Với
chương
này,
ta
có
một
đề
tài
quan
trọng
hơn
bất
cứ
đề
tài
nào
trên
con
đường
tu
tập
Kim
cương
thừa
Mật
giáo.
Hơn
nữa
thế
kỷ
qua,
Mật
giáo
đã
được
phương
Tây
và
thế
giới
nói
chung
biết
đến,
nó
đã
chịu
trách
nhiệm
rất
nhiều
cho
các
lời
giải
thích
và
hiểu
biết
sai
lầm
trước
đây.
Cái
yếu
tố
có
thể
là
nguyên
nhân
cho
việc
hiểu
lầm
lớn
nhất
là
tục
lệ
nghi
thức
điểm
đạo
(bí
truyền).
Nhiều
người
đã
phản
đối
lễ
điểm
đạo
trong
tín
ngưỡng
Phật
giáo. Như
đã
được
nói
qua
trong
Chương
27,
thực
sự
lễ
điểm
đạo
(bí
truyền)
Kim
cương
thừa
Mật
giáo
không
khác
gì
với
các
nghi
thức
chính
thức
giữ
vai
trò
quan
trọng
trong
Phật
giáo.
Thật
khó
hiểu
tại
sao
người
ta
có
thể
chấp
nhận
lễ
qui
y
và
lễ
truyền
thụ
cho
tu
sĩ
nhưng
lại
khó
khăn
với
ý
tưởng
‘lễ
điểm
đạo’
Mật
giáo!
Tôi
hy
vọng
rằng,
với
sự
trình
bày
rõ
ràng
về
nội
dung
của
lễ
điểm
đạo
cùng
vai
trò
và
nhiệm
vụ
của
nó
trong
môn
phái
này,
một
vài
điều
sai
lầm
về
những
giải
thích
và
hiểu
biết
sẽ
được
sáng
tỏ
hơn. Trước
hết
chúng
ta
hãy
xem
nghĩa
của
chữ
gốc
Sanscrit
‘abhishekha’,
được
dịch
là
‘truyền
thụ,
kết
nạp,
trao
quyền’.
Không
có
chữ
nào
có
nghĩa
đen
từ
nghĩa
gốc
của
nó.
Thực
sự
nó
có
nghĩa
là
‘tưới
nước’,
đặc
biệt
là
tưới
nước
trên
một
vùng
đất
rộng,
thí
dụ
như
trên
một
cánh
đồng. Chúng
ta
hãy
bắt
đầu
tìm
hiểu
thêm
một
chút
về
tính
chất
của
lễ
điểm
đạo
Kim
cương
thừa
Mật
giáo,
xét
xem
tại
sao
chữ
‘abhishekha’
được
dùng
cho
nghi
thức
này.
Lễ
này
có
mục
đích
là
làm
sống
động
hoặc
đẩy
mạnh
tiến
trình
tinh
tấn
giác
ngộ
của
môn
đồ.
Cũng
giống
như
ta
tưới
nước
trên
cánh
đồng
có
các
hột
giống
đã
được
gieo,
lễ
điểm
đạo
‘tưới
nước’
nuôi
dưỡng
cho
mau
chóng
phát
triển
cái
hột
giống
tiềm
năng
tâm
linh
của
người
trò. Các
ý
niệm
như
trên
đã
được
phát
triển
nhuần
nhuyễn
trong
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)--đó
là,
ý
niệm
Phật
tính
hay
tiềm
năng
giác
ngộ
mà
tất
cả
sinh
vật
đều
có.
Tiến
trình
của
sự
phát
triển
và
hoàn
thành
của
tiềm
năng
tâm
linh
này
được
tăng
trưởng
bởi
việc
‘tưới’
hay
‘xức
dầu
thánh’,
một
dấu
hiệu
rõ
ràng
trong
lễ
điểm
đạo
đó.
Mặc
dù
không
hay
lắm
khi
dịch
là
‘tưới
nước’
hay
‘xức
dầu
thánh’,
nhưng
điều
quan
trọng
ta
phải
nhớ
là
từ
ngữ
này
muốn
nói
đến
một
tiến
trình
khác
với
những
gì
chúng
ta
tưởng
tượng
khi
xem
nó
là
một
loại
điểm
đạo
bí
truyền
của
một
hội
bí
mật. Tôi
xin
mở
rộng
lý
nghĩa
của
điểm
đạo
có
tính
cách
văn
tự
nhưng
rất
căn
bản
này.
Lể
điểm
đạo
Mật
giáo
có
nghĩa
là
giới
thiệu
môn
đồ
vào
trong
giới
đàn
(mandala),
một
giới
linh
thiêng,
huyền
diệu,
thuộc
một
trong
những
vị
thánh
giám
hộ
của
lăng
đền
Kim
cương
thừa
Mật
giáo,
các
vị
thánh
có
những
hình
tướng
nội
tại
đặc
biệt
của
đức
Phật,
thiền
định
vào
những
vị
này
có
thể
đem
lại
giác
ngộ.
Trong
Chương
27,
chúng
ta
đã
thấy
rằng
giới
đàn
là
một
biểu
hiện
tượng
trưng
của
vũ
trụ.
Trong
bối
cảnh
lễ
điểm
đạo,
nó
tượng
trưng
không
phải
là
cái
vũ
trụ
như
chúng
ta
thấy
từ
quan
điểm
chưa
giác
ngộ,
mà
là
cái
vũ
trụ
thiêng
liêng
thuần
nhất
mà
ta
phải
hoàn
thành
với
trình
độ
giác
ngộ,
với
cái
nhìn
không
còn
các
khuynh
hướng
bất
thiện.
Trong
Chương
26
đã
có
rất
nhiều
phần
nói
về
sự
chuyển
biến
5
uẩn
thành
5
chư
Phật
trên
cõi
trời,
áp
dụng
cho
ý
niệm
về
một
vũ
trụ
đã
được
chuyển
biến
thanh
tịnh
này.
Vì
thế
khi
chúng
ta
nói
rằng
lễ
điểm
đạo
là
để
giới
thiệu
môn
đồ
vào
giới
đàn
(mandala)
của
một
trong
những
vị
thánh
giám
hộ
mật
tông,
tức
ta
muốn
nói
là
lễ
đó
giới
thiệu
vị
này
vào
vũ
trụ
thanh
tịnh
của
một
trong
những
vị
thánh
giám
hộ
này. Trang
255.
Các
vị
thánh
giám
hộ
Kim
cương
thừa
có
thể
được
chia
thành
4
bậc
quyền
năng
thăng
hoa
có
hiệu
quả
trong
việc
đem
lại
sự
chuyển
hoá
từ
một
hình
thức
hiện
hữu
chưa
giác
ngộ
thành
một
hình
thức
hiện
hữu
đã
giác
ngộ
và
linh
thiêng:
1.
bậc
Kriya,
2.
bậc
Charya,
3.
bậc
Yoga,
và
4.
bậc
Anuttarayoga.
Lễ
điểm
đạo
là
sự
giới
thiệu
môn
đồ
vào
vũ
trụ
linh
thiêng
của
vị
thần
giám
hộ
của
một
trong
những
bậc
cổ
thư
mật
tông
này.
Bậc
Kriya
thuộc
nhóm
các
vị
thánh
giám
hộ
mà
các
sự
hành
trì
chủ
yếu
có
liên
hệ
với
các
nghi
thức
ngoại
giới.
Kriya
nghĩa
là
‘hành
động,
lễ
nghi’.
Các
vị
thánh
giám
hộ
này
nói
chung
hành
trì
các
nghi
thức
bên
ngoài.
Các
sự
hành
trì
của
bậc
Kriya
mật
tông
thường
liên
hệ
với
những
người
ăn
chay,
tắm
thường
trực,
tắm
trong
nghi
thức
và
cúng
lễ. Ngược
lại,
các
vị
thánh
giám
hộ
bậc
Charya
cổ
thư
mật
tông
được
đồng
hóa
với
những
sự
hành
trì
có
liên
quan
chủ
yếu
với
các
thái
độ,
tư
tưởng
và
chủ
ý
bên
trong
của
hành
giả.
Trong
khi
lạt
ma
nhóm
Kriya
hành
trì
các
hình
thức
bên
ngoài
thì
lạt
ma
Charya
hướng
về
bên
trong.
Các
hành
giả
bậc
Charya
thường
trình
bày
các
hình
thức
xã
hội
ít
hơn
nhiều
so
với
hạng
Kriya. Hàng
thứ
ba,
bậc
lạt
ma
Yoga
phối
hợp
các
sự
hành
trì
thuộc
2
bậc
vừa
nói.
Lạt
ma
nhóm
Yoga
muốn
tìm
được
một
sự
cân
bằng
giữa
bên
ngoài
và
bên
trong.
Cái
cân
bằng
hợp
nhất
này
được
phản
ảnh
qua
chữ
Yoga,
có
nghĩa
là
‘tổng
hợp’. Trong
trường
hợp
thứ
tư
với
các
vị
thánh
giám
hộ
Anuttarayoga,
các
sự
hành
trì
vượt
qua
khỏi
hay
phá
bỏ
các
hàng
rào
của
3
bậc
trên
(ngoại,
nội
và
hợp
nhất).
Anuttarayoga
nghĩa
là
‘siêu
việt,
vượt
qua
khỏi’
các
sự
hành
trì
bên
ngoài
cũng
như
bên
trong.
Vì
thế
lạt
ma
anuttarayoga
thuộc
các
vị
thánh
giám
hộ
mà
các
sự
hành
trì
của
họ
được
phát
triển
cao
nhất
trong
phái
Kim
cương
thừa.
Chính
ở
đẳng
cấp
này
mà
chúng
ta
hoàn
tất
sự
hợp
nhất
các
kinh
nghiệm
khi
đi
vào
con
đường
Kim
cương
thừa,
một
sự
hợp
nhất
dẫn
đến
sự
chuyển
hóa
thành
một
thực
thể
tự
phát,
không
gò
bó.
Ðây
là
cái
lý
tưởng
tôi
đã
dẫn
chứng
trong
Chương
24,
khi
thảo
luận
về
mục
đích
của
phương
pháp
luận
Kim
cương
thừa--tức
là,
hoàn
tất
sự
hợp
nhất
các
kinh
nghiệm
vào
con
đường
Ðạo. Trang
256.
Có
3
loại
điểm
đạo.
Ðầu
tiên
là
lễ
điểm
đạo
chính
yếu,
một
loại
lễ
có
giá
trị
cho
tất
cả.
Có
thể
ví
một
buổi
điểm
đạo
chính
yếu
giống
như
bằng
lái
xe
cho
phép
bạn
lái
tất
cả
các
loại
xe
hơi,
hoặc
tất
cả
quyền
hành
mà
một
chính
phủ
cho
quyền
một
đặc
sứ
toàn
quyền
quyết
định
đối
với
một
số
vấn
đề.
Lễ
truyền
thụ
này
là
một
loại
trao
quyền
trọn
vẹn
thường
phải
mất
2
ngày.
Ngày
đầu
tiên
dành
cho
các
sự
hành
trì
chuẩn
bị,
nói
chung
có
liên
hệ
đến
sự
thanh
tịnh
của
người
trò.
Ngày
thứ
hai
dành
cho
việc
giới
thiệu
thực
sự
người
trò
vào
giới
đàn
của
vị
thánh
đặc
biệt
có
liên
hệ. Loại
truyền
thụ
thứ
hai
là
thứ
yếu,
nó
có
thể
giống
như
một
giấy
phép
cho
phép
bạn
sử
dụng
các
lối
hành
trì
chuyên
môn,
đặc
biệt.
Tuy
vậy,
chúng
rất
quan
trọng
và
đem
lại
kết
quả
cao. Loại
thứ
ba
lại
giới
hạn
hơn
nữa.
Nó
gồm
các
lễ
điểm
đạo
giản
dị,
thường
diễn
ra
trong
thời
gian
ngắn
nhằm
giúp
cho
hành
giả
tham
gia
vào
các
sự
hành
trì
tương
đối
giản
dị
cùng
với
các
vị
thánh
thứ
yếu
có
đông
thành
viên.
Lễ
này
đôi
khi
được
đặt
tên
là
‘lễ
thụ
giáo
phụ
thuộc’,
vì
chúng
được
diễn
ra
sau
những
buổi
lễ
chính
thức
và
thứ
yếu. Các
vị
thánh
Kim
cương
thừa
cũng
được
chia
ra
thành
từng
nhóm
gia
đình
(không
liên
hệ
gì
với
4
bậc
thần
thánh
giám
hộ
đã
được
nói
trên)
có
liên
hệ
với
chư
Phật
của
Năm
Nhóm
Gia
Ðình:
Phật
Tỳ
lô
giá
na
(Vairochana),
Phật
Bảo
Vật
phương
Nam
(Ratnasambhava),
Phật
A
di
đà
phương
Tây
(Amitabha),
Phật
Bất
Không
Thành
tựu
phương
Bắc
(Amoghasiddhi),
và
Phật
Bất
động
phương
Ðông
(Phật
A
súc,
Akshobhya).
Chẳng
hạn,
Thánh
giám
hộ
Hevajra
liên
hệ
với
gia
đình
Kim
cương
đứng
đầu
bởi
Phật
A
súc,
trong
khi
Thánh
Chakrasamvara
có
liên
hệ
với
gia
đình
Phật
Thích
Ca
thuộc
Phật
Tỳ
Lô
Giá
Na. Một
lễ
điểm
đạo
giáo
chính
yếu
có
thể
so
sánh
như
việc
mua
một
vé
trọn
mùa
(như
xem
thể
thao)
cho
toàn
thể
các
cuộc
thi
đấu.
Vé
trọn
mùa
cho
phép
bạn
tham
dự
bất
cứ
các
cuộc
thi
đấu,
mỗi
khi
đi
xem
bạn
chỉ
cần
trình
vé
và
được
đóng
dấu.
Giống
như
vậy,
lễ
điểm
đạo
cho
phép
bạn
nhận
thêm
một
loạt
các
lễ
điểm
đạo
phụ
thuộc
ít
quan
trọng
hơn,
dù
rằng,
khi
nhận
lễ,
bạn
vẫn
sẽ
phải
tham
dự
các
nghi
thức
cần
thiết. Theo
truyền
thống,
chính
nhờ
lễ
điểm
đạo
chính
thức
mà
nó
giúp
cho
môn
đồ
có
thể
tiếp
cận
với
các
vị
thánh
và
hành
trì
Mật
giáo.
Tuy
nhiên,
trong
những
năm
vừa
qua,
vì
sự
đòi
hỏi
càng
ngày
càng
tăng
trong
các
lễ
truyền
thụ
cổ
thư
Mật
giáo,
nên
các
vị
thầy
Kim
cương
thừa
đôi
khi
chọn
làm
lễ
trước
một
trong
những
lễ
điểm
đạo
phụ
thuộc,
ít
quan
trọng
và
giản
dị
hơn.
Ðiều
này
đôi
khi
hữu
ích,
ở
chỗ
nó
cung
ứng
một
thứ
phương
tiện
để
thử
thách
cho
sự
hành
trì
Kim
cương
thừa,
giống
như
người
ta
được
cấp
bằng
lái
xe
gắn
máy
trước
khi
được
bằng
lái
các
loại
xe
hơi
đa
dụng
khác. Tất
cả
những
lễ
điểm
đạo
này
phải
được
hành
lễ
bởi
một
người
thầy
Kim
cương
thừa
có
khả
năng.
Có
2
loại
chứng
khả
năng
mà
người
thầy
có
thể
có.
Trường
hợp
thứ
nhất,
người
thầy
sau
khi
hoàn
thành
một
đẳng
cấp
rất
cao
về
phát
triển
tâm
linh,
nhận
được
quyền
trực
tiếp
từ
vị
thánh
liên
hệ.
Loại
chứng
này
điển
hình
là
các
trường
hợp
của
chư
vị
đã
được
chứng
đắc
thành
Ðại
sư
(Mahasiddhas)
ở
Ấn
độ
hơn
là
ở
Tây
tạng. Loại
chứng
có
khả
năng
thứ
hai
thì
phổ
thông
hơn.
Trong
trường
hợp
này
người
thầy
nhận
được
quyền
của
vị
thánh
từ
một
người
thầy
khác
có
đủ
điều
kiện.
Vị
này
phải
cử
hành
các
lễ
theo
sự
đòi
hỏi,
thí
dụ
như
thời
gian
ẩn
cư
v.v...theo
như
qui
định
bởi
truyền
thống,
để
bảo
đảm
một
sự
liên
kết
gần
gủi
với
vị
thánh
làm
trung
gian
giới
thiệu
người
vào
giới
đàn
của
vị
thánh
liên
hệ.
Ðiều
quan
trọng
là
lễ
điểm
đạo
Kim
cương
thừa
được
nhận
từ
một
người
thầy
ít
nhất
phải
có
điều
kiện
thứ
hai. Trang
258.
Trong
lễ
điểm
đạo
này,
người
học
trò
xem
người
thầy
như
vị
thần
giám
hộ
linh
thiêng.
Người
trò
xem
môi
trường,
đặc
tính
của
lễ
điểm
đạo
như
cái
cõi
linh
của
vị
thánh
giám
hộ
đó.
Người
trò
được
giới
thiệu
vào
và
nhận
diện
cả
hai
với
vị
thánh
giám
hộ
(dưới
hình
thức
người
thầy
trong
lễ
điểm
đạo)
và
với
cõi
linh
mà
nó
được
biểu
tượng
hóa
trong
buổi
lễ. Tiến
trình
điểm
đạo
và
nhận
diện
này
được
diễn
ra
qua
việc
dùng
các
biểu
tượng.
Những
biểu
tượng
khá
đặc
thù
và
tổng
quát
này
được
trình
bày
tốt
đẹp
nhất
bằng
một
số
nghi
thức
khác
nhau.
Các
đối
tượng
của
nghi
thức
này
được
liên
kết
với,
và
tượng
trưng
cho
các
thành
phần
(hay
‘‘diễn
viên’’)
tham
dự
trong
‘‘vở
kịch’’
thiêng
liêng
này,
là
những
vị
ngự
trị
trong
cõi
linh.
Trong
các
bài
thảo
luận
trong
chương
25
và
26
về
các
biểu
tượng
Mật
giáo
và
của
5
chư
Phật
đại
diện
Năm
Gia
đình,
chúng
ta
đã
nói
đến
một
số
biểu
tượng
với
ý
nghĩa
đặc
biệt
của
chúng.
Chúng
ta
đã
nói
đến
5
gia
đình
Phật
được
biểu
tượng
hoá
như
kim
cương,
vương
miện,
linh
chuông
v.v...Trong
lễ
điểm
đạo,
những
vật
này
có
nhiệm
vụ
như
những
biểu
tượng
đặc
biệt,
làm
phương
tiện
cho
người
học
trò
có
thể
được
giới
thiệu
vào
cõi
linh
và
rồi
tự
nhận
diện
ra
mình
trong
cõi
linh
đó,
nhận
ra
kinh
nghiệm
thuần
nhất
của
một
hình
thức
hiện
hữu
đã
giác
ngộ.
Trong
lể
điểm
đạo,
người
học
trò
được
cho
một
hạt
kim
cương
và
linh
chuông
đễ
cầm
lấy,
một
vương
miện
để
đội,
v.v...Các
hành
động
tượng
trưng
này
có
tác
dụng
đem
lại
kết
quả:
1.
giới
thiệu
người
học
trò
này
vào
cõi
linh,
và
2.
một
dạng
tánh
cá
biệt
riêng
của
người
trò
với
cõi
linh
đó. Trang
259.
Ngoài
những
vật
tượng
trưng
đặc
biệt
này
cũng
có
những
biểu
tượng
năng
động
và
tổng
quát
hơn.
Thí
dụ
biểu
tượng
ánh
sáng
và
nước
mà
chúng
ta
cũng
đã
nói
trong
chương
25
về
Biểu
tượng
luận
Kim
cương
thừa.
Trong
lễ
điểm
đạo,
ánh
sáng
và
nước
được
dùng
để
nhận
diện
người
học
trò
với
vị
thánh
giám
hộ
và
với
cõi
linh.
Ánh
sáng
được
dùng
như
là
một
phương
tiện
cho
sự
nhận
diện
người
học
trò
với
người
thầy,
người
mà
trong
bối
cảnh
của
lễ
điểm
đạo,
giống
như
vị
thánh
giám
hộ.
Giống
như
vậy,
nước
được
dùng
làm
biểu
tượng
cho
việc
nhận
diện
người
học
trò
với
các
trình
độ
hiểu
biết
khác
nhau
của
cõi
linh.
Trong
lễ
điểm
đạo,
ánh
sáng
và
nước
lập
thành
một
cây
cầu
nối
liền
người
trò
với
người
thầy
dưới
hình
thức
cõi
linh
và
kinh
nghiệm
của
người
trò
với
kinh
nghiệm
của
cõi
linh--được
biến
hoá
sao
cho
thành
một.
Người
trò
được
yêu
cầu
tham
dự
tiến
trình
này
bằng
cách
hình
dung
ánh
sáng
và
nước
như
là
phương
tiện
cho
sự
hòa
nhập
với
cõi
giới
đã
được
thanh
lọc
và
được
vẽ
ra
trong
lễ
điểm
đạo
Kim
cương
thừa. Lễ
điểm
đạo
là
chiếc
xe
chuyển
hoá
hay
nói
một
cách
khác
là
sự
tái
sanh
hay
tái
sản
xuất.
Trong
lễ
điểm
đạo,
người
trò
được
cho
một
tên
mới,
giống
như
khi
ta
trở
thành
Phật
tử
trong
lễ
qui
y
hay
lễ
thụ
chức
vậy.
Sự
đặt
tên
mới
tượng
trưng
cho
sự
tái
sinh
của
người
học
trò
với
đức
hạnh
và
nhân
tánh
trong
hai
hình
thức
của
vị
thánh
giám
hộ
và
cõi
linh. Lễ
điểm
đạo
không
chỉ
quan
trọng
vì
sự
gia
nhập
vào
cõi
linh,
mà
nó
còn
cung
cấp
cho
người
học
trò
phương
pháp
hay
chìa
khóa,
nhờ
đó
người
này
có
thể
sau
đó
tái
hợp
nhất
chính
mình
với
cõi
giới
linh
thiêng.
Những
phương
pháp
hay
chìa
khóa
này
là
1.
hướng
nhìn
của
người
trò,
trong
đó
với
bối
cảnh
của
lễ
điểm
đạo,
người
trò
được
thấy
lần
đầu
tiên
hình
thức
biểu
tượng
của
cõi
giới
linh
thiêng,
2.
bài
thần
chú
liên
hệ
với
vị
thánh
giám
hộ
trong
lễ
điểm
đạo. Trang
260.
Nhờ
hướng
nhìn
và
bài
chú
này,
người
học
trò
có
thể
tái
tạo
cái
nhìn
linh
thiêng
và
tự
tái
giới
thiệu
mình
vào
cõi
giới
kinh
nghiệm
linh
thiêng
cũng
như
tự
tái
nhận
dạng
mình
với
cõi
linh
đó.
Việc
này
sẽ
xãy
ra
sau
lễ
điểm
đạo,
với
sự
hành
trì
thiền
định
liên
hệ
với
vị
thánh
giám
hộ
đặc
biệt
đó.
Trong
bối
cảnh
thiền
định,
hành
giả
sẽ
dùng
chìa
khóa
trong
lễ
điểm
đạo--tức
hướng
đi
và
bài
chú--để
tái
tạo
và
tái
nhận
dạng
mình
với
kinh
nghiệm
trong
cõi
linh
đó.
Kế
đến,
vị
này
không
còn
cần
sự
hỗ
trợ
và
môi
trường
bên
ngoài
của
lễ
điểm
đạo.
Trái
lại,
người
này
có
khả
năng
tái
tạo
và
tái
nhận
dạng
mình
với
kinh
nghiệm
thuần
chất
được
trình
bày
trong
lễ
điểm
đạo
trước
đây
cho
mình.
Ðây
là
vai
trò
và
nhiệm
vụ
căn
bản
của
lễ
điểm
đạo
Kim
cương
thừa. Giống
như
các
buổi
lễ
khác,
lễ
điểm
đạo
Kim
cương
thừa
có
một
vài
ràng
buộc
phải
được
tôn
trọng
và
hành
trì.
Giống
như
những
trường
hợp
thế
gian
như
việc
được
cấp
bằng
lái
xe
hay
xem
mạch
cho
thuốc
cũng
phải
có
một
số
ràng
buộc
kèm
theo.
Trong
tín
ngưỡng
Phật
giáo
nói
chung,
các
nghi
thức
như
qui
y
và
truyền
thụ
vào
hội
tăng
già,
tu
sĩ
cũng
có
một
vài
ràng
buộc
mà
họ
phải
hoàn
thành. Nói
chung,
có
3
lối
nguyện:
lối
nguyện
dành
cho
sự
giải
thoát
cá
nhân
(tức
Tỳ
kheo
giới);
lối
nguyện
dành
cho
sự
quyết
tâm
giải
thoát
tất
cả
giống
hữu
tình
(Bồ
tát
giới);
và
lối
nguyện
dành
cho
sự
hành
trì
Kim
cương
thừa
(Mật
giáo
giới).
Ðức
hạnh
cần
thiết
của
các
lời
nguyện
dành
cho
sự
giải
thoát
cá
nhân
là
tránh
làm
thương
tổn
kẻ
khác;
đức
hạnh
cần
thiết
của
các
lời
nguyện
dành
cho
chư
Bồ
tát
là
làm
lợi
cho
kẻ
khác;
và
đức
hạnh
cần
thiết
của
các
lời
nguyện
dành
cho
hành
giả
Kim
cương
thừa
là
xem
tất
cả
chúng
sinh
là
một
phần
của
thế
giới
thuần
chất,
thí
dụ
như
các
vị
thánh
trong
cõi
linh
mà
người
trò
đã
đặc
biệt
được
điểm
đạo
qua
lễ
Kim
cương
thừa.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002