.
THỰC
TẠI HIỆN TIỀN
Viên Minh
--- o0o ---
[01]
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO
Trước tiên, chúng ta sẽ trình bày sơ lược về
lịch sử Phật giáo để có được một cái nhìn
tổng quát. Chúng ta chỉ nói đại khái về lịch
sử Phật giáo để nắm cái đại cương Phật giáo cổ đại, vì nó không
phải là mục đích của chúng ta. Mục đích của
chúng ta là đào sâu giáo lý
uyên nguyên để tìm lại Chánh Pháp,
để tìm ra sự thật,
để thấy cái thực.
Từ khi Phật thành đạo,
thuyết pháp, giảng kinh cho đến khi Ngài Niết Bàn, tạm gọi là
thời kỳ nguyên thủy I. Thuở ấy giáo pháp
được nói từ kim khẩu của Đức Thế Tôn, mà
bao giờ cũng nói thẳng, chỉ thẳng, nói bằng một ngôn ngữ
đại chúng, phổ biến, giản dị, ai cũng có thể
thấy để thực tri, thực hành và thực chứng. Có thể nói giai
đoạn này là giọt nước tinh nguyên
đầu nguồn của giáo pháp.
Sau khi Đức Phật nhập Niết
Bàn kéo dài trên 200 năm, với 3 lần
kết tập Tam tạng [*] giáo pháp vẫn còn giữ
được tính chất nguyên thủy của
đạo Phật, mặc dầu bấy giờ đã bắt
đầu manh nha một vài kiến giải sai
biệt, nên tạm coi đây là thời kỳ
nguyên thủy II, tức là một đạo Phật vẫn còn
nguyên thủy do các bậc Trưởng lão Thánh Tăng
trùng tuyên.
[*] 3 tháng sau khi Đức
Phật nhập diệt, Ngài Kassapa triệu tập tăng
hội kết tập Tam Tạng lận thứ I, Phật lịch thứ 100, Ngài Yassa mở hội kết
tập lần thứ II. Phật lịch 253 (đời
vua Asoka), Ngài Moggalliputa mở hội kết tập Tam Tạng lần thứ III.
Rồi sau đó là thời
kỳ phân phái. Các tông phái đua nhau xuất
hiện cùng với những luận điểm sai khác
về giáo lý Đức Phật. Phật giáo sử có ghi lại tên tuổi của những học
phái này, con số lên đến 18 hoặc 25. Đó là
khái niệm về một thời kỳ vườn hoa đua nở hay
là thời kỳ của tư tưởng tràn bờ.
Trong thời kỳ phân phái này có thể ghi nhận 3 khuynh
hướng:
1) Khuynh hướng duy trì giáo lý nguyên thủy của
Đức Phật do các vị trưởng lão chủ
trương, nên đã trở thành Trưởng Lão Bộ
(Theravāda).
2) Khuynh hướng triển khai một số
điểm giáo lý và giới luật của
Đức Phật, và vì có nhiều khuynh hướng
luận giải bất đồng nên
đã hình thành nhiều bộ phái khác nhau
như: Nhất Thiết Hữu Bộ (Sabbatthivāda),
Tuyết Sơn Bộ (Hema-vatika), Pháp Tạng Bộ (Dhammaguttika). Về
sau Nhất Thiết Hữu Bộ lại chia ra thành Ca Diếp Bộ hay Quan Ấm Bộ (Kasapika),
Thuyết Chuyển Bộ (Sankantika), Kinh Lượng Bộ (Suttavāda),
v.v...
3) Khuynh hướng triển khai giáo
điển một cách rộng rãi hơn, khơi mào
cho tư tưởng Đại Thừa sau này, như
Đại Chúng Bộ (Mahasanghika),
Độc Tử Bộ (Vajjiputtaka), Nhất
Thuyết Bộ (Ekabbohārika), Kê
Dận Bộ (Gokulika), Pháp Thượng Bộ (Dhammuttarika), Hiền Trụ
Bộ (Bhaddayanika), Một Lâm Sơn Bộ (Channagarika), Chánh
Lượng Bộ (Sammitiya), Chế Đa Sơn Bộ (Paññattivāda),
Đa Văn Bộ (Bahulika), Thuyết
Giả Bộ (Cetiyavāda), v.v...
Khuynh hướng đầu do Trưởng
Lão Bộ chủ trương có thể xem là thời kỳ nguyên thủy III.
Sau này khi tư tưởng Đại
Thừa được thiết lập thì người ta gọi khuynh hướng thứ hai và thứ ba
là Tiểu Thừa. Còn thời chúng ta thì có người còn tệ hơn nữa
đã đồng
hóa Nguyên Thủy với Tiểu Thừa.
Đến đây thì giọt nước
đầu nguồn - tức là tính chất nguyên
thủy của giáo pháp - đã lang thang qua
rất nhiều sông cái, sông con, ao hồ, khe rãnh ... mất rồi! Một
đạo Phật như thật - thật tu, thật chứng - đã
biến thành một loại triết học, triết lý cao siêu
để lý luận rao bán như một món hàng
tinh thần thượng đẳng!
Thời kỳ này kéo dài đến
hơn 600 năm sau Phật Niết Bàn, rồi lần lượt ra
đời các vị luận sư uyên bác.
Đầu tiên là Ngài Mã Minh, tiếp theo là
Ngài Long Thọ, sau đó nữa là các Ngài
Vô Trước, Thế Thân. Họ đã cùng nhau
xiển dương giáo lý Đại Thừa, nên thời
kỳ này cũng gọi là thời kỳ Đại Thừa.
Thời kỳ Đại Thừa kéo dài từ 600
đến 1.000 sau Phật Niết Bàn. Công việc
của các vị luận sư Đại Thừa là sau khi
tiếp thu có phê phán tất cả tư tưởng giáo lý Tiểu Thừa của tất cả học phái
đương thời, họ rạch ròi cái
đúng cái sai, viết lại giáo pháp trong những
bộ luận của mình, như Ngài Mã Minh thì có bộ
Đại Thừa Khởi Tín Luận. Ngài Long Thọ
thì có Du Già Sư Địa Luận và Trung
Quán Luận, v.v... Tuy nhiên luận giải của các Ngài dù chặt chẽ
đến đâu cũng không tránh khỏi đưa đến trình
trạng mâu thuẫn giữa các luận phái với nhau. Nên khoảng 1.000 năm
sau Phật Niết Bàn, Đại Thừa lại phân
phái! Sách vở còn ghi lại hàng chục phái
Đại Thừa khác nhau ra đời, về sau được gọi là
thập đại môn phái. Ví dụ: Mật Tông hay Du Già
Tông còn gọi là Kim Cang Thừa, Không Tông, Pháp Tướng Tông, Tịnh
Độ Tông, v.v... Như vậy là, lại một
lần nữa ngàn hoa đua nở, lại một lần nữa tư
tưởng tràn bờ.
Đến chừng 1.100 năm sau Phật Niết Bàn, Thiền
Tông Trung Hoa ra đời với Tổ Đạt Ma. Đó có
thể gọi là thời kỳ Thiền Tông sau 6 vị Tổ truyền thừa y bát,
Thiền Tông lại chia ra làm 5 phái: Lâm Tế, Tào
Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Qui Ngưỡng!
Sự có mặt của Thiền Tông sau giai
đoạn Tiểu Thừa - Đại Thừa mang ý nghĩa nào?
Giá trị gì? Rồi chúng ta sẽ khảo sát sau.
TÓM LƯỢC CÁC THỜI KỲ
Thời kỳ Nguyên Thủy I: Từ khi
Đức Phật giảng kinh đến khi Ngài
Niết Bàn (45 năm).
Thời kỳ Nguyên Thủy II: 200 năm
kể từ khi Phật Niết Bàn.
Thời kỳ phân phái: Có từ 18
đến 25 học phái ra đời chia ra làm 3
khuynh hướng:
- Duy trì Nguyên Thủy,
đại biểu là Trưởng Lão Bộ (tạm gọi là thời kỳ Nguyên Thủy III).
- Triển khai tư tưởng Tiểu Thừa, đại biểu
là Nhất Thiết Hữu Bộ.
- Manh nha tư tưởng Đại Thừa, đại biểu là
Đại Chúng Bộ.
Thời kỳ này kéo dài đến
khoảng 600 năm sau Phật Niết Bàn.
Thời kỳ Đại Thừa:
Ra đời các Ngài Mã Minh, Long Thọ,
Vô Trước, Thế Thân, với các bộ luận xiển dương giáo lý
Đại Thừa. Khoảng từ 600 năm đến 1.000 năm
sau Phật Niết Bàn. Cũng trong thời kỳ này
Đại Thừa tự phân ra nhiều môn phái như Tịnh
độ Tông, Mật Tông, Không Tông, Pháp Tướng Tông, v.v...
Thời kỳ Thiền Tông ra
đời: 1.100 sau Phật Niết Bàn với
Ngài Đạt Ma.
Một vài nhận xét:
Vào thời kỳ phân phái đầu
tiên, có phái Nhất Thiết Hữu Bộ chủ trương ngã không, pháp hữu.
Thế là sau đó có một vị không đồng ý, ấy là
Ngài Harivama, đã viết Thành Thật Luận
bảo rằng: đồng ý là ngã không nhưng
pháp cũng không (ngã không, pháp không). Tưởng thế là yên, ai ngờ
có một học phái khác lại bảo cả hai chủ trương trên
đều trật, bản ngã là một cái gì rõ
ràng có thực thể, vậy thì bản ngã phải là bất diệt trường tồn. Còn thế
giới xung quanh ta cũng vậy, cả những sở đắc,
sở chứng nữa đều là "có" cả. Vậy nên hiểu ngã hữu, pháp hữu mới
đúng. Dường như chủ trương ấy là phái
Kê Dận Bộ. Chúng ta xem:
- Ngã không, pháp hữu.
- Ngã không, pháp không.
- Ngã hữu, pháp hữu.
Có lẽ các tông phái này không
được nghe Đức Phật dạy trong kinh
Agghivaccha-gottasuttam Majjhimanikāya của thời nguyên thủy
rằng:
-"Không thể kết luận Ngã và Pháp là thường hay vô
thường, hữu biên hay vô biên, đồng nhất hay
dị biệt, có hay không, vừa có vừa không hay không có không không. Tất cả
những kết luận một chiều đó đều không áp dụng được, vì rằng
đó là tà kiến, kiến trù lâm, kiến
hoang vu, kiến hí luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược,
đi đôi với khổ, với tàn hại, với não
hại, với nhiệt não không nhất hướng yếm ly, ly tham, tịch diệt, an tịnh,
thắng trí, Niết Bàn".
Vậy mà các phái vẫn đua
nhau tranh cãi mới thật là kỳ. Đấy là
một cuộc tranh luận căn bản nhất chứ thật ra
nó còn rất nhiều. Tất cả những tranh luận khác nhau này, may mắn
thay đều được ghi lại trong một bộ luận gọi là
Dị Bộ Luận (Kathāvatthu) kể lại
tất cả khác biệt của các tông phái. Nói tóm lại, thời kỳ này
đã xảy ra một trường khẩu chiến tưởng
chừng như không bao giờ chấm dứt.
Vị nổi tiếng nhất thời ấy là Ngài Long Thọ, sau khi
thấy rõ những điểm khác biệt của các tông
phái nêu trên, Ngài đã dùng một
pháp luận gọi là Trung Quán Luận để bác bỏ
tất cả lý luận của ngoại đạo và Tiểu Thừa. Chính vì vậy
Đại Thừa mới được xiển dương.
Phá bỏ lý luận chính là một cách khác
để hiển bày sự thật như trong thời
nguyên thủy Đức Phật đã từng làm.
Nhưng tiếc thay người sau không thấy cái thực, mà lại thấy lý luận phá lý
luận và đã
đưa Trung Quán hoặc Không Luận xuống hàng
triết học nên mới có chỗ cho phái Thanh Biện và phái Duy Thức một lần nữa
nổ ra luận chiến. Đó là
điều bi đát của Phật giáo chúng ta. Rồi sau
đó thì Thiền Tông ra đời. Sở dĩ Thiền
Tông ra đời là vì quá chán cái thời kỳ cả ngàn năm
tranh biện này.
Thiền Tông ra đời với một
tuyên ngôn sấm sét: "Bất lập văn
tự, giáo ngoại biệt truyền". Vì sao vậy? Vì không còn tin vào văn
tự luận giải bóng bẩy cao vời ấy của các học phái nữa. Văn chương chữ
nghĩa đã cải vả nhau ồn ào cả ngàn năm
rồi mà cũng chẳng tới đâu. Ngay kinh
điển của Phật mà ngài còn dạy là chớ vội tin, huống chi kinh luận
của các tông phái đời sau trước tác, vậy thì
tốt nhất là hãy lo "trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật" là
đủ rồi, nghĩa là chỉ có việc thấy cái
thực mà giác ngộ thôi, chứ không qua kinh luận nữa!
Đấy là tuyên ngôn của Thiền Tông.
Tuyên ngôn này thực ra cũng không phải mới mẽ mà chính là tuyên ngôn
đầu tiên của
Đức Phật (mà có dịp chúng ta sẽ nói
đến sau).
Do vậy, có điều rất hay là
Thiền Tông đã vượt qua ngàn năm
tranh biện của kiến giải văn tự để trở lại với thời nguyên thủy của
giáo pháp Đức Phật. Thật là xúc
động! Quả là xúc
động! Tôi nói điều này mà nổi cả da
gà. Xúc động quá phải không? Vì cả
ngàn năm nay Phật giáo rơi vào những
cuộc tranh luận dai dẳng, không ai chịu nhường ai cả. Rồi người này gọi
người kia là Tiểu Thừa, người kia gọi người nọ là ngoại
đạo, lung tung, chẳng ra đâu vào
đâu cả, chẳng còn
đạo lý gì cả.
Nói vậy không có nghĩa là họ lý luận không hay, trái
lại họ lý luận quá hay là khác. Tất cả các vị luận sư của các bộ phái,
Tiểu Thừa và Đại Thừa, dường như họ đều là
bậc thầy lý luận. Nhưng mà cái hay ấy để làm
gì nếu chúng ta không thấy được cái thực?
Chúng ta nếu nắm được một số lý luận tuyệt vời hay ấy, rồi thực tế dẫn ta
tới đâu? Chẳng tới đâu cả, khổ vậy! Cái hay mà
đem ra tranh luận, cãi nhau thì thành
ra vô ích.
Đến đây chúng ta có thể hiểu tại sao Thiền Tông phải
đứng ngoài kinh điển văn tự. Lý luận
dẫu hay thì bờ kia không chạy qua bờ này
được. Lý luận dẫu hay mà vô minh, ái
dục còn sờ sờ ra đó thì cũng không bao
giờ lội lên được nguồn trên
để uống được giọt nước đầu nguồn.
Đến đây tôi chợt nhớ câu chuyện: Có người hỏi Ngài
Huệ Năng niệm Phật A-Di-Đà có lên Tây
Phương Cực Lạc hay không? Ngài Lục Tổ trả lời thẳng thừng như sau:
-"Nếu mình mà không còn tham, sân, si thì mình ở
đây cũng được chứ lên trên ấy mà làm
chi! Phải không? Còn nếu mình còn tham, sân, si mà
đòi lên
đó thì chỉ làm cho nước Cực Lạc thêm hoen ố mà thôi."
Niệm Phật cầu lên Tây Phương Tịnh
Độ mà còn vậy, huống chi chỉ ngồi lý
luận suông thì muôn đời cũng không làm
sao đáo bỉ ngạn.
Trở lại vấn đề, điều mà
chúng ta rất mừng là Thiền Tông đã
đi lại con đường của Phật giáo nguyên
thủy. Chúng ta cần phải hiểu là, ngoài các bộ phái Tiểu Thừa và
Đại Thừa mà chúng ta biết ở trên, còn
có một dòng khác, một dòng đi xuyên
suốt gần 3.000 năm nay, đó là Phật
giáo Nguyên Thủy. Chính nhờ các vị Trưởng Lão, ngay từ thời
Đức Phật vừa Niết Bàn,
đã thấy trước sự hiểm họa của kiến
giải, luận lý nên đã cương quyết bảo
vệ giáo pháp trải qua bao cuộc phân hóa dâu bể thăng
trầm, bảo vệ một giáo pháp tương đối gần với nguyên thủy nhất,
đấy là Theravāda,
Trưởng Lão Bộ, bộ phái của các vị Trưởng Lão, tức là kinh
điển Phật giáo Nguyên Thủy hiện nay
bằng Tam tạng Pāli văn. May mắn là
trước khi phân phái Phật giáo nguyên thủy đã
truyền qua các nước Srilanka (Tích Lan), Myanmar (Miến
Điện), nhờ công của vua A Dục, nên
đã thoát khỏi trường luận chiến của
các tông phái Tiểu Thừa, Đại Thừa, cũng như,
thoát khỏi sự tàn phá của Hồi giáo xâm lăng
Ấn Độ.
Ôi! Từ lâu đã biết
bao nhiêu người hiểu lầm, những Pháp sư, Giảng sư, Luận sư, học giả trong
và ngoài Phật giáo, tu sĩ và cư sĩ, hiểu lầm do xuyên tạc, do bị xuyên
tạc, hiểu lầm do các loại kinh sách không
đúng đắn, hiểu lầm do cố chấp, hiểu lầm do thành kiến,
định kiến, phiến diện ngu si hoặc ngã
mạn đã gọi Phật giáo Nguyên Thủy
là Tiểu Thừa. Như vậy, hoặc vô tình hoặc cố ý...
đã mạ lỵ ngay chính
Đức Bổn Sư, mạ lỵ một giáo pháp uyên
nguyên, trong sáng đầu nguồn.
Qua lịch sử Phật giáo lược dẫn ở trên thì thời kỳ Tiểu
Thừa tức là cuối thời kỳ Nguyên Thủy II (200 năm
sau Phật Niết Bàn) cho đến thời kỳ
phân phái (600 năm sau Phật Niết Bàn).
Đây mới chính thời kỳ của Tiểu Thừa với hàng
chục học phái. Tiểu Thừa còn tồn tại chung với
Đại Thừa từ 600 năm đến 1.000 năm sau Phật
Niết Bàn. Hàng chục phái Tiểu Thừa đó
khác xa Phật giáo Nguyên Thủy mà các vị Trưởng Lão kiên trì bảo mật
cho đến ngày nay.
Chúng ta cần xác định một
điều này: - Tất cả những tư tưởng triển khai tốt
đẹp nhất và
đúng đắn nhất trong thời kỳ Tiểu Thừa, Đại
Thừa và Thiền Tông đều có đầy đủ trong
giáo pháp nguyên thủy của Đức Phật.
Nếu quý vị có đọc quyển "Con
Đường Chuyển Hóa" của thầy Nhất
Hạnh, ở đó thầy có nêu ra 3 bài kinh
Tứ Niệm Xứ. Bài kinh Tứ Niệm Xứ của Nguyên Thủy khác, bài của Nhất Thiết
Hữu Bộ khác, bài Tứ Niệm Xứ của Đại Chúng Bộ
khác. Tứ Niệm Xứ của Đại Chúng Bộ sau này thành Tứ Niệm Xứ của
Đại Thừa. Chính thầy Nhất Hạnh, vốn ở trong dòng
Đại Thừa mà thầy cũng thừa nhận Tứ
Niệm Xứ của Nguyên Thủy là chính xác nhất,
đầy đủ nhất và rõ ràng nhất. Như vậy, thì Tứ Niệm Xứ của Nguyên
Thủy khác, của Đại Thừa khác, của Tiểu Thừa
khác. Vậy phải phân biệt, khảo sát cho kỹ, cho đúng, cho chính xác mới
khỏi lầm.
Xưa nay, hễ mình nghe nói "Tứ Niệm Xứ" là mình
liền hình dung ra một công thức đơn giản:
"Quán thân bất tịnh
Quán thọ thị khổ
Quán tâm vô thường
Quán pháp vô ngã".
Chúng ta thường nói ra nơi miệng, lập
đi lập lại như "câu thiều" vậy
thôi, chứ thật ra ít ai biết được "Tứ
Niệm Xứ" đích thực là gì? Ngay 4
câu kệ ấy về Tứ Niệm Xứ có đúng không? Có nói
được cái thực không? Tứ Niệm Xứ không đơn giản như 4 "câu thiều"
ấy đâu. Quý vị sẽ thấy rõ
điều đó. Nó cao siêu, linh diệu hơn
nhưng lại rõ ràng, giản dị hơn nhiều.
-ooOoo-
KINH ĐIỂN VÀ CÁI THỰC
Phật giáo Nguyên Thủy hiện nay còn giữ
được hầu như nguyên vẹn toàn bộ giáo
lý uyên nguyên của Đức Phật thuở bình
minh. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta sẽ ôm chặt Tam tạng kinh
điển ấy như một kho bảo vật. Không phải vậy.
Chúng ta học đạo, trong tinh thần phát hiện cái thực thì
chúng ta sẽ không lệ thuộc Phật giáo Nguyên Thủy,
Đại Thừa, Tiểu Thừa hay Thiền Tông gì
gì cả. Kinh điển chẳng phải là cái gì
thiêng liêng lắm. Nó chỉ là một đống ngôn ngữ
trống rỗng! Tôi xin nói bạo một chút để chúng ta cùng có một ấn
tượng sâu đậm về nó. Mặc dầu kinh điển cả
đấy, của toàn bộ các tông phái, nhưng thật ra chúng chỉ là mớ ngôn
ngữ trống rỗng. Chúng ta sẽ cùng nhau "bươi" cái
đống bừa bộn lỉnh kỉnh văn tự chữ nghĩa ấy
ra. Quý vị có cùng với tôi làm cái công việc ấy không? "Bươi"
nó ra để nương theo đó mà thấy chân
lý, sự thật, cái thực.
Có lẽ nhiều vị chưa bỏ
được thói quen sùng kính kinh điển, nên
mới nghe nói "trống rỗng" là quý vị sợ rồi. Tôi còn nói hơn thế
nữa, nó chỉ là cặn bã của Chư Phật, Chư Thánh mà thôi. Xin lỗi nếu tôi làm
quý vị khó chịu. Vậy để tôi kể cho quý vị
nghe một câu chuyện:
Hồi xưa có một ông thợ mộc
đến cung điện đẽo bánh xe cho Đức Vua. Thấy Đức Vua đang trang nghiêm
chăm chú đọc cái gì
đó, bèn hỏi:
- Tâu bệ hạ, bệ hạ đang
đọc cái gì vậy?
Vua đáp:
- À, ta đang đọc kinh điển
của Thánh nhân.
Ông thợ mộc cười nói:
- Làm gì có chuyện đó,
thưa bệ hạ! Đó chỉ là cặn bã của Thánh nhân mà thôi!
Vua tức giận:
- Này, này! Đừng có láo
xược! Sao ngươi dám nói như vậy! Nếu giải thích không trôi thì ta
chém đầu, rõ chưa?
Ông thợ mộc vẫn bình tĩnh, trình bày với
Đức vua như thế này:
- Tâu bệ hạ! Tôi có đứa
con trai. Bởi tôi là thợ mộc giỏi nên tôi cố trao nghề cho
đứa con trai yêu dấu. Tôi bảo nó cầm
búa như thế này, cầm đục như thế này,
đẽo như thế này, cưa như thế này... sự
tinh xảo là ở những gốc độ như thế này
này... Tôi đã cố gắng cặn kẽ chỉ bày
từng li từng tí, từng động tác một, từng bí
quyết một. Vậy mà nó vẫn không học
được hết những thiện xảo của tôi muốn trao truyền. Đấy mới chỉ là
cái nghề thợ mộc bình thường, huống chi cái chuyện "Thánh Nhân".
Thánh Nhân là cái gì tâu bệ hạ. Ôi! Cả một
đời sống siêu việt, nhận thức cao cả, sự khôn ngoan, minh triết,
nghĩa là toàn bộ, tất cả cuộc đời phong phú,
sinh động của một vị Thánh - chỉ được ghi trong vài hàng, vài câu
ngắn gọn, khô chết của văn tự; đó là
chưa kể phần nhiều là hư cấu, mà Đức Vua có
thể hiểu được cả con người của vị Thánh sao, thưa Đức Vua?
Thế là ông Vua của chúng ta bèn chịu thua, bèn công
nhận kiến giải của ông thợ mộc là đúng. Cho nên
quý vị đừng quá câu nệ kinh điển, mang cái
bệnh sùng kính kinh điển. Kinh điển
chỉ là cái đống tro tàn không
hơn, không kém. Đống tro tàn, nhưng
không phải quẳng toàn bộ nó đi. Phải "bươi"
nó ra để tìm kiếm cái
đã. Khi đã
tìm được cái thực rồi, ta sẽ
dẹp nó qua một bên hay đốt nó đi cũng được.
Đốt cũng không phải đốt bằng lửa củi than, mà
đốt bằng lửa tuệ giác,
đốt cho cháy hết thành tàn tro những ý
niệm, ôm chặt, câu nệ, thủ chấp văn tự chữ
nghĩa.
Khi một vị Thánh nhân đã
hoàn toàn giác ngộ, thường tuyên bố rằng: "Bây giờ lời dạy của
Đức Phật không còn trống rỗng (như
chỉ là một mớ ngôn từ) nữa".
Giống như một cái chèque không có tiền bảo chứng, hoàn
toàn vô giá trị, chỉ khi nào có tiền trong ngân hàng chèque ấy mới không
còn trống rỗng nữa. Cũng vậy, khi nào chưa thấy cái thực thì kinh
điển trống rỗng. Và chính
Đức Phật cũng dạy vậy: "Pháp như
chiếc thuyền đưa người qua sông. Pháp còn
phải bỏ huống hồ phi pháp". Đó là
Đức Phật nói chứ không phải tôi bày
đặt đâu nghe! Chánh pháp cũng phải bỏ huống
chi tượng pháp, mạt pháp và phi pháp.
Chúng ta phải tự hỏi mình,
để đừng có học đạo theo tinh thần rằng: pháp này là pháp của tông
phái tôi, pháp này là pháp của Tiểu Thừa, pháp kia là của
Đại Thừa, pháp nọ là tối thượng...
nhất đẳng thừa! Pháp của tôi mới đúng, pháp
của anh là sai! Nhưng đó là tại
người ta còn y cứ trên chữ nghĩa. Nếu đã
cùng thấy cái thực thì chẳng ai còn mất công
đi tranh luận làm gì.
Tất cả tinh thần lệ thuộc chữ nghĩa ấy không phải tinh
thần học Phật, học đạo giác ngộ,
học đạo như thật, học pháp
giải thoát.
Thuở xưa, có một thiền sinh tìm
đến một thiền sư vấn đạo.
Thiền sư chỉ vào một đống
tro, bảo:
- Hãy lấy cho ta một chút lửa.
Thiền sinh ngạc nhiên nói:
- Thưa, đấy là tro
mà!
Thiền sư bèn lấy cái que bươi trong
đống tro tìm kiếm một hồi rồi lấy ra
một chút xíu lửa. Thiền sinh bèn ngộ.
Câu chuyện này có thể nói một vấn
đề khác, vấn đề bươi trong đống tro thân tâm
mình đây để thấy tự tánh chẳng hạn.
Nhưng ở đây chúng ta có thể mượn chuyện này
để ám chỉ đống tro chính là kinh
điển mà mình có thể tìm ra lý
đạo trong đó. Tôi xin lập lại một lần nữa, là
kinh điển không có gì phải sùng kính
thái quá đâu. Nếu nó là Thánh nhân, là
vàng ngọc thật sự, thì chúng ta đã
thành Thánh nhân, vàng ngọc cả rồi. Trong chúng ta, ai mà không
đọc kinh, đọc quá nhiều nữa là khác.
Ví dụ có vị đọc kinh Pháp Hoa, ngày
nào cũng đọc, tuần nào cũng
đọc. Nếu kinh đó quả thật là ghê gớm
thì biết bao người đã thành Phật hết
trơn như Tiểu Long Nữ rồi, phải vậy không?
Nhưng kinh điển là
ngôn ngữ. Ngôn ngữ có hai cách sử dụng, một
để chỉ những sự kiện, hai để định nghĩa một ngôn ngữ khác. Còn
chính bản thân ngôn ngữ (nguyên ngôn) thì chẳng có nghĩa gì cả. Một
từ chỉ gồm một số vần và dấu ghép lại. Cùng một số vần và dấu có thể ghép
nhiều cách khác nhau, có nhiều nghĩa khác nhau như: P-H-Ậ-T, T-H-Ậ-P và
nếu thay đổi dấu thì lại còn biến ra
nhiều nghĩa khác nữa: phất, phạt, tháp, thạp...
Đó là chưa kể cùng số vần mà tiếng Anh
nghĩa khác, tiếng Việt nghĩa khác. Như vậy trong ngôn ngữ không có chân
lý, trừ nguyên ngôn, ngôn ngữ chỉ có thể giới thiệu sự thật. Cho nên mình
phải biết nhìn xuyên qua đó để tìm ra
sự thật, may ra gặp lại chánh pháp, còn không thì chúng ta
cứ đời đời chuyền bắt, rông ruổi, thủ chấp
nơi cành, nhánh, ngọn, nghĩa là đời
đời rơi vào "mạt pháp" vậy. Nói như vậy không có nghĩa là ở
vào thời mạt pháp này chúng ta sẽ không có cơ hội thấy
được chánh pháp. Không phải vậy. Miễn là
chúng ta đừng quá cố chấp tông phái, đừng quá
tin vào kinh điển. Chúng ta chỉ nên
nương vào kinh điển để thấy ra sự thật, cái
thực mà thôi.
Học đạo như thật, chúng ta
nên học theo tinh thần này: tinh thần nghi hoặc.
Đọc một quyển kinh, chúng ta sẵn sàng
nghi ngờ nó chứ không phải tin tưởng cả 100%.
Đọc Thiền Tông, ví dụ: chúng ta tin Thiền Tông 100% là sai! Không
phải đâu, không phải tất cả ngữ lục để lại vị
nào cũng ngộ cả đâu. Chỉ có một số ngộ
thôi. Một số khác, cũng để lại ngữ lục đàng hoàng, nhưng mà "giả",
là "dỏm". Người ta đâu có biết được.
Người đời đâu có biết ai "ngộ" và ai "không ngộ"? Cho
nên "giả" mà cũng cứ cho là "thiệt", khổ vậy! Bởi vậy biết
nghi ngờ, phải có tinh thần mổ xẻ, phân tích, xét lại. Phân tích là một
cái gì nghiêm túc, đúng đắn nhất trong thái
độ của người học Phật. Đức Phật Ngài cũng dạy như vậy. Kinh Kalāma
Đức Phật bảo sao quý vị có còn nhớ không?
Đừng có tin bất cứ điều gì dẫu
đó là từ trong kinh
điển để lại. Đừng có tin bất cứ lời dạy nào
dù người ta bảo đấy là do Như Lai
thuyết, v.v... Đừng có tin. Chỉ tin điều nào
khi ta đã
đem so sánh nó với pháp. So sánh với pháp là cái gì? So sánh với
pháp tức là so sánh với cái thực.
Tôi xin lập lại, so sánh với pháp là
đem cái thực ra mà so sánh.
Điều quan trọng, căn bản, tối quan trọng - nó
nằm ở đây. Xin quý vị ghi nhận cho. Tôi xin lấy vị dụ: Bây giờ, trước mặt
quý vị đây, tôi nói: "cái ly nước", thì quý vị hãy so sánh
với cái ly nước cụ thể, thấy được bằng mắt,
sờ được bằng tay - ở bên trong bàn tay này này. Chính cái ly nước
cụ thể, là cái thực ấy - cái mà chúng ta cần
để so sánh, đối chiếu, minh chứng. Nếu không có cái thực đó, thì
muôn đời chúng ta chỉ biết cái ly nước qua ý
niệm chúng ta mà thôi. Đau khổ hơn, bi
đát hơn, lại biết qua ý niệm người khác, rồi của người khác nữa v.v... Cả
một xâu, một chuỗi chồng lên nhau, không phải một "cái
đầu" mà hàng ngàn cái "đầu
thượng trước đầu", khổ vậy!!! Thế là ý niệm về ý niệm, ý niệm
về ý niệm về ý niệm, v.v... Đó là thảm
kịch học Phật của chúng ta ngày nay, của Việt Nam và của cả thế giới, ngàn
năm trước cũng như ngàn năm
sau.
Vấn đề thứ nữa là
so sánh với pháp, nhưng không phải mình đem
cái giáo pháp của mình so sánh. Đấy
lại là lầm to. Nên nhớ rằng, khi chúng ta
đọc kinh, tất cả những điều ta hiểu về kinh,
thì đấy chưa hẳn là kinh nói.
Quý vị hãy suy gẫm về điều đó. Những điều
chúng ta hiểu về kinh thì chỉ là cái biết của chúng ta về kinh mà
thôi. Kinh là để nói về sự thật.
"Nhất thiết tu-đà-la giáo như tiêu
nguyệt chỉ". Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng
chứ không phải mặt trăng. Kinh nói về sự thật chứ không phải
là sự thật. Như vậy, khi mình đọc kinh, mình
hiểu theo ý mình thì quả nhiên là đã
xa sự thật không biết bao nhiêu mà kể, xa ghê gớm. Lại còn có kẻ hiểu kinh
qua cái hiểu của người khác về kinh nữa thì thật là muôn dặm trùng quan,
phải thế không? Không tin kinh, đừng tin
kinh. Không những không tin mà còn phải nghi ngờ. Cả ông thầy dạy
kinh mình cũng không tin. Học đạo thì
chẳng cần tin vào ông thầy nào cả (trừ phi ông thầy chỉ cho mình thẳng
vào sự thật và mình đã minh chứng
được điều đó). Chỉ tin vào sự
thật, phải lột cho hết mặt nạ ngôn ngữ, phải
đào cho đến tận cùng cái thực.
có phải vậy không? Chỉ có cái thực, thấy được
cái thực, chúng ta mới uống được giọt nước đầu nguồn, giải quyết toàn
bộ vấn đề khổ đau của đời sống và thấy
rõ Niết Bàn ngay trong hiện tại, thấy tức khắc không cần phải trải qua
thời gian nào cả.
Nói tóm lại, người học pháp, học
đạo là phải biết nghi ngờ kinh
điển, bỏ tông phái ra ngoài, bỏ luôn
ra ngoài tất cả mọi tư kiến, để tâm hoàn
toàn trống rỗng, mới mẽ và sáng tạo.
Đây không phải là một buổi thuyết pháp, có thể
gọi là hội thảo, vậy khi quý vị thấy tôi nói sai thì cứ
đứng dậy phát biểu một cách thẳng thắn, đừng
ngại gì cả. Tại sao vậy? Tại vì chúng ta cùng
đi tìm sự thật, cái thực. Sự thật, cái
thực ấy phải đào bới tận cùng, nhìn
ngắm khách quan, không dừng lại trên ngôn ngữ, kinh
điển, không dừng lại trên ý kiến riêng
của mỗi người. Cho đến khi nào
đưa sự thật ra, mà ai cũng
đồng ý rằng đó là sự thật, thì khi
đó mới thôi. Chúng ta phải chuẩn bị tinh thần
như vậy, trong suốt thời gian này, bây giờ và cho cả
đời học đạo.
Quá Trình:
TỪ CÁI THỰC ĐẾN KINH ĐIỂN
TỪ KINH ĐIỂN TRỞ LẠI CÁI THỰC
Cái thực ↔ Kinh Điển
Để bổ túc cho cái thực và
để cho chúng ta cùng thấy rõ ràng hơn,
tôi sẽ giới thiệu với quý vị một quá trình rất
đại khái, đi từ cái thực (sự
chứng ngộ của Đức Bổn Sư) qua
kinh điển (Ngài nói về cái thực
ấy), rồi từ kinh điển trở
về lại với cái thực ấy như thế nào.
Người ta thường nói rằng quá trình ấy
đi từ:
Giáo → Lý → Hành → Quả
Nhưng từ giáo qua lý ít khi không kinh qua nghĩa. Vả
lại lý đúng phải kiểm chứng qua cái thực. Và
sống thực chính là hành - quả. Vì vậy, trên thực tế quá trình thường diễn
ra như thế này:
Giáo → Nghĩa → Lý → Thực → Sống thực
Tại sao vậy?
Từ kinh điển
(giáo) chúng ta cố gắng tìm nghĩa, bỏ nghĩa lấy lý,
đào sâu cái lý
đó để lấy cái thực. Ấy là chiều
về, còn chiều đi của nó thì sao?
Đức Phật, Ngài chứng ngộ, Ngài thấy cái thực.
Ngài muốn chỉ cái thực ấy cho mọi người cùng thấy, vậy nên Ngài phải nói,
phải trình bày, ấy là lý của sự thật.
Cái thực → Lý của cái thực
(Phật chứng ngộ) → (Ngài nói ra)
Nếu tôi gọi sự thật ấy là
đạo, thì nói về đạo tức là
đạo lý.
Sự thật → Lý của sự thật
Đạo → Đạo lý
Tôi tạm mượn chữ Đạo
của Lão Tử để nhằm chỉ cái rốt ráo như chân
như thật, cũng là cái mà Đức Phật tự
chứng, tự thấy một cách trọn vẹn, chứ không phải đạo là con
đường, là phương pháp.
Đức Phật Ngài
đã chỉ thẳng vào cái
đạo ấy, Ngài nói thành ra
đạo lý. Một số vị khi được Đức Phật chỉ như
vậy thì thấy ngay, một số vị thì chưa thấy. Vị thấy rồi bèn chỉ lại
cho người khác bằng cái thấy về đạo của mình.
Các vị khác chưa thông, chưa thấy bèn thảo luận với nhau, kiến giải cùng
nhau, nên bây giờ không còn là đạo lý
nữa mà thành ra triết lý.
Đạo → Đạo lý → Triết lý
Vấn đề phân ly bắt đầu từ
chỗ ấy. Đến giai đoạn triết lý thì rõ ràng không dính một chút
Đạo nào nữa, chỉ còn dính chữ
lý nơi đạo lý! Quý vị
thấy rõ không? Chúng ta sẽ lấy ví dụ về điều
này:
Trước mặt chúng ta có cái bảng
đen, và tôi nói "đây
là bảng đen". Bảng
đen ví cho cái thực, cái
đạo. Cái bảng
đen mà quý vị thấy một cách cụ thể,
đấy là
đạo. Nhưng khi chúng ta dùng ngôn ngữ tức là
đã qua khái niệm, thì khái niệm "bảng
đen" không còn là
đạo nữa, mà nó thành ra
đạo lý. Hẳn quý vị
đã thấy rõ
điều đó rồi.
Đạo → Đạo lý
(Cái bảng đen cụ thể) → (Cái
bảng đen khái niệm)
Chuyện không dừng lại ở
đó. Quý vị về nhà kể lại câu chuyện này, nói lại cái bảng
đen ấy cho mọi người cùng nghe. Quý vị
nói rằng: "Lúc 3 giờ tại chùa Huyền Không, ông thầy
đưa tay chỉ một vật và gọi nó là cái
bảng đen". Rồi quý vị cố dùng danh
từ, hình ảnh để diễn tả về cái bảng đen ấy.
Một số người vẫn không hiểu hoặc hiểu cái bảng đen ấy rằng: nó bằng tôle,
bằng gỗ, bằng ván ép, bằng xi măng, v.v... quý vị lại giải thích nữa và
cứ như vậy, khi mà cố gắng giải thích, phân tích, chia chẻ thì
đạo lý
đã rơi xuống triết lý rồi.
Triết lý, chính là suy nghĩ về đạo lý. Triết
lý thì chỉ thấy được cái nghĩa. Cái
nghĩa, chính là nơi, là chỗ sinh ra tranh cãi, lý luận.
Đạo → Đạo lý → Triết lý → Lý giải
(Thực) → (lý) → (nghĩa) → (tranh luận)
Đến đây, điều đã trở nên hiển nhiên rằng, từ
thời Đức Phật, vì Ngài thấy
đạo, thấy cái thực nên
Ngài đã chỉ thẳng. Nhưng
đến các thời kỳ Tiểu Thừa, rồi phân phái, rồi
Đại Thừa, rồi phân phái; suốt trong thời gian ngàn năm
ấy biết bao là hệ thống giáo lý ra
đời, cả một cuộc trường chiến bất phân thắng bại ấy, rõ ràng
đã rơi xuống bình diện triết lý, chứ
không còn tìm đâu ra đạo lý nữa vậy. Nói vậy
không có nghĩa là vào thời kỳ Tiểu Thừa,
Đại Thừa không có ai giác ngộ hay chứng đạo.
Có rất nhiều, nhưng mà "thiên địa
bỉ nhân hiền ẩn" nên các bậc chứng ngộ không ra mặt, tranh
biện.
Tại sao vào thời kỳ ấy cứ tranh cãi, lý luận? Tranh cãi
lý luận vì không còn ai thấy cái đạo ra làm
sao nữa. Nếu thấy cãi nhau làm gì, phải vậy không?
Trước mặt quý vị đây, nếu
tôi đưa tay lên chỉ vào cái bảng và nói rằng: "đây
là cái bảng" thì không ai tranh cãi, lý luận làm gì, vì ai cũng
thấy. Nhưng nếu việc ấy nói lại thì 10 người trong quý vị
đây sẽ có 10 cách nói khác nhau, khác nhau
qua hiểu biết, qua tư duy, qua ý niệm, qua sở học, qua trình
độ ngôn ngữ, văn hóa giáo dục... mà
mình đã thủ
đắc được, nghĩa là qua cả hàng chục
cái chủ quan, tư kiến, cá biệt của mỗi người...
để chỉ về một cái bảng đen mà quý vị
đã từng thấy! Vậy thì hy hữu thay cho
người nào nghe tả cái bảng đen mà có
thể thấy được cái bảng đen! Vì sao
vậy? Vì 10 người trong quý vị diễn tả một
đằng, mà 100 người nghe, 1.000 ngàn người nghe, lại tưởng tượng một
nẻo, hiểu một nẻo qua tư duy, kinh nghiệm, ý niệm, sở học, trình
độ ngôn ngữ, văn hóa, giáo dục... chi chi
đó... của họ v.v... quý vị thử phóng tâm một chút mà tưởng tượng
xem. Ồ, kinh khiếp quá, làm sao mà có thể thấy
được cái bảng đen chứ! Mà bi thảm
thay, đó là bộ mặt của triết lý, cũng
là bộ mặt của Phật giáo trải qua thời kỳ tranh cãi và lý luận. Vậy thì bây
giờ chúng ta đã có cơ sở
để nghi ngờ toàn bộ lý luận ấy, phải
không?
Tuy nhiên, trong toàn bộ giáo lý của hàng chục học phái
ấy, có ẩn tiềm sự thật không? Quý vị nhớ kỹ cho
điều này: xin thưa, có. Nếu quý vị
đã từng thấy cái bảng rồi, thì sau khi
nghe hàng chục lý luận, diễn giải khác nhau
đó, quý vị sẽ thấy rằng: À, thì ra chỗ này họ cũng nói
đúng điểm này, chỗ kia nói
đúng khía cạnh kia... Vậy thì chúng ta
có thể hiểu rằng vào các thời kỳ đó, vẫn có
người đạt đạo do túc duyên, do căn cơ,
do ít cố chấp, do ít bụi cát trong mắt thế nào
đó, nhưng quả là có người
đã thấy
đạo. Họ đã bước qua được cái lung tung
lang tang của ngôn ngữ và lý luận, qua
được cái khu rừng hỗn mang của những chủ quan kiến giải để tìm về
cái đạo, về cái thực uyên nguyên, sơ
thủy.
Tiểu Thừa, Đại Thừa đều có
người đạt đạo, mà Thiền Tông sau này cũng vậy nữa,
đạt đạo rất nhiều, vì họ cũng nói ra
sự thật mà họ chứng ngộ, chứ không lý luận tranh cãi.
Tôi đọc cuốn "Chứng
đạo ca" của Ngài Huyền Giác do một
dịch giả nào đó diễn giải. Tôi thấy thế này:
Có đoạn ông nói rất đúng.
Đoạn khác nói sai. Đoạn nữa nói đúng, đoạn nữa lại sai ... Điều đó chứng
tỏ gì? Chứng tỏ dịch giả chưa thực thấy. Sở dĩ có những chỗ ông
dịch đúng thì cái
đúng, xin thưa rằng, không phải là cái
đúng của người dịch mà nhờ ông ấy vô
tình dịch đúng với ý của Ngài Huyền
Giác. Còn điểm sai? Có lẽ không phải Ngài
Huyền Giác sai, mà chính người diễn dịch sai, hiểu không tới cái ý của
Ngài Huyền Giác, khổ vậy!
Thử liên hệ một câu chuyện tương tự. Có anh Phật tử kia
nói về đạo Phật thường đem Tam pháp ấn
vô thường, khổ não, vô ngã ra
để nói. Tôi liền hỏi: Vậy vô ngã là
gì? Anh ta trả lời: vô ngã là không có gì là ta, không có gì là tôi cả.
Ta, tôi, đã không có thì làm gì có cái
gọi là xe của tôi, nhà của tôi! Nghe nói thế là tôi biết anh ta trật rồi.
Biết rằng anh ta không hiểu vô ngã là gì rồi. Vô ngã là vô ngã, còn cái
nhà của tôi vẫn là cái nhà của tôi, nó có liên hệ gì với nhau
đâu? Nếu vô ngã
để không có cái nhà của tôi, thì ai
thấy vô ngã, chứng ngộ vô ngã đều đi lang
thang hết trơn hết trọi sao? Không phải vậy. Anh ta đã nói trật còn
vô ngã muôn đời vẫn đúng.
Trường hợp người diễn giảng Chứng
Đạo Ca cho ta hiểu một điều là người
sau cứ bàn về người trước. Và cứ vậy... ta cứ nghe người dịch là một học
giả uyên bác, không những vậy còn nghiên cứu thâm sâu vào
đạo học, là chúng ta cứ tin theo, bắt
chước theo, chứ không biết ông ta nói sai khi so sánh với cái thực.
Zen, qua Suzuki ta đã
thấy ông đã lý luận rất là chi ly, rất
là uyên bác, nhưng cũng chỉ là lý luận, qua
đó ta được giới thiệu về mặt văn học, nghệ thuật, lịch sử Zen hơn chính là
đạo Zen. Vì vậy, ta thấy có chỗ nói
đúng, có chỗ nói sai. Rồi lại qua ngôn ngữ
của các nhà dịch thuật, rồi một lần nữa lại qua tư kiến
đọc giả, không biết trở lại tay Suzuki,
Suzuki có đồng ý không, huống hồ thấy cái thực. Rõ ràng là một
người đoán mò, dẫn theo một
đoàn người
đoán mò. Những
đoàn người
đoán mò, không biết họ sẽ dẫn nhau tới
đâu? Đấy là bi kịch, là thảm kịch kênh
kiệu của lý trí con người.
Cũng cùng nội dung như trên, nhưng
để thay đổi không khí, tôi sẽ kể chuyện kiếm
hiệp, kiếm hiệp của Kim Dung, truyện Cô Gái Đồ Long, về cái anh chàng
Trương Vô Kỵ (cũng xoay quanh vấn đề so
sánh với cái thực).
Anh chàng Trương Vô Kỵ, tôi không nhớ tại sao anh ta có
cái duyên học được Cửu Dương Chân Kinh. Hôm ở
Quang Minh Đỉnh, anh ta đi lạc vào một cái
động với một cô bạn gái người Ba-Tư và
tìm được pho bí kíp ghi chép một loại võ
công ghê gớm là Càn Khôn Đại Nã Di Tâm
Pháp. Nhờ cô bạn gái Ba Tư hiểu tiếng Ba Tư, nên
đã đọc
cho anh ta nghe và khuyên anh ta nên luyện võ công tối thượng này,
chàng Trương đồng ý. Đọc câu thứ nhất, anh ta
luyện, thấy hay quá, hiệu quả ngay... Đọc câu thứ hai, anh ta luyện... Cái
gì thế này, khó chịu quá, luồng chân khí
đi ngược... Anh ta bỏ đi, không luyện nữa.
Nhưng đọc câu thứ ba... Gì thế này, hay quá! Và anh ta lại luyện...
Rồi cứ thế, thấy hay là luyện, câu nào thấy khó chịu, không thông là anh
ta bỏ. Quý vị biết không, tuần tự như thế, chàng Trương của chúng ta
đã luyện thành công Càn Khôn
Đại Nã Di Tâm Pháp.
Đấy là chuyện hy hữu. Vì từ xưa
đến nay, ai mà luyện Càn Khôn
Đại Nã Di Tâm Pháp
đều bị "tẩu hỏa nhập ma" hết.
Tại sao vậy? Tại vì cái ông sáng tác ra môn võ ấy, có chỗ ông biết, có chỗ
ông không biết. Chỗ ông biết, ông nói đúng,
chỗ ông không biết, ông nói sai. Sở dĩ ai luyện đều bị tẩu hỏa nhập ma là
vì cái đúng họ cũng luyện, cái sai họ cũng
luyện. Còn Trương Vô Kỵ thì khác. Là vì anh ta có Cửu Dương Chân
Kinh trong người. Anh ta có cái đạo, cái
thực, cái chánh khí, cái đúng ở trong người. Thế là anh ta chỉ
việc lấy cái thực ấy ra mà so sánh, mà đối
chiếu, mà chứng minh. Họ Trương thành công là nhờ vậy.
Chuyện kiếm hiệp chưa hết. Nó có những
điểm thú vị nữa, nếu chúng ta liên hệ
nó với việc học Phật, tu Phật trong võ học của Kim Dung. Nếu Cửu Dương
Chân Kinh được ví là cái thực, cái
nội lực, cái chánh khí, thì Cửu Âm Chân Kinh là cái chiêu thức, cái
biến hóa, cái phương tiện, cái bên ngoài. Ta có thể liên hệ xa hơn một
tí: Cửu Dương là đạo học, là
chánh khí còn Cửu Âm là triết học, kinh
điển, văn chương. Anh chàng Kim
Dung quả là tay hảo thủ, dường như anh ta hiểu những chỗ mà chúng ta
đang nói ở đây.
Như vậy, người học Phật, trước tiên là phải thấy cái
thực, có nội lực, cái chánh khí ở bên trong. Nếu
chưa có cái thực, cái chánh khí ở bên trong mà
đi luyện cái bên ngoài thì thành ra tà
ma ngoại đạo cả. Như Cửu Âm Chân Kinh xé được
một tờ, đọc được một câu Cửu Âm Chân Kinh mà
đem luyện, thì thành ma nhỏ, tiểu ma.
Nếu ôm được một xấp, một đống về luyện thì
thành ra ma lớn, đại ma đầu! Kinh khủng chưa!
Vậy nếu quý vị mà chưa có cái thực, chưa thấy cái
thực, mà quý vị cứ tu, cứ luyện, thì tôi xin báo
động rằng quý vị thành công chừng nào
càng nguy hiểm chừng nấy. Cái ngã của quý vị càng ngày càng to,
cho đến đại ngã. Tà ma
ngoại đạo là ở chỗ
đó chớ không phải ở đâu.
Có cái thực rồi, nghĩa là luyện Cửu Dương Chân
Kinh rồi, mới luyện Cửu Âm Chân Kinh sau thì thành ra tốt, thành ra diệu
dụng phương tiện vô cùng tốt. Kim Dung có đưa
ra hình ảnh "cô gái áo vàng" múa Cửu Âm Chân Kinh
để nói lên ý ấy. Cô múa Cửu Âm Chân
Kinh mà sao đẹp quá, dịu dàng thanh
thoát quá, là người tiên chứ không phải người trần tục nữa. Vì sao vậy? Vì
cô gái áo vàng ấy vốn đã có sẵn Cửu
Dương Chân Kinh trong người rồi. Còn một cô gái khác cũng múa Cửu Âm Chân
Kinh là Chu Chỉ Nhược, trông sao lại kinh khiếp vậy, bạo ác, bạo tàn như
ma quỷ? Tại sao vậy? Vì Chu Chỉ Nhược chưa có Cửu Dương Chân Kinh trong
mình.
Kim Dung đưa ra hai hình
ảnh này rõ ràng quá. Dường như chẳng qua một ẩn dụ nào cả. Anh ta nói rất
rõ. Hiện trạng, người tu Phật ngày nay dường như ít ai thấy rõ cái sự thật
ở bên trong quan trọng đến ngần nào.
Tà, chánh, ma, đạo cũng từ đó mà phân
ranh, mà định danh, mà lập căn
cứ địa!
Tôi tu Phật mà tu hoài không thấy gì cả, không có sở
đắc nào cả, bèn ráng kiếm cho mình một
cái! Thế là tôi luyện một câu chú, một đạo bùa.
Ai tới, tôi biểu diển một pha cho người ta xem.
Để cho người ta tưởng đó là cái thực.
Nhưng có phải thế không? Cái đó, xin thưa, là
cái lừa bịp. Dùng một cái giả để điền vào
cái thực, chứng tỏ bản thân tôi không có cái thực. Như vậy, nếu ai luyện
một cái gì đó, tức là luyện cái bên
ngoài, cái giả, cái Cửu Âm Chân Kinh, mà chưa có Cửu Dương Chân Kinh bên
trong, cái thực, xem chừng sẽ bị "tẩu hỏa nhập ma" không chóng thì
chầy thôi.
Một người khác, luyện Cửu Âm Bạch Cốt Trảo hoài không
thành công, không thấy nội lực phóng ra trên
đầu những ngón tay, bèn tẩm độc vào
đấy. Khi giao chiến thì dùng
độc thay cho nội lực. Đương nhiên là
vậy. Đương nhiên ma giáo là vậy.
Đương nhiên ma giáo không có nội lực
chân chính, nên dùng rắn độc, nhện độc, bò
cạp độc, thuốc độc... hoặc những cái ghê
gớm bên ngoài để khống chế, thu phục hoặc làm
lóe mắt thiên hạ. Nhưng làm thế nào hơn nổi người chánh khí? Làm thế nào
qua mắt được người có Cửu Dương Chân Kinh
chánh tông? Do vậy người luyện Cửu Dương Chân Kinh rồi, thâm nhập cái
sự thật rồi, họ có một cái "tuệ nhãn" rất tinh tường,
họ nhìn xuyên qua được tất cả mọi giả tướng,
thấy rõ mọi biến hóa xảo quyệt của ma giáo, thấy rõ từng sơ hở một.
Như vậy, đâu chân, đâu giả, đâu thực, đâu hư
họ biết ngay, họ thấy rõ tức khắc không hề qua phán
đoán, luận lý.
Tôi đã
đi xa một chút, cũng không sao, vì
càng nhiều minh chứng cho một vấn đề thì
chúng ta dễ dàng liễu ngộ điều đó hơn. Hôm
nay cùng tìm về cái thực, cùng luyện Cửu Dương Chân Kinh thì
đâu cần tẩm độc trên
đầu những ngón tay, đâu cần những chiêu
thức ma mị, đâu cần những ngôn ngữ văn hoa
bay bướm gì gì đó... phải không? Không
cần thiết. Vấn đề cuối cùng và tối quan trọng là mỗi người trong
chúng ta sẽ "bắt" được cái thực ấy. Hãy
"nắm" lấy nó không còn cơ hội nào nữa. Không còn thời gian nào nữa.
Ngày mai cũng không đợi được. Đạo pháp đã
"sa đọa" quá sâu rồi.
Thời xưa, thời Lão Tử. Lão Tử cũng
đã từng than: "Ôi, cái
đạo ta nguy rồi! Người ta nói đến đức là
mất đạo rồi. Người ta nói đến nhân là
mất đức rồi... cho đến khi mà người ta
chỉ còn bàn đến hình thức lễ nghi, bổn
phận vua tôi, chồng vợ... thì nó chỉ còn cái vỏ mỏng bao che bên ngoài...
là đầu mối của mọi sự hỗn loạn...".
Thì bây giờ chúng ta cũng bắt chước Lão Tử mà than
rằng: "Than ôi! Khi mà người ta không còn biết sự thật, cái thực là
gì nữa... Thì dẫu người ta có tu luyện thần thông biến hóa, xây dựng
chùa ngọc Phật vàng, Tam tạng làu thông, văn
hay chữ tốt, tiến sĩ, cử nhân, tín đồ đông đảo, tổ chức quy mô, giảng kinh
nói pháp, hình thức thịnh vượng huy hoàng, lý luận hay viết sách
giỏi... nghĩa là tất cả chỉ còn hình thức, truyền thống, kinh viện, hoặc
chỉ còn là tôn giáo, tín ngưỡng... thì toa tàu Phật giáo
đã đến
hồi đỗ dốc, lao vào tận đáy của vực
thẳm vô minh và hủy diệt của loài người!".
Đó chính là bộ mặt "huy hoàng" của thời
mạt pháp chúng ta!
Lộ trình sa đọa ấy diễn ra
như sau:
LÃO TỬ:
Đạo → Đức → Nhân → Nghĩa → Lễ (nhi loạn
chi thủ).
PHẬT:
Thực → Lý → Nghĩa → Kinh luận
(Đạo) → (Đạo
lý) → (Triết lý) → (Triết học)
Tất cả kinh giáo các tông phái của chúng ta ngày nay bi
đát thay, nó chỉ là triết học - tức là
học về triết, xem chừng nó cũng là đầu mối
cho mọi sự hỗn loạn tri kiến rối bời, nó chẳng còn mang một chút
xíu nào cái đạo, cái thực ở trong hết trơn
hết trọi. Lão Tử nói: "Vi đạo nhật
tổn, vi học nhất ích". Từ Đạo (1)
sa đọa xuống học (4) là rơi xuống tới 4 bậc:
Đạo → Đạo lý → Triết lý → Triết học
(1) → (1) (2) → (3) (2) → (3) (4)
Kinh giáo bây giờ chỉ còn dính chữ "triết" mà
thôi. Mà "Triết" là "tay cầm cái búa" (chiết tự theo chữ
Hán). Học Phật bây giờ, chỉ còn học cách tay cầm cái búa mà chia chẻ sợi
tóc làm tư, học về triết lý, nhưng chữ lý không còn là lý của sự mà
là lý của luận.
Nhưng nếu còn dính chữ lý - triết lý - thì sao? Nó
chẳng đi tới đâu cả. Vì triết lý chính
là nghĩa của lý. Nếu mình đọc kinh giáo, mình
hiểu được nghĩa rồi mình
đem cái nghĩa ấy ra mà thực hành, thì
đôi khi cũng chẳng ra cái gì, sai lầm
nữa là khác.
Tôi xin có ví dụ: kinh giáo
định nghĩa rằng "Từ bi giống như
tình thương người mẹ đối với đứa con một của
mình". Nghe vậy rồi mình đem áp
dụng nó, thực hành nó, mình gặp bất cứ ai, chúng sinh nào mình cũng
cố gắng thương, như tình thương của người mẹ
đối với đứa con một. Vậy là trật rồi, có phải không? Sai lầm nghiêm
trọng nữa là khác. Chẳng có thể lấy bất kỳ một
định nghĩa nào của từ bi mà
đem ra áp dụng được cả.
Một định nghĩa khác của từ
bi: "Từ là cho vui, bi là cứu khổ". Nghe vậy là khi không
phát nguyện làm Bồ Tát, trong khi tâm mình
đầy phiền não khổ đau, vô minh ái dục,
đầy rẫy các chúng sinh đang làm loạn mà tự mình chưa "Bồ Tát"
được. Các nhà phân tâm học có lẽ sẽ
gọi đó là "Bồ Tát tính dục" chỉ
làm khổ người khác mà thôi, giống như người ta nói thiện chí cộng với
ngu dốt thành phá hoại vậy.
Trong kinh giáo thường nói
đến bố thí. Có nhiều người Phật tử thật là tốt, tu hành rất ư là
kịch liệt! Họ chuyên bố thí áo quần, tiền bạc, thuốc men... cho
đến người đói khổ. Họ không mệt mỏi bố thí,
cúng dường trai Tăng, làm phước. Đấy là
khi họ có tiền. Còn khi không có tiền thì họ rất khổ sở. Phải tìm mọi cách
cho có tiền để bố thí. Nhưng khi mà
tìm mọi cách cho có tiền thì đã mất
hết nghĩa bố thí rồi. Tìm mọi cách cho có tiền thì họ
đã giết chết bố thí! Than ôi! Hiểu bố
thí như vậy có nguy không?
Tôi là tu sĩ, là người xuất gia thì tôi có
đồng nào mà bố thí? Y, thực, thuốc
men, sàng tọa đều là nhận của người ta
cho cả. Như vậy, chẳng lẽ vị khất sĩ không bằng kẻ cúng dường hay sao?
Theo tôi thì nhận cũng là một cách bố thí. Thí chủ cho tôi cơm áo, còn tôi
nhận để họ được phước lành. Vậy tôi
chỉ việc tu hành thôi đã là bố thí
rồi. Đúng không? Người liễu đạo thấy cái thực
nên luôn luôn bố thí, hằng sa bố thí. Có lẽ quý vị ngạc nhiên nhưng
rồi quý vị sẽ thấy bố thí không có nghĩa chỉ là
đơn giản đem một số tiền ra cho người khác.
Nếu mình chưa hiểu bố thí, cái thực của bố thí, mà mình
đem áp dụng nghĩa của bố thí là mình
đã tự hại mình.
Cái nghĩa mà mình đem áp
dụng là do tư ý, tư niệm của mình mà ra, chứ không phải do từ cái
thực mà mình thấy. Nó khác nhau một trời một vực. Như vậy cái nghĩa chưa
phải là cái thực. Cái nghĩa chỉ là triết lý, lý luận. Nguy hiểm chưa. Quý
vị đọc kinh giáo lý có tu, có hành,
nhưng đến đây rồi cũng chẳng có một bảo đảm nào
là đi đúng đường về cái thực cả. Người nào
từ nghĩa thoát ra được nghĩa (triết
lý) và tìm về được cái lý (đạo lý)
đã là người có trình
độ rất cao, rất khá.
Vốn trong chữ lý có chữ nghĩa cộng với chữ thực (nghĩa
+ thực = lý) nhưng khi thực vắng mặt thì lý chỉ còn là nghĩa.
Vậy đến lý rồi thì
sao? Lý, đạo lý? Nơi có dính chữ đạo?
Nó ra sao? Kính thưa cũng còn nguy hiểm lắm.
Đạo lý, chữ lý là cái chữ thiên hạ hay kẹt vô cùng, nó kẹt vi tế
hơn chữ "nghĩa" nhiều lắm, vì người ta
đinh ninh đã thấy cái thực rồi.
Ví dụ: hiện nay có nhiều người nghĩ như thế này: "Bây
giờ nếu mà tâm mình hoàn toàn thanh tịnh,
đừng có tham, sân, si, vọng động gì hết thì chắc chắn thấy
Đạo".
Đúng quá phải không? Đâu có sai. Nhưng mà nếu quý vị cứ làm như vậy
thì không bao giờ thấy đạo
được cả. Vì sao vậy? Vì
đó là lý tưởng tượng, còn chữ thanh
tịnh mà Đức Phật nói chính là cái
thực thanh tịnh. Cái thực thanh tịnh ấy không phải là thanh tịnh sạch
bách hết trơn hết trọi. Nếu thanh tịnh cái kiểu
đó thì Ngài sẽ ngồi như cục
đá chớ làm sao mà Ngài lại
đi thuyết pháp chỗ này, chỗ kia,
độ người này, người nọ cho
được. Làm chi có cái chuyện thanh tịnh
sạch sành sanh như vậy được. Cho nên,
mặc dù tới lý, mà lý sai một cái, rơi vào lý thanh tịnh sai là rơi vào "trầm
không trệ tịch" cực kỳ nguy hiểm.
Từ lý, đừng kẹt vào
lý, mà phải thấy cho ra sự thật. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm có một tiến trình
như thế này:
Sự (ngại) → Lý → Lý sự → Sự sự (vô ngại)
Người đời thường sống với
sự. Đi, đứng, ngồi, nằm, ăn, nói, ngủ, nghỉ, đấy là sự. Sự mới rút
ra được lý. Rút ra được lý nhưng mà
kẹt lý.
Thí dụ mình nghe người ta nói "sắc tức thị không"
thì tưởng cái gì cũng không cả, tưởng cái sắc này cũng không. Nếu không có
gì thì thử lấy cái tay này tát một tai thử xem sao? Nếu nói tay này không
có, cái mặt này cũng không có, thì cái tay tát vào mặt cũng không có chứ
gì? Có người lại nghĩ rằng sở dĩ cái tay, cái mặt, cái
đau là tại mình phàm phu, bây giờ phải
ráng mà ngồi "quán không" cho đến khi
không còn thấy cái tay, cái mặt, cái
đau nữa tức là đạt đạo. Chà!
Cái đạo không này mới là cao siêu dễ
sợ thật! Có ngờ đâu, cái đạo không đó chỉ là
cái không do tưởng sinh (Kasin'ugghātit'ākāsa).
Cho nên, đôi khi mình hiểu cái "lý
không" thế nào đó mà lại trở thành
"lý có" hồi nào không hay. Do đó,
lý phải cộng với sự, nghĩa là phải thấy lý trong
sự. Thấy lý trong cái thực. Phải
đổi lý ra thực mới được. Nhưng mà cuối cùng cũng phải trở lại sự
thôi. Lý chi nữa. Kẹt lý thì phải trở lại sự.
Đó là tiến trình của Kinh Hoa Nghiêm
vậy:
- Sự (ngại sự).
- Lý (kẹt lý).
- Lý + sự (Lý cần có sự).
- Sự sự (trở lại sự mà không ngại sự gọi là sự sự vô ngại).
Cái sự sự ấy cũng là cái sự ban
đầu chớ chẳng phải cái sự nào
khác. Nhưng ban đầu thì chúng ta ngại,
chỉ đến khi lý sự viên dung rồi thì ta
sẽ không còn ngại nữa. Cái sự ấy bây giờ là cái thực.
Thiền Tông bảo rằng khi mê thì tưởng rằng núi là núi,
sông là sông. Nhưng khi thấy ra được lý thì
sông không phải sông, núi không phải núi. Nhưng khi ngộ rồi (thấy cái
thực) thì té ra sông là sông, núi là núi chớ không có gì lạ hết.
Chỉ có vấn đề "mê"
hay "ngộ". Vậy tu là để ngộ, chứ không
phải tu là làm theo tư ý của mình, làm theo cái bản ngã của mình,
rồi khi được, khi đắc, cũng chính là
được, là
đắc cái tư ý ấy, cái bản ngã ấy. Mệnh lệnh của chân lý bảo ta
phải thấy. Khi mà thấy cái thực (ngộ) rồi thì không còn
gọi là tu nữa, mà là sống trọn vẹn với cái thực, cùng
ăn ở hít thở với cái thực.
Đức Phật là người thấy cái thực, Ngài sống với
cái thực và Ngài chỉ cho mọi người thấy được
cái thực. Mọi người hãy sống với cái thực khi
đã thấy. Chỉ có vậy thôi.
Đức Phật đã dạy chúng ta tu
để làm giàu cái bản ngã bao giờ. Cứ hễ
còn ý nghĩa tu cái kiểu đó là trật
rồi. Có một nghĩa có thể tạm dùng được cho
chữ tu ấy là: sống với cái thực. Sống với cái thực là
sống chơn chánh, sống thuận pháp vậy.
Thấy được điều ấy, chúng
ta không nói theo tiến trình Giáo → Lý → Hành → Quả nữa. Tại
sao vậy? Vì bảo là từ giáo đến lý, nhưng thực
tế từ giáo thường chỉ đến nghĩa. Cái nghĩa một chiều, tranh chấp, bàn
cãi lý luận. Nếu nắm cái nghĩa ấy mà hành, thì nếu như có thành tựu quả,
thì quả ấy cũng chỉ là quả của ý niệm, của bản ngã. Phải không? Ví dụ mình
hiểu nghĩa "Phật" như thế nào đó, rồi
mình tu theo ý niệm ấy. Mình tu cho thật dữ, nhưng cuối cùng
đó không phải là Phật thiệt mà chính
là ông Phật do bản ngã của mình biến ra.
Như chúng ta đã
biết, nghĩa dễ sai lầm, lý dễ bị kẹt, cái lý ấy phải
đem kiểm chứng với cái thực như chúng ta đã
nói vừa rồi. Để khi mà thấy cái thực
rồi, tức là lý sự dung thông rồi, thì chỉ còn sống với sự thật mà thôi. Ấy
là cái thực tròn đầy, viên mãn. Như
vậy, thực tế mà nói có thể chia ra 4 hạng căn
cơ:
- Căn cơ
bậc thượng: Giáo → Thực.
- Căn cơ bậc trung:
Giáo → Lý → Thực.
- Căn cơ bình thường:
Giáo → Nghĩa → Lý → Thực.
- Căn cơ hạ liệt:
Giáo → Nghĩa → chấp Lý → kẹt → cái giả.
Chúng ta chỉ nói sơ vậy thôi, như mở hé cái thực
để chúng ta cùng nhìn vào. Mục
đích những buổi hội thảo của chúng ta là
sẽ cùng nhau đào sâu cái thực, thấy
cái thực rồi sẽ giới thiệu cái thực ấy cho mọi người cùng thấy, chứ không
phải là học giáo lý. Mục đích ấy có 3 điều
lợi ích thiết thực như sau:
1) Nêu ra một sự thật làm nền tảng chung cho
đạo Phật mà tông phái nào cũng
đều chấp nhận.
2) Xóa đi tất cả các ý
niệm về tông phái. Thật ra không phải xóa, mà chính khi thấy sự
thật thì các ý niệm về tông phái sẽ tự xóa. Các ranh giới do ý niệm cô
lập, phân chia tức khắc không còn.
3) Thấy sự thật và sống với cái thực ấy, tức là sống
đạo, là hành
đạo một cách trực tiếp. Chẳng còn
chuyện mày mò tu hành kiểu này, tu hành kiểu nọ, rồi thì người này nói
tôi tu đúng, người kia cũng bảo tôi tu
đúng...
Khi đã sống với sự
thật rồi thì không còn vấn đề tôi đúng hay
anh đúng nữa, mà vấn đề là
chúng ta có sống với sự thật hay không? Chỉ còn lại chừng
đó.
Bây giờ tôi sẽ giới thiệu quý vị một bài kinh, mà qua
bài kinh đó, hy vọng tất cả chúng ta sẽ có
được một cái nhìn chung, và cùng nhau thấy cái thực.
--- o0o ---
[ Mục
Lục ] [
1 ] [
2]
[ 3
] [
4 ] [
5
] [ 6
] [
7 ] [
8 ]
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 1-10-2004
|
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục