DIỆU ÐẾ THỨ
HAI: TẬP
(Samudaya): Nguyên nhân của khổ
Chân
lý thứ hai là chân lý về sự phát sinh hay nguồn gốc của dukkha
(Dukkhasamudaya - ariyasacca, Khổ diệt thánh đế). Ðịnh nghĩa danh
tiếng và thông dụng nhất về chân lý thứ hai, được tìm thấy trong rất
nhiều bản kinh nguyên thủy như sau:
"Chính ái (tanhà) đồng khởi với hỉ và tham đã đưa đến tái sinh để
tìm lạc thú chỗ này chỗ khác. Ái gồm ba thứ là: (1) khát ái đối với
khoái lạc giác quan (dục ái - kàmatanhà) (2) khát ái hiện hữu và trở
thành (hữu ái - bhavatanhà) và (3) khao khát đừng hiện hữu (diệt ái,
mong tự hủy diệt - vibhavatanhà)"
[1].
Chính sự khao khát, ham muốn, dục vọng,
thèm thuồng, xuất hiện dưới nhiều hình thức - đã làm phát sinh mọi
hình thái khổ đau và sinh tử. Nhưng không nên xem đấy là nguyên nhân
đầu tiên, vì theo Phật, mọi sự phụ thuộc lẫn nhau nên không thể có
nguyên nhân đầu tiên. Ngay cả khát ái được xem như nguyên nhân hay
nguồn gốc của dukkha, cũng tùy thuộc vào một yếu tố khác để phát sinh,
đấy là thọ (vedanà)[2],
và thọ phát sinh tùy thuộc vào xúc (phassa) cứ thế nối tiếp
nhau trên một vòng tròn mà thuật ngữ Phật học gọi là Duyên khởi
(Paticcasamuppàda) sẽ được bàn sau[3].
Như thế ái không phải là nguyên
nhân đầu tiên hay độc nhất của sự phát sinh ra khổ. Nhưng đấy là
nguyên nhân trực tiếp và rõ rệt nhất[4].
Chính vì vậy mà ngay trong những bản kinh Pàli, Tập đế hay nguồn gốc
Khổ được định nghĩa là những bất tịnh sơ hở (kilesà sàsavà dhammà:
phiền não hữu lậu pháp) ngoài khát ái luôn được xem như yếu
tố chính[5].
Ở đây ta chỉ cần nhớ rằng trọng tâm của ái là ý niệm sai lầm về
ngã do vô minh mà có.
Khát ái không chỉ là ham muốn, bị trói
buộc vào khoái lạc giác quan, tài sản, quyền lực, mà còn là ham muốn,
bị trói buộc vào những tư tưởng, lý tưởng, quan điểm, lý thuyết, khái
niệm và niềm tin (dhammatanhà, pháp ái)[6].
Theo sự phân tích của Phật, tất cả tranh chấp trên đời, từ gây gỗ
trong gia đình cho đến đại chiến giữa các quốc gia, đều có gốc rễ ở
khát ái này[7].
Theo quan điểm ấy, mọi vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội đều có cội
rễ là lòng tham vị kỷ. Những chính khách muốn dàn xếp những tranh chấp
quốc tế mà chỉ bàn chiến tranh và hòa bình trong lãnh vực chính trị,
kinh tế là chỉ chạm cái vỏ ngoài, không bao giờ động đến cội gốc đích
thực của vấn đề. Như Phật đã dạy tôn giả Ratthapàla: "Thế gian thiếu
thốn, khát khao và nô lệ cho dục vọng (tanhàdàso)."
Ai cũng nhận rằng mọi tai họa trên đời
đều do dục vọng ích kỷ gây nên. Ðiều này không khó hiểu. Nhưng làm sao
dục vọng, khát ái lại có thể đưa đến tái sinh, sự có mặt trở lại
(ponobhavikà), là vấn đề không phải dễ lãnh hội. Chính vì vậy ta phải
bàn đến khía cạnh triết lý sâu sắc của chân lý thứ hai, trong tương
quan với khía cạnh triết lý của Diệu đế thứ nhất. Ta cần có vài ý niệm
về thuyết Nghiệp và Tái sinh.
Có bốn thức ăn (àhàrà) theo nghĩa
nguyên nhân hay "điều kiện" (duyên) cần thiết cho hữu tình tiếp
tục sống và tồn tại: Ðoàn thực (kabalinikàràhàra): thức ăn vật
chất thông thường; Xúc thực (phassàhàra): sự tiếp xúc của giác
quan, kể cả ý thức, với ngoại giới; Thức thực (vinnànàhara); và
Tư niệm thực (manosancetanàhàra): ý chí hay ý muốn của tâm[8].
Trong bốn điều kiện trên, thì cái cuối
cùng, tư niệm, chính là ý chí muốn sống, muốn tồn tại, tái sinh, tương
tục, tăng trưởng[9].
Nó tạo nên nguồn gốc của sự sống và tiếp tục, tiến tới trước bằng
những nghiệp thiện, bất thiện (kusalàkusalakamma)[10].
Nó cũng chính là ý hành hay tư (cetàna)[11].
Ta đã thấy trước đây rằng ý chí là nghiệp[12],
như chính Phật đã định nghĩa. Nói đến tư niệm vừa kể trên, Phật đã
dạy: "Khi người ta hiểu tư niệm thực, người ta sẽ hiểu được ba hình
thức khát ái"[13].
Như thế ái, ý hành, tư niệm và nghiệp đều có cùng một
nghĩa. Ðó là dục vọng, ý chí muốn sống, muốn tồn tại, muốn tái sinh,
muốn trở thành, muốn tăng trưởng, muốn tích lũy không ngừng. Ðó là
nguyên nhân phát sinh ra khổ. Dục vọng ấy được nằm trong hành uẩn, một
trong năm uẩn cấu tạo nên một chúng sinh[14].
Ðây là một trong những điểm chính yếu và
quan trọng nhất của giáo lý Phật. Vì vậy chúng ta phải thận trọng để ý
và nhớ rõ rằng nguyên nhân, mầm mống của sự phát sinh dukkha nằm ngay
trong dukkha chứ không ở đâu bên ngoài. Ðây là ý nghĩa của câu danh
tiếng thường được thấy trong các nguyên bản Pàli:
"Yamkincisamudayadhammam sabbam tam
niroshadhammam.
Bất cứ cái gì thuộc bản chất của sinh, cũng thuộc bản chất của
diệt"
[15].
Một người, một vật, một hệ thống lý
thuyết, khi đã có bản chất của sự xuất sanh, biểu hiện, thì cũng có
luôn trong nó bản chất, mầm mống của sự chấm dứt và hủy diệt. Như thế,
vì dukkha (ngũ uẩn) có trong nó bản chất của sinh nên cũng có luôn
trong nó bản chất của diệt. Ðiểm này sẽ được bàn trở lại trong phần
nói về Diệu đế thứ ba, Diệt (nirodha).
Danh từ Pàli kamma hay Sanskrit
karma (ngữ căn kr nghĩa là làm) có nghĩa hành động, làm.
Nhưng trong lý thuyết đạo Phật về nghiệp, nó mang một ý nghĩa đặc
biệt: nó chỉ có nghĩa là những hành động cố ý, không phải tất
cả mọi hành động. Nó cũng không có nghĩa là hậu quả của hành
động như nhiều người dùng một cách sai lạc. Trong thuật ngữ Phật học,
Nghiệp không bao giờ có nghĩa là hậu quả, hậu quả của nghiệp
được gọi là nghiệp quả (kammaphala) hay dị thục (vipàka).
Ý chí có thể tương đối thiện hay ác. Bởi
thế nghiệp có thể thiện hay ác một cách tương đối. Nghiệp thiện (kusala)
phát sinh thiện quả, bất thiện (akusala) phát sinh ác quả. Khát
ái, ý chí, nghiệp dù thiện hay ác đều có hậu quả là một năng lực:
năng lực tiếp tục, theo chiều hướng thiện hoặc ác. Nhưng thiện ác đều
tương đối, đều ở trong vòng luân hồi (samsàra). Một vị A-la-hán
dù có hành động cũng không dồn chứa nghiệp, vì đã giải thoát
khỏi tà kiến hay quan niệm sai lầm về ngã, khỏi khát ái muốn
trở thành, muốn tiếp tục, khỏi mọi phiền não sơ hở khác (kilesà
sàsavà dhammà, phiền não hữu lậu pháp). Ðối với vị ấy,
không còn tái sinh.
Không nên lầm lẫn thuyết nghiệp báo với
cái gọi là "đạo đức công bằng " hay "thưởng phạt" ý tưởng về đạo đức
công bằng hay thưởng phạt phát sinh do quan niệm có một thực thể tối
cao, một thượng đế ngồi phán xét, ban luật lệ và phân định chính tà.
Danh từ "công lý" hồ đồ và nguy hiểm, nhân danh nó nhiều tai hại đã
đến cho nhân loại hơn là lợi ích. Lý thuyết về nghiệp là luật nhân
quả, hành động và phản ứng. Nó trình bày một định luật tự nhiên, không
dính líu gì đến ý niệm công bằng thưởng phạt. Mọi hành động do ý muốn
đều phát sinh kết quả hay hậu quả của nó. Nếu một nghiệp thiện phát
sinh quả lành và một nghiệp ác phát sinh quả dữ, thì đấy không phải là
sự công bằng hay thưởng phạt do một quyền năng nào ngồi phán xét rồi
ban lệnh, mà đấy chỉ do bản chất của nghiệp, luật lệ của nghiệp là
vậy. Ðiều này không khó hiểu. Nhưng điều khó hiểu là, theo thuyết
nghiệp báo, những hậu quả của một hành vi cố ý có thể tiếp tục biểu
hiện cả trong một đời sống về sau. Vì vậy ta lại phải hiểu theo Phật
giáo, chết nghĩa là gì.
Trên đây ta đã thấy rằng con người chỉ là
một sự kết hợp những sức mạnh hay năng lượng vật lý và tâm linh. Cái
ta gọi chết chỉ là sự chấm dứt hoàn toàn những vận hành của cơ
thể vật lý. Nhưng những sức mạnh, năng lực kia có cùng chấm dứt với
vận hành của thân xác hay không? Phật giáo bảo "Không" ý chí, dục
vọng, khát ái muốn tồn tại, muốn tiếp tục muốn trở thành, là một sức
mạnh ghê gớm điều động toàn bộ những đời sống, những sự sinh tồn, điều
động toàn thế giới. Ðây là sức mạnh lớn lao nhất, năng lực hùng mạnh
nhất trong hoàn vũ. Theo Phật giáo, sức mạnh này không dừng nghỉ cùng
với sự chấm dứt vận hành của thân xác mà ta gọi là chết, nó vẫn
tiếp tục biểu hiện dưới một hình thức khác, phát khởi sự tái hiện hữu
mà người ta gọi là tái sinh luân hồi.
Bây giờ một câu hỏi khác nảy sinh trong
trí: "Nếu không có một thực thể trường cửu bất biến như ngã hay linh
hồn (àtman) thì cái gì có thể tái hiện, tái sinh sau khi chết?"
Trước khi bàn đến đời sống sau khi chết, ta hãy xét đời này là gì, và
nó đang tiếp tục ra sao. Cái ta gọi đời sống, như đã nói nhiều lần,
chỉ là sự kết hợp của năm uẩn, một phối hợp những năng lực vật lý tâm
linh. Những uẩn này luôn luôn biến chuyển, không còn như cũ trong hai
thời khắc tiếp nhau. Chúng sinh ra rồi diệt trong từng sát na. "Mỗi
lúc các uẩn sinh, suy tàn và diệt, hỏi các Tỳ kheo, là mỗi lúc các ông
sinh ra, già và chết"
[16].
Như thế, ngay cả bây giờ, trong đời sống này, chúng ta cũng được sinh
ra và chết đi trong từng giây phút, thế mà chúng ta vẫn tiếp tục. Nếu
ta có thể hiểu rằng trong đời này mình có thể tiếp tục không cần có
một bản thể trường cửu bất biến như ngã hay linh hồn, thì tại sao
không hiểu được rằng sau khi thân xác không còn vận hành, những năng
lực kia vẫn có thể tiếp tục mà không cần đến một bản ngã hay linh hồn?
Khi thân xác vật lý này không còn hoạt
động được, khi ấy những năng lực không chết theo với nó, mà tiếp tục
nhận một hình dạng khác, mà ta gọi là một đời khác. Trong một đứa trẻ,
mọi khả năng vật lý, tâm linh và tri thức đều yếu ớt, nhưng nó có sẵn
tiềm năng để trở nên một người lớn đầy đủ. Những năng lực vật lý và
tâm linh đã làm thành cái mà ta gọi là linh hồn ấy, có sẵn trong chúng
khả năng nhận một hình thức mới, tăng trưởng và thâu thập sức mạnh cho
đến khi đầy đủ.
Vì không có bản thể trường cửu bất biến
nên không có gì đi từ một lúc này đến lúc kế tiếp. Bởi thế, hiển nhiên
không có cái gì trường cửu hay bất biến có thể đi hay luân hồi từ đời
này đến một đời sau. Ðấy là một chuỗi tiếp tục không gián đoạn, nhưng
biến đổi từng giây phút. Chuỗi ấy thật ra không là gì ngoài ra sự
chuyển dịch. Nó giống như một ngọn lửa cháy thâu đêm: không phải cùng
là một ngọn lửa, cũng không phải khác. Một đứa trẻ lớn lên thành một
ông già sáu mươi: dĩ nhiên ông già lục tuần không phải là một với đứa
trẻ sáu mươi năm về trước, nhưng cũng không phải khác. Cũng thế, một
người chết ở đây và tái sinh ở một nơi khác không phải cùng là một
người ấy, cũng không phải khác (na ca so na ca anno). Ðấy là sự
tiếp tục của cùng một chuỗi. Sự khác nhau giữa chết, sống chỉ là một
sát na tâm (thời khoản rất ngắn cho một niệm khởi lên): tâm
cuối cùng trong đời này định đoạt tâm đầu tiên trong đời sau, nhưng kỳ
thực chỉ là sự tiếp nối của cùng một chuỗi liên tục. Ngay cả trong đời
này cũng thế, một tâm niệm khởi lên định đoạt tâm niệm tiếp theo. Bởi
thế theo Phật, đời sau không phải là cái gì huyền bí, và Phật tử không
bao giờ thắc mắc về vấn đề này.
Bao lâu còn khát ái trở thành, thì sinh
tử luân hồi vẫn tiếp tục. Nó chỉ có thể ngừng khi nào sức mạnh điều
khiển nó là khát ái bị chặt đứt nhờ trí tuệ thấy rõ Thực tại, Chân lý,
Niết-bàn.
Ghi chú:
[1]
Mhvg (Alutgama, 1922), p.9, S5(PTS), p.421 và các chỗ khác trong
sách.
[2]
Vedanàsamudayà tanhàsamudavo. M I (PTS), p. 51.
[3]
Xem Chương Sáu.
[4]
Abhisamuc, p.43, pràdhànyràtha, sarvatragàrtha.
[5]
Xem Vibh. (PTS), p.106 ff.
[6]
M I (PTS), p.51, S II p.72, Vibh, p. 280
[7]
M I. p.86
[8]
M I, p.48
[9]
Một điều thú vị để so sánh "sự thúc đẩy của tâm ý" này với "libido"
trong tâm lý học tân thời của Freud.
[10]
MA I (PTS), p.210
[11]
Manosancetanà'ti cetanà eva vuccati. MA I (PTS), p.209.
[12]
Xem Chương Hai, về uẩn thứ tư.
[13]
S II (PTS), p.100. Ba hình thức của khát ái: 1) Dục ái: khao khát
lạc thú giác quan; 2) Hữu ái: khao khát sinh tồn và trở thành 3)
Diệt ái: khao khát hư vô, không hiện hữu như đã nói trong định nghĩa
samudaya "tập khởi của khổ" ở trên.
[14]
Xem Chương Hai, về Ngũ uẩn..
[15]
M III (PTS), p. 280, SIV, pp. 47, 107Vp. 423 và những chỗ khác.
[16]
Prmj I (PTS), p. 78. "Khandhesu jayamànesu jìyamànesu mìyamànesu
ca khane khane tvam bhikkhu jàyase ca jìyase ca mìyase ca". Câu
này được trích trong luận Paramatthajotikà như là những lời của
chính đức Phật. Cho đến bây giờ biên giả chưa tìm được đoạn này
trong nguyên bản của nó.