
đạo
và
Duy
thức
đã
giữ
một
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
phát
triển
các
tông
phái
chính,
đặc
biệt
là
việc
tu
tập
giáo
pháp
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
trên
toàn
cõi
Châu
Á.. Chúng
ta
hãy
bỏ
thêm
một
chút
thời
gian
xem
phương
pháp
khám
phá
và
kiểm
tra
đã
phát
triển
ở
Ấn
độ
cùng
với
tri
kiến
của
trường
phái
Trung
đạo
và
Duy
thức.
Sự
phân
biệt
kinh
nghiệm
căn
bản
thành
‘danh’
(hay
chủ
thể,
nama)
và
‘sắc’
(hay
đối
tượng,
rupa)
được
tìm
thấy
trong
hệ
thống
sắp
đặt
của
ngũ
uẩn
và
của
Vi
diệu
pháp
cũng
hiện
diện
trong
bối
cảnh
Bắc
truyền.
Chúng
ta
có
thể
xem
xét
lối
điều
tra
về
thực
tế
theo
lối
nhị
phân,
trước
tiên
là
phần
sắc
(đối
tượng)
kế
đến
là
danh
(chủ
thể). Trong
việc
điều
tra
này,
hai
phương
pháp
được
chúng
ta
dùng
là
phân
tích
và
tổng
hợp
đối
tượng
(xem
lại
Chương
16).
Ðầu
tiên,
chúng
ta
dùng
phương
pháp
phân
tích,
tức
xét
đến
sự
‘chia
chẻ
cho
đến
tận
cùng’
đối
tượng
đó.
Chúng
ta
đã
thảo
luận
sự
quan
trọng
của
việc
‘chia
chẻ
cho
đến
tận
cùng’
trong
khi
hình
thành
triết
lý
Duy
thức
(xem
lại
Chương
19).
Ở
đây,
chúng
ta
cũng
bắt
đầu
với
sự
điều
tra
và
tiết
lộ
về
sự
‘chia
chẻ
vô
cùng’
của
vật
chất. Trang
183.
Phương
pháp
phân
tích
đối
tượng
kèm
theo
phương
pháp
tổng
hợp
đã
cho
thấy
rằng
đối
tượng
tùy
thuộc
vào
chủ
thể--có
nghĩa
là,
tùy
thuộc
vào
thức.
Với
lối
phân
tích
và
tổng
hợp
này,
ta
mới
bác
bỏ
được
ý
niệm
‘một
đối
tượng
độc
lập’. Thế
rồi
chúng
ta
đi
lần
đến
sự
điều
tra
phân
tích
và
tổng
hợp
của
chủ
thể,
tức
chính
cái
tâm.
Phân
tích
tâm
ở
đây
là
phân
tích
tướng
trạng
của
nó.
Cái
mô
hình
cho
việc
làm
này
là
ở
trong
Kinh
Trí
huệ
Bát
nhã.
Kinh
nói,
‘Hãy
quán
cái
tâm:
Nó
dài
hay
ngắn?
Nó
trắng
hay
xanh
hay
cái
gì
khác?’
Một
sự
điều
tra
phân
tích
như
vậy
cho
thấy
rằng
cái
tâm
vốn
không
thể
nhận
dạng
ra
được. Trang183.
Phân
tích
chủ
thể
được
theo
sau
bởi
một
phương
pháp
tổng
hợp
đã
cho
thấy
rằng
cái
chủ
thể
(tâm)
quả
có
tùy
thuộc
vào
đối
tượng.
Shantideva,
(tác
giả
quyển
Bồ
tát
Hạnh,
Thích
Trí
Siêu
dịch)
một
trong
những
vị
thầy
nổi
tiếng
của
trường
phái
Trung
đạo
đã
nói
rằng,
nếu
không
có
đối
tượng,
thức
không
được
hiểu
một
cách
dễ
dàng
và
đầy
đủ.
Thức
phải
có
một
đối
tượng
để
vận
hành,
để
hiện
hữu.
Sự
độc
lập
của
thức
đối
với
đối
tượng
là
không
thể
có
được.
Các
lối
giải
thích
về
sự
thật
của
lời
tuyên
bố
này
đã
có
từ
trước.
Chẳng
hạn,
Luận
tạng
Vi
diệu
pháp
đã
nói
rằng
thức
nổi
lên
tùy
thuộc
vào
đối
tượng. Các
cuộc
điều
tra
phân
tích
và
tổng
hợp
về
đối
tượng
và
chủ
thể
dẫn
đến
một
sự
thật
không
cắt
nghĩa
bằng
lời
lẽ
hay
văn
tự
được:
một
thực
tướng
ở
trên
và
ở
ngoài
của
‘có’
và
‘không’,
của
‘chơn
không’
nhưng
‘diệu
hữu’.
Trong
truyền
thống
Bắc
truyền,
đây
là
cái
nhận
thức
sau
cùng:
Thực
tướng
không
thể
nào
được
diễn
tả
với
những
từ
‘có’
và
‘không’.
Nó
tỏa
sáng,
trống
không
và
thanh
tịnh.
Thực
tướng
là
ở
bờ
bên
kia
của
cái
có,
bởi
vì
tất
cả
cái
có
là
tương
đối
và
tùy
thuộc
nhau.
Thực
tướng
cũng
là
ở
bờ
bên
kia
của
cái
không;
dù
rằng
rỗng
không
và
thoáng
qua,
nhưng
thực
tướng
quả
thực
có
xuất
hiện
và
được
chứng
biết.
Thực
tướng
chẳng
phải
không
có. Trang
184.
Chắc
bạn
nhớ
cách
dùng
chữ
‘thanh
tịnh’
(thanh
là
nhẹ,
tịnh
là
sạch)
đồng
nghĩa
với
Không.
Ở
đây
ta
có
thêm
chữ
‘‘tỏa
sáng’’.
Ðừng
sợ
lẫn
lộn.
Ðây
chỉ
là
sự
lập
lại
trong
Bát
Nhã
Tâm
Kinh
‘‘Sắc
tức
thị
Không,
Không
tức
thị
Sắc’’.
Thực
tướng
không
chỉ
là
Không
mà
còn
là
Sắc,
còn
là
tỏa
sáng,
tỏa
sáng
với
tiềm
năng
có
thể
biến
hiện
được.
Tiềm
năng
biến
hiện
này
biểu
thị
hoặc
với
tâm
phiền
não,
uế
trược,
luân
hồi,
hoặc
với
tâm
thanh
tịnh,
thuần
nhất
của
các
chư
Phật
và
Bồ
tát.
Chính
với
tiềm
năng
tỏa
sáng
này
mà
chúng
ta
có
hiện
thân
của
các
chư
Phật
Tiên
Thánh
và
Bồ
tát
như
Phật
A
di
đà,
Phật
Bất
động,
Bồ
tát
Quán
thế
âm,
Bồ
tát
Văn
thù
Sư
lợi,
v.v...Các
vị
là
hiện
thân
của
thực
tướng
tỏa
sáng,
thanh
tịnh,
cái
thực
tướng
đồng
thời
với
Không
và
Sắc.
Không
và
Sắc
là
các
thực
tướng
do
sự
điều
tra
của
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
về
đối
tượng
và
chủ
thể. Tôi
xin
kết
luận
bằng
cách
mô
tả
một
lối
quán
sát
thực
tiễn,
giúp
cho
sự
hiểu
biết
tiến
bộ
không
ngừng
và
sau
đó
nhận
chân
được
cái
thực
tướng
mà
văn
tự
không
chuyển
đạt
được
(bất
lập
văn
tự).
Kỷ
thuật
thiền
định
quán
sát
thực
tiễn
này
bao
gồm
4
giai
đoạn. Giai
đoạn
đầu
liên
hệ
đến
sự
quán
sát
bản
thể
của
kinh
nghiệm
dựa
vào
tâm
thức.
Ở
giai
đoạn
này,
chúng
ta
được
yêu
cầu
xem
tất
cả
kinh
nghiệm
giống
như
giấc
mộng.
Ta
sẽ
hiểu
rõ
thêm
nếu
dùng
các
thí
dụ
sau
đây
để
chứng
minh
bản
thể
của
kinh
nghiệm
dựa
vào
tâm
thức:
kinh
nghiệm
của
chiêm
bao,
một
điều
gây
ấn
tượng
mạnh
nhất;
kinh
nghiệm
của
bệnh
hoạn,
khi
ta
tưởng
loại
ốc
màu
trắng
là
màu
vàng
(vì
mắt
ta
bị
bệnh
màu
vàng)
và
kinh
nghiệm
của
tâm
thức
bị
biến
đổi
do
kết
quả
các
chất
ma
túy
gây
ra
ảo
giác. Trang185.
Giai
đoạn
hai,
quán
sát
tất
cả
kinh
nghiệm
dưới
hình
thức
một
buổi
trình
diễn
ảo
thuật.
Giống
như
kinh
nghiệm
trong
chiêm
bao,
thí
dụ
này
có
từ
cổ
xưa
và
đáng
kính
trong
văn
chương
Phật
giáo,
cả
hai
đều
có
trong
các
bài
kinh
Trí
huệ
Bát
nhả
và
trong
các
bài
viết
của
các
tông
phái
Trung
đạo
và
Duy
thức.
Ðây
là
thí
dụ
có
tính
ảo
tưởng
ma
thuật
được
dùng
làm
mô
hình
cho
kinh
nghiệm.
Khi
bộ
máy
sản
xuất
ảo
thuật
hiện
diện,
cái
ảo
tưởng
ma
thuật
đó
xuất
hiện,
nhưng
khi
cái
máy
vắng
mặt,
ảo
tưởng
ma
thuật
không
xuất
hiện.
Cũng
như
vậy,
các
thực
thể
chỉ
xuất
hiện
khi
gặp
đúng
nhân
và
duyên
của
chúng,
ngược
lại
chúng
không
xuất
hiện
khi
không
gặp
đúng
nhân
và
duyên. Chúng
ta
có
thể
cảm
thấy
là
thí
dụ
về
ảo
thuật
này
không
còn
có
lý
trong
thời
này
nữa.
Ðiều
này
sẽ
không
đúng
nếu
chúng
ta
hiểu
ảo
thuật
với
một
ý
nghĩa
rộng
rãi
hơn.
Một
vài
bạn
có
thể
biết
đến
máy
chiếu
ánh
sáng
cực
mạnh
(tia
laser,la-de),
cho
hình
ảnh
3
chiều
của
một
vật.
Hình
ảnh
này
không
thực
sự
tồn
tại;
nếu
chúng
ta
vói
tay
lấy
vật
đó,
một
trái
táo
chẳng
hạn,
thì
nó
không
có
thật.
Khi
máy
chiếu
ra
vật
đó,
ta
thấy
ảnh
ảo
3
chiều
của
vật
xuất
hiện;
khi
vật
không
được
chiếu,
ảnh
ảo
cũng
không.
Giống
như
ảo
thuật
và
máy
chiếu,
kinh
nghiệm
xuất
hiện
có
liên
quan
với
sự
đúng
duyên
(và
nhân)
của
nó.
Các
kinh
nghiệm
không
xuất
hiện
khi
không
đúng
nhân
và
không
đúng
duyên. Giai
đoạn
ba,
chúng
ta
được
nhắc
nhỡ
hãy
xem
tất
cả
kinh
nghiệm
là
tương
quan,
tương
tác
nhau.
Ðiều
này
rất
gần
với
việc
xem
xét
tất
cả
kinh
nghiệm
như
một
trò
ảo
thuật.
Tất
cả
kinh
nghiệm
xuất
hiện
tương
quan
với
nhân
và
duyên.
Các
mầm
có
liên
hệ
với
hạt
giống,
đất,
ánh
sáng
mặt
trời
và
không
khí.
Ngọn
lửa
trong
một
ngọn
đèn
dầu
có
liên
hệ
với
bấc
và
dầu.
Cũng
vậy,
tất
cả
các
hiện
tượng
xuất
hiện
có
liên
hệ
với
nhân
và
duyên,
và
tất
cả
kinh
nghiệm
là
tương
tác
nhau. Trang
186.
Giai
đoạn
thứ
tư
trong
tiến
trình
nhận
thức
tiến
bộ
về
bản
thể
rốt
ráo
của
sự
vật
là:
xem
kinh
nghiệm
là
một
việc
không
thể
diễn
tả
ra
được.
Tính
tương
duyên
của
kinh
nghiệm
có
nghĩa
là
kinh
nghiệm
không
thể
giải
bày
là
có
hiện
hữu
hay
không
hiện
hữu,
là
giống
hay
khác
v.v....
Có
thể
nói
rằng
thực
thể
và
nhân
duyên
của
chúng
không
giống
mà
cũng
không
khác.
Chẳng
hạn,
không
thể
mô
tả
rốt
ráo
mầm
và
hạt
khác
nhau
hay
giống
nhau
được.
Kinh
nghiệm
nói
chung
không
thể
được
diễn
tả
tận
cùng,
giống
như
bị
thọt
lét
hoặc
cái
cảm
tưởng
làm
tình.
Cũng
như
vậy,
tất
cả
các
thực
thể
hiện
hữu
tùy
thuộc
vào
nhân
và
duyên,
không
thể
nói
ra
được
là
hiện
hữu
hay
không
hiện
hữu.
Vì
thế
giai
đoạn
sau
cùng
liên
hệ
đến
sự
quán
sát
tất
cả
các
sự
vật
là
‘không
diễn
tả
ra
được’
và
‘không
nói
ra
bằng
lời
được’. Trang
186.
Với
tiến
trình
bốn
giai
đoạn
(1.
xem
như
một
giấc
mơ,
2.
xem
như
trò
ảo
thuật,
3.
tương
quan
tương
duyên
và
4.
bất
khả
tư
nghì)
để
quán
sát
tất
cả
kinh
nghiệm
khi
dựa
vào
thức,
ta
có
thể
đi
đến
một
vài
kết
luận
về
quan
điểm
thực
tế
của
Bắc
truyền
(Ðại
thừa):
một
thực
tướng
rỗng
không
nhưng
tỏa
sáng,
ở
ngoài
sắc
và
không,
giống
và
khác,
và
trên
tất
cả
những
đối
đãi
của
vọng
tưởng.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002