|
Không cần phải nói, Phật giáo tin
tưởng ở tác dụng của cầu siêu. Thế
nhưng, tác dụng ấy có giới hạn nhất
định. Cầu siêu chỉ là một sức mạnh
thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ
yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện
làm thiện là thời gian khi người đang
còn sống. Sau khi người chết rồi, chính
người sống tổ chức lễ cầu siêu cho
người chết và hồi hướng công đức
tu thiện làm thiện của mình cho người
chết. Kinh Địa Tạng cho biết, lợi ích
của lễ cầu siêu có bảy phần, thì sáu
phần thuộc về người còn sống (tức
là người tổ chức lễ cầu siêu) còn
chỉ có một phần lợi ích thuộc về
người đã chết.
Đồng thời, Phật giáo chính tín, đối
với phương thức lễ cầu siêu, có quan
niệm hơi khác với tập tục dân gian.
Nói siêu độ là nói độ thoát cõi
khổ, siêu thăng đến cõi vui, là dựa
vào cảm ứng của nghiệp lực tu thiện
của bạn bè, gia thuộc người chết,
chứ không phải do một mình tác dụng
tụng kinh của tăng ni. Đó là sự cảm
ứng do phối hợp nghiệp thiện của
người tổ chức siêu độ và sự tu
trì của người tụng kinh (chú 3).
Do đó, Phật giáo chính tín cho rằng, chủ
thể của công việc cầu siêu không phải
là tăng ni mà là gia thuộc của người
chết. Gia thuộc người chết, trong giờ
phút lâm chung, nếu biết đem các đồ
vật ưa thích của người sắp chết, cúng
dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo, và
làm cho người sắp chết hiểu rõ, đó
là làm công đức hộ cho anh ta, thì sẽ
có tác dụng rất lớn đối với vong
linh người chết. Đó là do sự cảm
ứng của một niệm thiện nghiệp, do tâm
người lúc lâm chung được an ủi, nhờ
vậy mà nghiệp thức của người chết
hướng tới cõi lành. Đó không phải
là mê tín, đó là đạo lý tâm thiện
hướng tới cõi thiện. Nếu khi người
thân đã chết mà con cháu, gia thuộc có
lòng thành kính thiết tha, tổ chức trai
tăng, bố thí, làm điều thiện lớn, tỏ
lòng hiếu thảo khẩn thiết cũng có thể
có cảm ứng, giúp cho vong linh được
siêu linh cõi thiện. Thế nhưng, tác dụng
không bằng việc làm khi người đang còn
sống, chưa chết. Khi người con có lòng
hiếu chí thành, như khi Bồ Tát Địa
Tạng, để cứu mẹ mà phát lời nguyện
đại bi, nguyện vì để cứu mẹ mà
đời đời kiếp kiếp sẽ cứu độ
chúng sinh ra khỏi biển khổ. Dựa vào
sức mạnh của lời nguyện vĩ đại ấy,
mà cảm thông được với người chết,
giúp người chết giảm bớt hay trừ bỏ
được tội ác. Đó không phải là mê
tín, mà là sự cảm thông của lòng
hiếu vĩ đại, của tâm nguyện vĩ đại,
khiến cho tâm lực và nguyện lực của
người siêu độ hòa nhập và cảm
thông với nghiệp lực của người siêu
độ, cả 2 thông suốt cùng một khí,
nhờ vậy, mà người chết được siêu
độ. Vì vậy đối với Phật giáo chính
tín, con cái gia thuộc nếu muốn cứu độ
người chết, thì nên làm các việc như
cúng dường Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo,
chứ không nhất thiết phải mời Tăng Ni
đến tụng kinh. Tăng Ni khi được cúng
dường, thì chỉ chú nguyện cho thí chủ
mà thôi. Vì Tăng Ni tụng kinh là công
việc làm hàng ngày của họ trong các
khóa lễ, tụng kinh là một phương pháp
tu hành, mục đích của tụng kinh không
phải là để siêu độ người chết. Thí
chủ cúng dường chư Tăng là để cho
chư Tăng có thể tu hành và đạt mục
đích của tu hành. Phật giáo tuy có nói
tụng kinh để siêu độ người chết,
nhưng đó là hy vọng mọi người đều
tụng kinh. Chỉ trong trường hợp mình
không biết tụng kinh hay là tụng kinh quá
ít, mới thỉnh Tăng Ni tụng kinh thay cho
mình. Thực ra, chức năng của Tăng Ni
là duy trì đạo Phật ở thế gian, lấy
Phật pháp để hóa độ chúng sinh, chứ
không phải chuyên làm việc siêu độ cho
người chết. Công đức của tụng kinh
là nhờ ở lòng tin Phật pháp và tu
hành Phật pháp, cho nên không phải chỉ
có Tăng Ni mới tụng kinh, lại càng
không phải chỉ khi có người chết mới
tụng kinh. Hơn nữa, thời hạn siêu độ
tốt nhất là trong vòng 49 ngày. Bởi vì,
Phật giáo tin rằng, chỉ trừ những
trường hợp như người có phúc nghiệp
lớn, chết thì tái sinh ngay ở sáu cõi
trời Dục giới, hay là những người tu
định có kết quả, khi chết thì tái sinh
ở các cõi trời Thiền định, hay là
người có ác nghiệp nặng, chết thì
đọa địa ngục lập tức; còn thì đối
với người bình thường mà nói, chết
xong còn trải qua thời gian 49 ngày chờ
đợi cho nghiệp duyên chín mùi mới
quyết định tái sinh ở cõi nào. Nếu
trong thời gian này mà con cái, thân
nhân biết lấy công đức cúng dường
Tam Bảo, bố thí kẻ nghèo để hồi
hướng cầu siêu độ thì người chết,
nhờ công đức thiện nghiệp ấy cảm
ứng hỗ trợ mà được sinh lên cõi
thiện (Trời, Người) và được siêu
độ. Nếu để qua 49 ngày mới tổ chức
cầu siêu thì chỉ có thể tăng thêm
phúc đức cho người đó, chứ không
thể ảnh hưởng gì đến hướng tái sinh
của họ nữa.
Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, trong
trường hợp người thân bị chết oan,
chết thê thảm, do oan trái chưa trả cho
nên có thể sinh ở cõi quỷ, và tiếp
tục vòi vĩnh, đòi hỏi đối với
người. Thông thường, người ta gọi
đó là quỷ ám. Trong trường hợp đặc
biệt này, thì cần có tụng kinh siêu
độ (nghĩa là thuyết pháp cho quỷ nghe
để cho quỷ rõ hướng đi). Nhờ Phật
lực giúp cho vong linh tái sinh ở cõi
thiện. Phật giáo thường gọi cõi quỷ
là "ngã quỷ" (quỷ đói), cho
nên thường dùng mật pháp (như trì chú
biến thực, thí thực) để giúp đỡ,
tạo ra tác dụng lớn, đặc biệt là
đối với loại quỷ lành. Công việc
Phật sự đặc biệt này, các tôn giáo
khác, kể cả Thần giáo đều không
biết.
Đương nhiên, những điều nói trên
đây đều là nói theo lập trường đạo
Phật. Ở Trung Quốc, người mời Tăng Ni
đến tụng kinh siêu độ, đôi khi không
phải là Phật tử mà lại là "nho
gia chính cống". Như gần đây, có
ông Đường Quân Nghị vốn là một tân
nho danh tiếng, khi mẹ ông chết, ông qua
Hương Cảng làm Phật sự, và đặt linh
vị mẹ tại chùa Phật. Ông than rằng,
trong việc này, triết học của ông tỏ ra
bất lực. Ông vẫn giữ quan niệm
"tế như tại" (tế người chết
như là tồn tại trước mặt) của Nho gia
để tự an ủi mình. Những trường hợp
như vậy rất nhiều. Khuyến khích họ làm
việc đó theo đúng quan niệm Phật giáo
thực ra không phải là dễ. Và đó
cũng là một vấn đề lớn đặt ra cho
Phật giáo vậy.
Phật giáo tin tưởng vững chắc rằng,
công đức do mình tu tập, có thể hồi
hướng cho người khác được hưởng.
Hồi hướng là chuyển từ phía mình, sang
phía người khác. Đó là một sự cảm
ứng tâm lực. Tâm lực của mình,
thông qua nguyện lực của chư Phật, Bồ
Tát mà đạt tới đối tượng của sự
hồi hướng. Cũng như ánh sáng mặt
trời, thông qua vật phản xạ như tấm
gương, mảnh kinh loại, mà được khúc
xạ, chiếu dọi vào các góc tối tăm.
Ở trong nhà cũng vậy. Các góc tối ở
trong nhà tuy không trực tiếp được
ánh sáng mặt trời chiếu đến nhưng
vẫn tiếp thu được ánh sáng mặt trời
phản chiếu.
Đồng thời, tuy có hồi hướng công
đức cho người khác nhưng bản thân
công đức của mình không bị hao hụt gì
hết. Trong kinh Phật, có nêu ví dụ : Một
cái đèn sáng, có thể dùng để châm
sáng cho nhiều cái đèn khác, nhưng ánh
sáng của cái đèn thứ nhất vẫn không
bị giảm bớt.
Do đó, các Phật tử chính tín, một khi
làm nên một công đức gì đều nên
phát nguyện hồi hướng đến hết cả
chúng sinh cùng được hưởng. Đó cũng
là một biểu hiện tự nhiên của lòng
từ bi.
Phật giáo trả lời khẳng định. Phật
giáo cho rằng tất cả chúng sinh, trừ
các bậc đã giải thoát khỏi sinh tử
(các vị A La Hán của Tiểu thừa giáo)
hay là các bậc đã tự chủ đối với
sinh tử (các bậc thánh Bồ Tát của
Đại thừa), còn thì tất cả đều ở
trong vòng sinh tử luân hồi.
Luân hồi là trôi dạt, nổi lên chìm
xuống trong vòng sinh tử, chứ không
giống như cái bánh xe quay vòng. Phạm vi
luân hồi bao gồm sáu cõi sống, Phật
giáo gọi là 6 đạo, kể từ trên xuống
là cõi Trời, cõi Người, cõi Tu La
(thần đạo), cõi súc sinh, cõi quỷ, cõi
địa ngục. Sáu cõi này là phạm vi luân
hồi sinh tử của những chúng sinh sống
giữ 5 giới 10 thiện hay là phạm 10 ác,
5 tội nghịch (là giết cha, giết mẹ, phá
hòa hợp Tăng, giết A La Hán, làm chảy
máu Phật). Năm giới, 10 thiện chia thành
4 phẩm (thượng, trung, hạ) : sinh làm
loài trời, loài người, A-tu-la. Mười
ác, 5 tội nghịch cũng chia làm 3 phẩm
(thượng, trung, hạ) : sinh làm súc sinh,
làm quỷ, hay là ở nơi địa ngục. Làm
nghiệp thiện thì sinh ở 3 cõi trên, làm
nghiệp ác thì sinh ở 3 cõi dưới. Trong
mỗi cõi sống như vậy, hưởng hết
phúc, hay là chịu hết tội báo là chấm
dứt một kỳ sinh tử, mở ra một kỳ
sinh tử khác. Luân chuyển trong sáu cõi
sống như vậy, sống rồi chết, chết rồi
lại sống một đời khác, như vậy gọi
là luân hồi.
Đặc biệt, Phật giáo tin rằng, phạm vi
luân hồi sinh tử tuy là có 6 cõi, nhưng
cõi người là chủ đạo, vì chỉ ở
cõi người, chúng sinh vừa có thể gieo
các nhân thiện hay ác nghiệp, vừa chịu
quả báo. Còn ở các cõi sống khác,
chúng sinh chỉ có một chiều hướng phúc
báo, không có cơ hội tạo nghiệp mới.
Còn ở 3 cõi khổ, súc sinh, quỷ đói,
địa ngục thì chúng sinh một chiều chịu
quả báo khổ, không có năng lực phân
biệt được thiện, ác. Chỉ có ở cõi
Người, chúng sinh vừa thụ quả báo vui,
vừa chịu quả báo khổ, lại có thể
phân biệt được thiện, ác. Phật giáo
cho rằng, nghiệp lực tạo tác, chủ yếu
diễn ra trên bình diện tâm thức. Nếu
trên bình diện tâm thức, không có cơ
hội, hay không có năng lực phân biệt
thiện, ác thì không có tạo nghiệp. Vì
vậy mà Phật giáo rất coi trọng trách
nhiệm của hành vi thiện, ác nơi cõi
người.
Chính vì, nhân chủ yếu tạo nghiệp là
ở cõi người, cho nên chúng sinh tái
sinh lên cõi Trời, hay là đọa xuống
các cõi ác đều có cơ hội đọa xuống
hay thăng lên, chứ không có chuyện
đọa xuống vĩnh viễn hay là thăng lên
vĩnh viễn.
Chúng sinh ở cõi Người, tạo nghiệp
nhân có thiện có ác, có nghiệp nặng,
có nghiệp nhẹ. Con người trong cuộc
đời tạo ra nhiều nghiệp khác nhau, hoặc
thiện, hoặc ác, hoặc nhiều hoặc ít,
hoặc nặng, hoặc nhẹ. Do đó mà cơ hội
chịu báo cũng trước, sau khác nhau. Do
đó một người, khi thọ mạng một đời
hết, có thể bị chi phối bởi ba lực
hấp dẫn, dẫn người ấy đi tái sinh.
Một là tùy theo trọng lượng của
nghiệp trong một đời, nếu nghiệp thiện
có tỷ trọng lớn hơn nghiệp ác, thì
người ấy sẽ tái sinh vào cõi thiện;
nếu tỷ trọng của nghiệp sinh thiện nặng
hơn nghiệp sinh làm người, thì người
ấy sẽ sinh thiên, tức là sinh lên các
cõi Trời. Nếu nghiệp ác chiếm tỷ
trọng lớn hơn nghiệp thiện, thì người
ấy phải bị tái sinh ở các cõi ác;
nếu nghiệp địa ngục nặng hơn nghiệp
làm súc sinh, thì người ấy phải bị sinh
ở địa ngục, trước là chịu quả báo
của nghiệp nặng rồi sau mới lần lượt
chịu quả báo của những nghiệp nhẹ hơn.
Thứ hai là tùy theo tập quán. Một
người trong đời, không làm nghiệp
thiện lớn, cũng không làm nghiệp ác
lớn, nhưng trong đời lại có một thói
quen đặc biệt mạnh mẽ, và khi chết, họ
sẽ tái sinh theo hướng của thói quen
đó. Vì vậy tu thiện, học Phật, chủ
yếu là dựa vào sự nỗ lực hàng
ngày.
Thứ ba là tùy niệm, hướng tái sinh
được quyết định bởi tâm niệm của
người lâm chung. Khi lâm chung mà có
tâm niệm ác liệt như sợ hãi, lo lắng,
tham lam, giận dữ v.v
, thì sẽ rất
khó tránh được tái sinh vào cõi ác.
Vì vậy mà Phật giáo khuyên đối với
người hấp hối sắp chết, hay vừa mới
chết, gia thuộc bà con không được
khóc, mà nên thay mặt người thân (sắp
chết hay mới chết) làm các việc tu
phúc, bố thí, và nói cho người thân
đó biết là làm công đức vì họ, thay
cho họ. Đồng thời kể lại cho họ biết
mọi việc thiện người ấy đã làm trong
đời, làm cho tâm của người ấy
được an ủi, vui vẻ. Mọi người nên
lớn tiếng niệm danh hiệu Phật, làm cho
người ấy nhất tâm nghĩ tới công
đức Phật, cõi nước Phật. Nếu không
phải là ác nghiệp nặng, thì tâm niệm
của người sắp chết có thể giúp cho
người ấy khỏi phải đọa xuống cõi
ác, hơn nữa, có thể tâm lực của
người sắp chết, cảm ứng được với
nguyện lực của chư Phật, Bồ Tát mà
được vãng sinh sang cõi Phật. Đó là
nguyên nhân chủ yếu của chủ trương
Phật giáo tổ chức trợ niệm danh hiệu
Phật cho người lâm chung, sắp chết.
Tín ngưỡng dân gian cho rằng người
chết biến thành quỷ không đúng với
thuyết luân hồi của nhà Phật, vì rằng
cõi quỷ chỉ là một trong 6 cõi sống,
và khi chết người ta chỉ có 1/6 khả
năng sinh vào cõi quỷ.
Không tin. Phật giáo không tin là có
một linh hồn vĩnh hằng, bất biến. Nếu
tin có linh hồn như vậy, thì đó là
"thần ngã ngoại đạo", không
phải là người Phật tử chính tín.
Đúng là trong quan niệm của người bình
thường, trừ những người theo duy vật
luận ra, còn thì ai cũng cho rằng mỗi
người đều có một linh hồn vĩnh hằng
bất biến, gần đây, ở Âu Mỹ, có
lập ra "Linh tri học hội", đối
tượng nghiên cứu của Hội là linh
hồn. Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ
giáo, Lão giáo v.v
đều là những
tôn giáo ít nhiều tin tưởng có linh
hồn, cho rằng người ta làm thiện hay
ác, sau khi chết đi, sẽ bị Thượng Đế
hay Diêm Vương phán xử, người tốt thì
linh hồn lên thiên đường, người xấu
thì linh hồn đọa địa ngục.
Ở trong dân gian Trung Quốc, sự mê tín
linh hồn có gốc rễ rất sâu bền, lại
còn thêm sai lầm to lớn này nữa là
người Trung Quốc tin rằng, sau khi người
chết linh hồn biến thành quỷ. Linh hồn
là quỷ, trong tín ngưỡng dân gian Trung
Quốc, là cả một mớ mê tín lớn và
bùng nhùng khó gỡ ra được. Điều
đáng buồn cười là vì quỷ có chút
ít thần thông cho nên lại cho rằng linh
hồn là một vật tập hợp của "3
hồn 6 phách".
Kỳ thực, quỷ chỉ là một trong 6 loại
chúng sinh cũng như người là một trong 6
loại chúng sinh không khác. Sinh làm
người, có sống có chết. Sinh làm quỷ,
cũng có sống có chết. Nhưng người sinh
từ bào thai, còn quỷ là hóa sinh.
Huống hồ, người chết rồi vị tất đã
làm quỷ. Vấn đề này, sẽ được bàn
rõ trong một tiết khác.
Đối với linh hồn, ở Trung Quốc có
rất nhiều truyền thuyết, hoặc cho rằng,
trong việc sống chết của người, linh
hồn có một tác dụng bắc cầu. Linh hồn
đầu thai là sinh, linh hồn tách rời
thân xác là chết, xem quan hệ giữa linh
hồn và thân xác giống quan hệ giữa
chủ hộ và nhà cửa. Nhà cũ, hư nát
thì dọn đến nhà mới, nhà mới thay
nhà cũ, thay đi thay lại, chủ hộ đi đi
lại lại nhưng vẫn vĩnh hằng bất biến.
Tức là nói con người là linh hồn,
đắp thêm cái áo thân xác. Thân xác
có thể thay đổi, còn linh hồn là bất
biến, là chủ thể trong dòng lưu chuyển
sinh tử.
Trên sự thực, Phật giáo không công
nhận những quan niệm về linh hồn như
vậy, vì những quan niệm đó không thể
đứng vững với thuyết duyên sinh,
duyên diệt của đạo Phật. Trên quan
điểm sinh diệt vô thường, Phật giáo
xem tất cả mọi sự vật đều sinh diệt
vô thường. Trong cả hai thế giới vật
chất và tinh thần, đều sinh diệt vô
thường. Dùng mắt thịt mà nhìn sự
vật, thì đôi khi nhìn thấy có sự vật
không biến đổi, nhưng nên dùng dụng
cụ khoa học tinh vi để nhìn, thì thấy
không có sự vật nào là không biến
đổi trong từng giây phút một. Kinh Dịch
nói "sinh, sinh", nhưng kỳ thực,
ở đàng sau "sinh, sinh" là
"tử, tử", tức là biến biến,
hóa hóa.
Hiện tượng vật lý trong thế giới vật
chất, là sinh diệt không ngừng. Hiện
tượng tâm lý tinh thần lại càng dễ
quan sát. Là bởi vì, hiện tượng tâm
lý nảy sinh là do tinh thần biến động.
Hiện tượng tâm lý biến động, dẫn
tới hành vi thiện, ác. Hành vi thiện
ác ảnh hưởng trở lại khuynh hướng
tâm lý, tiền đồ của chúng ta, tương
lai của chúng ta được quy định bởi
tác dụng tuần hoàn đó của tâm lý
ảnh hưởng tới hành vi, và hành vi
ảnh hưởng trở lại tâm lý.
Thử hỏi : Làm sao có thể có linh hồn
bất biến, linh hồn vĩnh hằng ? Dường
như là không thể có được, không
những người chết rồi, không có linh
hồn cố định, mà ngay khi còn sống, thân
tâm chúng ta đều biến đổi không
ngừng trong từng phút giây một. Thế
nhưng, Phật giáo đã không tin có linh
hồn, thì bản thể của việc luân hồi
trong sáu cõi và siêu phàm nhập thánh
là gì ? Hay nói cách khác, cái gì
"luân hồi", cái gì "siêu
phàm, nhập thánh" ?
Đây chính là điểm ưu việt đặc thù
của Phật giáo, vừa không xem trọng giá
trị vĩnh cửu của tự ngã, lại vừa
khẳng định giá trị hướng thượng của
tự tính.
Phật giáo chủ trương thuyết "nhân
duyên sinh" và "tự tính vốn là
không" (tự tính bản không).
Phật giáo xem vật chất là nhân duyên
sinh, xem tinh thần cũng là nhân duyên
sinh. Nhân duyên tụ hội gọi là sinh,
nhân duyên ly tán, gọi là diệt. Lớn
như một tinh cầu, một thiên thể cho đến
cả thế giới vũ trụ, nhỏ như một
sợi cỏ, một hạt bụi, một nguyên
tử
không có một sự vật nào là
không do nội nhân, ngoại duyên hội tụ
mà tồn tại.
Nếu loại bỏ nhân và duyên ra, không
có một sự vật nào có thể tồn tại
được. Vì vậy, nếu xét trên căn bản,
thì không có một sự vật nào hết. Về
vấn đề này, các nhà khoa học vật lý
và hóa học, có thể cung cấp cho chúng
ta câu trả lời chính xác và chính
diện.
Còn tinh thần là gì ? Phật giáo tuy bác
thuyết linh hồn, nhưng không phải là theo
duy vật luận. Cái gọi là tinh thần thì
Phật giáo gọi chúng bằng danh từ
"thức". Phật giáo Tiểu thừa
chỉ nói sáu thức, và lấy thức thứ 6
(đệ lục thức) làm chủ thể của sinh
mạng. Phật giáo Đại thừa nói thêm hai
thức nữa, tổng cộng có tám thức,
và lấy thức thứ tám (đệ bát thức)
làm chủ thể của sinh mạng. Ở đây,
chỉ giới thiệu thuyết tám thức của
Đại thừa.
Trong 8 thức của Đại thừa, thì sáu
thức đầu giống như sáu thức của
Tiểu thừa, và phân tích sâu hơn công
năng của thức thứ sáu, nhận ra thêm
thức thứ bảy và thức thứ tám.
Trên thực tế, chủ thể của 8 thức chỉ
có một, nhưng do phân tích công năng mà
chia thành tám. Làm ác, làm thiện là
bảy thức đầu, và đem các nhân thiện,
ác đó ký gửi ở thức thứ tám.
Thức thứ tám là cái kho tàng chấp
chứa tất cả hạt giống của nghiệp,
tất cả nghiệp nhân. Người tổng quản
của kho tàng là thức thứ bảy. Lấy
của ra, đưa của vào kho là thức thứ
6, còn 5 thức đầu là tạo nghiệp.
Như vậy công năng của thức thứ tám
là tàng trữ, nhưng không giống như ông
Thần tài giữ của, chỉ nhập mà không
xuất kho, ở kho tàng thức thứ tám,
tình hình xuất và nhập kho nối tiếp
không ngừng, nhập kho là các hành vi
ảnh hưởng đến tâm lý, và để lại
dấu ấn trong thức thứ tám gọi là nghiệp
nhân hay chủng tử. Còn xuất kho
là tâm lý dẫn tới hành vi tạo nghiệp
hay cảm thụ, gọi là nghiệp quả hay
hiện hành. Chủng tử thành hiện
hành, đó là xuất. Hiện hành thành
chủng tử đó là nhập. Trong một đời,
tình hình là như vậy. Trong 2, 3 đời hay
là vô số đời liên tiếp, tình hình
cũng là như vậy. Tất cả mọi diễn
biến nhân quả trong đời hiện tại cũng
như trong vô số đời quá khứ và
đời vị lai, tình hình cũng đều như
vậy, đều không ra ngoài quy luật quan hệ
giữa chủng tử và hiện hành. Do đó
mà có tinh hình sinh tử tương tục, sinh
mạng nối tiếp không ngắt đoạn.
Do quan hệ xuất nhập của chủng tử và
hiện hành, tiến hành thường xuyên
không ngắt đoạn như vậy, cho nên bản
chất của thức thứ tám cũng là
thường xuyên biến động không ngừng.
Không những thức thứ tám của đời
này, so với đời trước và đời sau
là biến động không ngừng mà từ một
niệm trước đến niệm sau, đã có biến
đổi rồi. Vì tình hình của thức thứ
tám là niệm niệm sinh diệt, niệm niệm
biến đổi, cho nên chúng ta mới luân
hồi sinh tử và đồng thời có khả
năng thoát ly sinh tử. Thức thứ tám
tồn tại chính là nghiệp nhân và nghiệp
quả liên tục tồn tại và biến động.
Ngoài sự biến động liên tục của dây
chuyền nghiệp nhân nghiệp quả này,
không thể tìm đâu ra thức thứ tám !
Cũng như dòng nước chảy, là do nước
chảy mà có, không thể tìm đâu ra cái
gọi là dòng nước chảy, ở ngoài
nước ! Mục đích giải thoát của đạo
Phật là cắt đứt dòng chảy sinh tử
nhân quả liên tục đó. Khi tác dụng
của thức thứ tám không còn nữa,
thức thứ tám không còn chấp chứa gì
nữa, cũng không còn hiện hành gì
nữa, thì thành tựu được "tính
không", thức (phiền não) chuyển
thành trí (thanh tịnh), không còn bị sinh
tử chi phối nữa, và trở thành tự do
trong sinh tử.
Có thể thấy thức thứ tám không
giống như linh hồn vĩnh hằng. Nếu tin có
linh hồn vĩnh hằng, thì sẽ mất khả năng
siêu phàm, nhập Thánh, giải thoát khỏi
sinh tử. Phật giáo trên quan niệm thì
phủ định linh hồn, trên mục đích thì
phủ định thức thứ tám. Chỉ có phủ
định thức thứ tám như là sự giả
hiện của vô minh phiền não tương tục
thì mới có thể được triệt để giải
thoát. Nhưng phủ định thức thứ tám
không có nghĩa là không có gì hết
nữa, mà là còn trí tuệ lặng chiếu,
siêu việt hữu và vô, không còn có
vô minh phiền não bức nhiễu nữa.
Rất rõ ràng, một Phật tử chính tín
chỉ sùng bái Phật, Pháp, Tăng, tức là
Tam Bảo, tuyệt đối không sùng bái quỷ
thần. Thế nhưng, Phật giáo chính tín
không phủ định sự tồn tại của quỷ
thần. Bởi vì quỷ và thần thuộc 2 cõi
trong 6 cõi sống của chúng sinh nằm trong
vòng sinh tử luân hồi. Do đó, thần
của Phật giáo không phải là Thượng
Đế của tôn giáo thần quyền, quỷ mà
kinh Phật nói cũng không phải là ma quỷ
của tôn giáo thần quyền. Thần mà Phật
giáo nói cũng là chúng sinh ở cõi
phàm. Ma của Phật giáo nói là chúng
sinh ở cõi Trời thứ sáu của Dục
giới. Ma của Phật giáo đúng là ma.
Quỷ của Phật giáo đúng là quỷ. Ma mà
sách Phật nói có bốn loại : Thiên ma,
ma ngũ uẩn, ma phiền não, ma chết. Trừ
thiên ma ra, còn ba loại ma kia đều phát
xuất từ sinh lý và tâm lý của con
người.
Thần mà Phật giáo nói, thông thường
chiếm vị trí trung gian giữa loài Trời
và loài quỷ. Quỷ có phúc đức lớn
gọi là thần. Tùy tòng đi theo các loài
Trời cũng thường thường là thần.
Quỷ có các loài : Đa tài quỷ, thiểu
tài quỷ, quỷ đói, đa tài đại phúc
quỷ (1). Các loại quỷ này, tuy
ở cõi quỷ nhưng lại được hưởng
phúc đức của loài Trời. Các thần
được dân gian sùng bái, hơn nữa nếu
là loài quỷ có phúc đức lớn. Thần
thì có thiên thần, không thần (thần ở
trong hư không), địa thần. Cũng có thể
phân loại : Thiên thần, súc thần (thần
súc vật), quỷ thần, các loại thần do
dân gian sùng bái như thần rắn, thần
bò, thần linh thảo mộc, thần núi, thần
sông v.v
, phần lớn đều là địa
thần, súc thần hay quỷ thần. Kinh Phật
thường nói tới Bát bộ quỷ thần,
tức là thiên thần, long thần (thần
loài rồng), thần Dạ Xoa (gọi là phi
không quỷ - quỷ bay trên không), Càn
thát bà (thần nhạc trời), A Tu La, Ca
Lâu La (chim cánh vàng), Khẩn na la (chim
có giọng hót hay), Ma Hầu La Già (con
trăn thần). Trong Bát bộ quỷ thần, có
thần thiện, có thần ác. Thông thường
loài thần thiện được Phật giáo cảm
hóa và trở thành thần hộ pháp. Vì
vậy, Phật tử chính tín không sùng bái
quỷ thần, nhưng giữ thái độ kính lễ
đúng mức. Một Phật tử chính tín mà
sùng bái quỷ thần thì có tội về
nguyên tắc. Các thiện thần đều tự
động gia hộ những người quy y Tam Bảo,
cho nên họ nhất định không chịu tiếp
nhận sự sùng bái của quỷ thần của
Phật tử đã quy y Tam Bảo. Chính vì có
sự hộ trì của thiện thần, mà ác
thần, ác quỷ không dám xâm phạm đến
những người đã quy y Tam Bảo.
________________________________
Đúng là Phật giáo có tin ở công
năng của cầu đảo. Về mặt trình độ
và tỷ lệ linh nghiệm thì cầu đảo của
Phật giáo hơn xa cầu đảo của các tôn
giáo khác.
Nguyên lý của cầu đảo là sức mạnh
tâm lý của người cầu đảo, là sức
mạnh của một trạng thái tâm lý siêu
tự nhiên, định tính, thống nhất, đạt
tới được nhờ có một niềm tin mạnh
mẽ, nhờ đó mà thông cảm được
với nguyện lực đại bi của đối
tượng cầu đảo (chư Phật, Bồ Tát).
Sự giao tiếp giữa định lực của bản
thân với nguyện lực của chư Phật, Bồ
Tát, tạo thành một loại thần lực
không thể nghĩ bàn. Nó chính là linh
nghiệm và kinh nghiệm của sự cầu đảo.
Ở các vùng nước Trung Hoa theo Phật
giáo Đại thừa, sự cầu đảo Bồ Tát
Quan Âm có nhiều linh nghiệm rõ ràng.
Hơn nữa, một Phật tử thuần thành,
vốn thường xuyên được thiện thần
ủng hộ, cho nên dù không cầu đảo, mà
gặp biến cố, cũng thường không mắc
nạn, việc dữ chuyển thành việc lành.
Vì công năng của cầu đảo là ở niềm
tin kiên định, cho nên những Phật tử
có niềm tin kiên định, cũng không khác
gì thường xuyên cầu đảo và được
hưởng công năng của sự cầu đảo.
Phật giáo tuy tin tưởng sâu sắc ở
công năng của cầu đảo, nhưng không
cường điệu tính vạn năng của cầu
đảo. Thí dụ, Phật tử bị bệnh, cầu an
là cần thiết, nếu người bệnh có
lòng tự tin, lại biết cầu xin khẩn
thiết, thì có thể có cảm ứng và
bệnh giảm. Vì vậy, thuyết pháp nghe pháp
cũng có thể trị bệnh (Tăng A Hàm quyển
6 và Tạp A Hàm quyển 5 v.v
), nếu
bệnh nhân thiếu lòng tự tin, lại thiếu
kinh nghiệm về cầu đảo, thì nên mời
thầy thuốc đến xem bệnh, chữa bệnh. Cho
nên, khi đức Phật Thích Ca còn lại
thế, Tỷ khiêu mắc bệnh, thông thường
là dùng thuốc chữa bệnh. (4)
(1) Xem thêm "Phật học tri tân". Bài "Cảnh giới và công dụng của thần thông" của Pháp sư Thánh Nghiêm (738-824)
Nguồn: www.quangduc.com