Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Khởi thủy của đời sống là gì?
"Nầy
hỡi các đệ tử, khởi điểm của một cuộc hành trình xa xôi
nầy thật không thể quan niệm được. Chúng sanh bị bao trùm
kín mít trong màng Vô Minh. Bị dây Ái Dục trói buộc chặt
chẽ, không thể khám phá khởi điểm của cuộc luân chuyển
triền miên, cuộc hành trình vô định." -- Tạp A Hàm
---o0o---
Đối
với người Phật tử, tái sanh không phải là lý thuyết suông
mà là một sự kiện có thể chứng minh bằng những trường
hợp hiển nhiên đã xảy ra. Thuyết tái sanh là giáo lý căn
bản của Phật Giáo, mặc dầu mục tiêu cuối cùng của
Phật Giáo là Niết Bàn - sự chấm dứt tái sanh - có thể thành
đạt ngay trong kiếp sống hiện tại.
Lý tưởng của chư vị Bồ Tát, hay
Bồ Tát Đạo, và giáo lý về con đường giải thoát cũng đều
đặt nền tảng trên thuyết tái sanh.
Những văn kiện lịch sử trong tư tưởng
nhân loại có ghi nhận rằng thuyết luân hồi, xem như sự
chuyển linh hồn hay đầu thai, đã được các triết gia như
Pythagore, các thi hào như Shelley, Tennyson, Wordsworth và nhiều nhân
vật khác ở phương Đông cũng như phương Tây chấp nhận.
Ta không nên lẫn lộn giáo lý tái
sanh của Phật Giáo với thuyết chuyển sinh linh hồn, hay đầu
thai, của một vài hệ thống tín ngưỡng khác, bởi vì Phật
Giáo không nhìn nhận có sự chuyển sinh của một linh hồn trường
cửu, do một Thần Linh tạo ra hay phát xuất từ một Đại
Hồn (Paramatma).
Chính Nghiệp, tức hành động, tạo
điều kiện để tái sanh. Nghiệp quá khứ tạo điều kiện
để tái sanh trong kiếp hiện tại. Nghiệp hiện tại phối
hợp với nghiệp quá khứ, tạo điều kiện để tái sanh
trong kiếp vị lai. Hiện tại là con đẻ của quá khứ và
trở nên cha mẹ của tương lai.
Hiện tại là một sự thật hiển
nhiên, không cần phải chứng minh. Quá khứ được ghi nhận
trong trí nhớ hay một nơi nào khác như báo chí , sách vở v.v...
và ý niệm về tương lai căn cứ trên những kế hoạch đặt
trước, những suy luận, những tính toán sẽ thực hiện.
Nếu quả quyết rằng có quá khứ,
hiện tại, và tương lai thì tức nhiên ta phải đứng trước
một vấn đề: Nguồn gốc tối hậu của đời sống là gì?
Khởi điểm của đời sống ở chổ nào?
Để giải đáp, có luồng tư tưởng
chủ trương rằng nguyên nhân đầu tiên của đời sống là
một nguyên lý, một năng lực của vũ trụ, hay một Thần
Linh toàn năng. Một luồng tư tưởng khác không nhận có nguyên
nhân đầu tiên vì theo kinh nghiệm chung, trong chuỗi dài nhân
và quả, nhân sanh quả, quả trở thành nhân, mãi mãi liên
tục như thế, không thể quan niệm một khởi điểm.
Theo luồng tư tưởng thứ nhất thì
đời sống có một khởi điểm [1]. Hệ thống thứ nhì chủ
trương không có khởi điểm. Theo sự nhận xét của một vài
nhân vật, quan điểm cho rằng mọi vật phải có một nguyên
nhân đầu tiên cũng vô lý như ta quan niệm có hình tam giác mà
lại tròn.
Có thể biện giải rằng đời sống
phải bắt đầu trong một quá khứ vô định nào và khởi điểm
ấy tức là Tạo Hóa. Trong trường hợp ấy không có lý do nào
ta không thể nêu lên thêm một câu hỏi:"Còn nguyên nhân
nào sanh ra Tạo Hóa?"
Trong những môn phái chủ trương có
nguyên nhân đầu tiên, có rất nhiều quan điểm khác nhau.
Nhiều giáo chủ và triết gia đã dùng danh từ khác nhau như
Paramatta, Brahma, Isvara, Thượng Đế, Đấng Toàn Năng, Allah, Đức
Chúa Trời, Đức Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa, Luật Tuần Hườn,
Nguyên Nhân Vô Nhân, Bản Thể Thần Linh, Pakati, Padhana v.v...
Theo Ấn Độ Giáo, tất cả những
Atma, hay linh hồn, đều phát sanh từ Đại Hồn (Paramatma), và
từ kiếp nầy đầu thai sang kiếp khác, đến chừng nào linh
hồn ấy hợp đủ điều kiện để nhập trở về Đại Hồn.
Ta có thể nên lên một câu hỏi: -"Vậy linh hồn (atma)
ấy, khi đã nhập vào Đại Hồn, có còn phải xuất ra khỏi
Đại Hồn nữa để đầu thai không?"
Cơ Đốc Giáo chủ trương có nguyên
nhân đầu tiên. Nguyên nhân ấy là Đấng Thượng Đế Toàn Năng,
và mọi việc trong đời sống đều do nơi ý muốn của Ngài.
Khi đề cập đến vấn đề nầy,
Schopenhaeur viết:
"Người nào tự cho rằng mình
được sanh ra từ hư-không phải nghĩ rằng mình sẽ trở thành
hư-không. Như vậy, trước đời sống đã có một quá khứ vô
tận. Rồi một tương lai vô tận lại bắt đầu, và xuyên
qua cả quá khứ, hiện tại, và vị lai, ấy mình không bao
giờ ngừng sống, thật là một ý nghĩ quái dị.
"Hơn nữa nếu tái sanh vào thời
điểm tuyệt đối thì chết tức nhiên là phải chấm dứt
sự tuyệt đối, và quả quyết rằng con người được sanh
ra từ hư vô, bắt buộc phải dẫn đến kết luận rằng sau
cái chết tuyệt đối không còn gì nữa." [2]
Spencer Lewis cũng luận rằng:
"Theo những nguyên tắc Thần
học, con người được sanh ra một cách độc đoán, không
được thăm dò ý muốn trước khi sanh, và khi ra đời, không
có phước báu cũng không tội lỗi, không sang không hèn, từ
bước đầu tiến trình của kiếp sống đến hơi thở cuối
cùng. Không ai cần biết đến những ý nguyện, những ước
vọng, những điều mong mỏi, những mục tiêu tranh đấu, hay
những lời nguyện với tất cả tâm thành của một cá nhân.
Đó là tính cách tiền định của thuyết Thần Học.
"Giáo thuyết chủ trương rằng
tất cả mọi người đều tội lỗi từ lúc ra đời và tội
truyền kiếp ấy đã được gây nên do một lỗi lầm của
Adam, là một thách đố công lý, thách đố tình thương, lòng
từ ái, và tánh cánh vô tư vạn năng."
Huxley nói:
"Nếu chúng ta nhận định rằng
có một nhân vật nào cố tình tạo nên vũ trụ nầy và làm
cho nó sống thì theo ý tôi, rỏ ràng nhân vật ấy không từ
ái và công bình, mà theo sát nghĩa của danh từ, lại còn có
ác tâm và bất công."
Theo Einstein:
"Nếu nhân vật ấy toàn năng,
tức nhiên mỗi điều gì xảy ra, mỗi hành động, tư tưởng,
của con người, mỗi cảm giác và nguyện vọng của con người,
đều là công trình của Ngài. Vậy thì làm sao có thể nghĩ
rằng con người bị bắt buộc phải chịu trách nhiệm về
những hành động và tư tưởng của mình trước Đấng Thần
Linh Vạn Năng ấy?
"Khi ban bố những hình phạt và
phần thưởng thì chính nhân vật ấy, trong một giới hạn nào,
cũng tự phán xử lấy mình. Làm sao sự kiện nầy có thể phù
hợp với lòng từ thiện và đức tánh công minh chánh trực mà
ta gán cho Ngài?"
Theo Charles Bradlaugh:
"Sự hiện hữu tội lỗi trong
thế gian là một trở ngại khủng khiếp cho những người tin
theo chủ nghĩa hữu thần. Đau khổ, khốn cùng, tội ác, bần
cùng, đối chiếu với lòng bác ái vĩnh cửu, và thách đố
một câu giải đáp về những lời tuyên bố của vị Thần
Linh được xem là Toàn Thiện, Toàn Tri Và Toàn Năng."
Khi đề cập đến vấn đề Thượng
Đế và nổi đau khổ của nhân loại. Giáo sư Javana B. S.
Haldane viết:
"Có hai lẽ, hoặc đau khổ là điều
kiện tất yếu để con người cải thiện tâm tánh mình,
hoặc Thượng Đế không Toàn Năng.
"Có người đau khổ ít nhưng tâm
tánh thật tốt nhờ có diễm phúc được sanh trưởng vào
một gia đình có gia giáo, sự kiện nầy đánh đỗ lẽ thứ
nhất.
"Về điểm thứ nhì, nếu ta quy
trách nhiệm về một Thần Linh Toàn Năng, tức nhiên vị nầy
có thể tạo nên mọi việc theo ý muốn. Đàng khác, nếu quan
sát toàn thể vũ trụ ta sẽ thấy một vài khuyết điểm
cần phải sửa sai. Và một đấng Tạo hóa có thể tạo bất
luận gì Ngài muốn." [3]
Trong một cơn tuyệt vọng vào lúc
về già, thi hào Lord Tennyson cũng đã mạnh mẽ phản đối Thượng
Đế là nhân vật đã từng nói, như có ghi trong kinh Isaiah,
"Ta tạo hòa bình và tội lỗi" (Isaiah XXV, 7):
"Thế nào? Tôi có thể xem đó là tình thương vô hạn
đã phục vụ chúng ta tốt đẹp chăng?
Hay đó là sự hung bạo vô tận, sự hung bạo đã tạo nên địa
ngục trường cửu?
Đã tạo ra ta, biết trước chúng ta, đã phán xử chúng ta, và
Thượng Đế mặc tình làm tất cả theo ý riêng của mình.
Bà mẹ đã qua đời có may mắn hơn, vì bà không còn nghe
tiếng thì thầm than thở của chúng ta."
Những tác giả độc đoán thời xưa
đã tuyên bố rằng Thượng Đế tạo con người theo hình
ảnh của Ngài. Một vài tư tưởng gia hiện đại, trái lại,
nói rằng chính con người tạo Thượng Đế theo hình ảnh
của mình.
Văn hào Voltaire cho rằng Thượng Đế
là sản phẩm cao quý nhất mà con người đã tạo [4].
Với sự trưởng thành của nền văn
hóa nhân loại, quan niệm của con người về Thượng Đế cũng
dần dần được cải thiện. Hiện nay có một khuynh hướng
thay thế Thượng Đế hữu ngã bằng một Thượng Đế vô ngã.
Dầu sao không thể quan niệm một nhân
vật tương tợ, biết tất cả mọi việc và có mặt ở
khắp mọi nơi, một kết tinh của tất cả những gì tốt đẹp
ở trong hay ở ngoài vũ trụ.
Khoa học hiện đại cũng cố gắng
theo sát vấn đề với sự hiểu biết hệ-thống-hóa có
giới hạn của mình. Theo khoa học ta là sản phẩm trực
tiếp của tinh trùng và minh châu của cha mẹ. Nhưng khoa học
không giải thích thỏa đáng phần tâm linh là thành phần vô
cùng quan trọng hơn cơ thể vật chất trong guồng máy phức
tạp của con người. Trong khi quả quyết "omne vivum ex
vivo", tất cả đời sống đều do đời sống sanh ra, khoa
học cũng chủ trương rằng tâm và sự sống được sanh ra
từ chỗ không có sự sống.
Theo quan điểm của khoa học, chúng
ta được sanh ra hoàn toàn do nơi cha mẹ. Vậy, trước đời
sống của ta, bắt buộc phải có đời sống của cha mẹ ta
v.v... Do đó, "trước đời sống có đời sống", mãi
mãi đến nguyên sanh chất (protoplasm) đầu tiên. Nhưng đến
đây khoa học không thể giải thích do đâu có nguyên sanh
chất đầu tiên ấy.
Trước
vấn đề khởi thủy của sự sống, thái độ của Phật Giáo
như thế nào?
Trước tiên ta phải nhận định
rằng Đức Phật không có ý giải quyết tất cả những vấn
đề luân lý và triết học của nhân loại. Đức Phật không
hề đề cập đến những vấn đề nào không hướng về sự
cải thiện con người hay về sự giác ngộ. Đức Phật cũng
không đòi hỏi ở tín đồ một đức tin mù quáng về nguyên
nhân đầu tiên của đời sống, cũng như về các vấn đề
khác.
Thuở nọ có một vị tỳ khưu tên
Malunkyaputta, cảm thấy lối tu giải thoát từng bậc của Đức
Phật rất chậm chạp nên ân cần bạch với Đức Phật
rằng Ngài chưa hề đề cập đến nguồn gốc của đời
sống, và nếu Ngài không giải thích liền điểm ấy thì
thầy sẽ từ bỏ đời tu sĩ để hoàn tục. Vị tỳ khưu nói:
"Bạch Đức Thế Tôn, những lý
thuyết nầy chưa được Ngài giải thích rõ ràng minh bạch.
Ngài đã gác vấn đề ấy qua một bên, không dạy đến
rằng thế gian có vĩnh cửu không, thế gian có giới hạn hay
vô cùng tận? Nếu Đức Thế Tôn giải rõ những điều ấy
con sẽ tiếp tục đi theo Ngài để sống đời tu sĩ thanh cao.
Nếu không, con sẽ giã từ Ngài.
"Nếu Đức Thế Tôn biết chắc
rằng thế gian là vĩnh cửu thì xin Ngài giải thích minh bạch
cho con rằng thế gian là vĩnh cửu, Nếu Đức Thế Tôn biết
chắc rằng thế gian không vĩnh cửu, xin Ngài giải rõ cho con
rằng thế gian không vĩnh cửu. Chắc chắn trong trường hợp
nầy, đối với người không hiểu biết và không giác ngộ
thì điều đáng làm hơn hết là phải nói rằng: tôi không
biết, tôi chưa giác ngộ".
Đức Phật thản nhiên, chậm rãi
hỏi vị tỳ khưu lầm lạc kia có phải ông ta xuất gia đi tu
với mục đích giải quyết những vấn đề tương tợ như
thế không?
- Bạch Đức Thế Tôn, không .
Đức Phật khuyên thầy tỳ khưu không
nên lãng phí thời gian và năng lực trong những việc chỉ làm
chậm trễ tiến bộ tinh thần của mình.
Ngài dạy:
"Nầy Malunhyaputta, kẻ nào nói
rằng, ta quyết không xuất gia theo Đức Như Lai để sống đời
đạo hạnh trước khi Ngài giải rỏ cho ta điều ấy - kẻ
ấy sẽ chết trước khi nghe Như Lai giải thích.
"Thí dụ có một người kia bị
bắn sâu vào mình một mũi tên có tẩm thuốc độc. Bạn bè
thân quyến chạy đi tìm lương y để cứu chữa.
"Trong lúc ấy bệnh nhân nói: tôi
sẽ không cho ai rút mũi tên nầy ra, trước khi giải thích
tận tường về nguồn gốc của mũi tên, người nào bắn tôi,
bản chất của mũi tên là thế nào v.v..., người ấy sẽ
chết trước không được nghe giải thích.
"Cũng cùng thế ấy, kẻ nào nói:
- ''Tôi sẽ không theo Đức Như Lai để sống đời tu sĩ trước
khi Ngài giải rỏ cho tôi thế gian có vĩnh cửu hay không,
thế gian có giới hạn không, hay vô cùng tận...", kẻ
ấy sẽ chết trước khi được nghe Đức Thế Tôn giải thích.
"Nếu tin rằng thế gian nầy là
trường tồn vĩnh cửu, chính sự tin tưởng ấy có phải là
đời sống phạm hạnh của bậc tu sĩ không?
- Dạ, không.
- "Tuy nhiên, dầu tin rằng thế
gian là vĩnh cửu hay không, vẫn có sanh, có già, có chết.
Chấm dứt sanh, lão, bệnh, tử là điều mà Như Lai hằng
giảng giải .
"Nầy Maluankyaputta, Như Lai không
hề nêu lên vấn đề thế gian có vĩnh cửu hay không, thế
gian có giới hạn hay vô cùng tận. Tại sao?
"Bởi vì những điều ấy không
ích lợi, không thể làm nền tảng cho đời sống phạm hạnh,
không chấm dứt sân hận, phiền não, không dẫn đến sự
dập tắt, trạng thái vắng lặng, trí tuệ giác ngộ hay là
Niết Bàn. Vì vậy Như Lai không đề cập đến vấn đề ấy.
" [5]
Theo Phật Giáo, chúng ta được sanh
ra từ cái bào thai hành động (Kammayoni). Chính hành động hay
Nghiệp của ta trong quá khứ là cái bào thai nuôi dưỡng và
tạo điều kiện để tái sanh. Cha mẹ cấu hợp nền tảng
vật chất. Như vậy, trước chúng sanh có chúng sanh. Trước
một chúng sanh trong kiếp hiện tại phải có một chúng sanh
trong kiếp quá khứ. Lúc thọ thai, chính Nghiệp tạo điều
kiện cho thức đầu tiên làm nguồn sống cho thai bào. Chính
Nghiệp lực vô hình, phát sanh từ kiềp quá khứ, tạo những
hiện tượng tâm linh và những hiện tượng sinh khí trong
một hiện tượng vật lý sẵn có - tức tinh trùng và minh châu
của cha mẹ - để gồm đủ ba yếu tố, tam nguyên, cấu thành
con người.
Đề cập đến vấn đề thọ thai,
Đức Phật dạy:
"Nơi nào có ba yếu tố ấy hợp
lại là mầm sống khởi sanh. Nếu cha và mẹ gặp nhau mà không
nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và không có một chủng tử
(Gandhabba) thì không có mầm sống. Nếu cha mẹ gặp nhau trong
thời kỳ thọ thai của mẹ mà không có sự phối hợp của
một chủng tử (Gandhabba) thì cũng không có mầm sống. Nều
cha mẹ gặp nhau nhằm thời kỳ thọ thai của mẹ và có một
chủng tử thì có mầm sống, do sự phối hợp của ba yếu
tố. [6]"
Gandhabba ở đây không có nghĩa là
"một vị trời mà người ta cho rằng có bổn phận
chứng kiến việc thọ thai" [7] hay một mụ bà, mà chỉ là
một chủng tử, hay yếu tố nòng cốt trong bào thai. Danh từ
Gandhabba chỉ dùng trong trường hợp đặc biệt nầy thôi. Ta
không nên lầm lẫn với một linh hồn trường củu.
Có sự tái sanh ở chỗ nầy tức nhiên
phải có một chúng sanh chết ở một nơi nào khác. Nói một
cách chính xác, cái sanh của một chúng sanh, tức sự cấu
hợp của ngũ uẩn (Khandhanam patubhavo), hay những hiện tượng
tâm-vật-lý trong kiếp hiện tại, chuyển tiếp liền theo cái
chết của một chúng sanh vừa qua đời, cũng giống như ta thường
nói, khi mặt trời lặn ở một nơi tức là mặt trời mọc
ở một nơi khác. Câu nói có vẽ bí hiểm ấy có thể rỏ ràng
và dễ hiểu hơn nếu ta hình dung đời sống như một lượn
sóng, chớ không phải như một đường thẳng. Lượn sóng
nổi lên, rồi hạ xuống để bắt đầu lượn sóng mới. Tuy
hai lượn sóng khác nhau nhưng không có một thời gian gián đoạn.
Sanh và tử chỉ là hai giai đoạn trong một tiến trình. Sanh
rồi tử, tử rồi sanh, sự luân lưu bất tận sanh-tử,
tử-sanh của chuỗi dài những kiếp sống gọi là luân hồi (samsara),
một cuộc đi bất định, mãi mãi và không mục đích. [8]
Nguồn
gốc của đời sống là gì?
Đức Phật tuyên bố rõ ràng rằng
không thể biết được giới hạn sự luân lưu của những
kiếp sống trong vòng luân hồi. Chúng sanh, bị lớp vô minh
bao trùm và những dây ái dục trói buộc, mãi mãi thênh thang
trong vòng luân hồi. Khởi điểm của cuộc hành trình xa xôi
ấy không thể nhận ra.
Đời sống tựa hồ như dòng nước
chảy trôi vô cùng tận. Ngày nào còn tiếp nhận nước bùn
của vô minh và ái dục thì dòng đời còn trôi chảy và chỉ
ngưng khi nào vô minh và ái dục hoàn toàn bị cắt đứt.
Chừng ấy thì không còn tái sanh nữa, như trường hợp chư
vị A La Hán. Ta không thể xác định khởi điểm của dòng đời.
Nguồn gốc và lịch trình tiến hóa của vũ trụ, Đức Phật
không đề cập đến.
Chú thích:
[1] "Không có lý do nào để giả
định rằng thế gian có một khởi điểm. Ý niệm chủ trương
sự vật phải có một khởi điểm phát sanh do trí tư tưởng
nghèo nàn." Bertrand Russel - "Why I am not a Christian".
[2] Xem "The World as Will and
Idea".
[3] Xem bài viết của ông về "A
plea for Atheism - Humanity's Gain from Unbelief".
[4] "Rõ ràng không thể chứng
minh một cách chính xác sự hiện hữu của Thượng Đế. Cho
đến nay, hầu hết các chứng minh đều nêu lên trong tiên đề
như dẫn chứng, những gì sẽ phải được chứng minh ở
phần kết luận". Reverend W. Kirkus trong "Orthodoxy
Scripture and Reason", trang 34.
"Ta được hướng dẫn đến
chổ phải nhìn nhận rằng có những tội lỗi xấu xa trong vũ
trụ. Và đó là trách nhiệm của Thượng Đế. Chúng ta không
thể phủ nhận khuyết điểm của Thượng Đế đã cho tội
lỗi và đau khổ tồn tại." Canon C. E. Raven trong "The
Grounds of Christian Assumption".
[5] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm, Cula
Malunkya sutta, số 63.
[6] Majjhima Nikaya, Trung A Hàm,
Mahatanhasamkhaya sutta, số 38.
Mặc dầu đèn có sẵn tim và dầu,
nhưng nếu không có ngọn lửa từ bên ngoài châm vào ắt không
có ánh sáng.
[7] Xem F. L. Woodward, "Some Sayings
of the Buddha", trang 40.
[8] Anamataggo' yam bhikkhave samsaro,
pubbakoti na pannayati avjjanivarananam sattanam tanhasamyojananam
sandhavatam.
"Khởi điểm, hỡi các đạo
hữu, thật không thể đo lường hay tính toán được. Lịch
trình diễn tiến của nó cũng vậy. Cái điểm đấu tiên
của cuộc chạy dài đăng đẳng của những chúng sanh bị che
lấp kín mít trong vô minh và bị trói chặt vào ái dục, quả
thật chưa được khám phá". F. L. Woodward, "Kindred
Sayings", phần iii, trang 118.
"Không thể quan niệm được điểm
khởi đầu của vòng luân hồi. Không thể khám phá được
khởi điểm nguyên thủy của chúng sanh vốn bị che lấp trong
màn vô minh và dính mắc trong ái dục, đang vội vã, hấp
tấp, chạy đảo điên xuyên qua vòng sanh tử liên tục tiếp
diễn" -- Nyanatyloka Thera.
Samsara, luân hồi, theo đúng nghĩa uyên
nguyên của danh từ, là cuộc đi thênh thang bất định và không
ngừng. Sách Atthasalini định nghĩa danh từ Samsara như sau:
Khandhanam patipati
dhatu-ayatanana ca
Abbhocchinam vattamana samsaro ti pavuccati.
Samsara, luân hồi, là
sự tiếp diễn không ngừng của ngũ uẩn, tứ đại và lục
căn.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com