Thời
kỳ
giữa
lần
Hội
nghị
Kết
tập
lần
II
và
thế
kỷ
thứ
I
tr.
T.l.
(tức
gần
300
năm)
đã
cho
thấy
sự
lớn
mạnh
của
nền
văn
học
phái
Bắc
truyền
và
sự
xuất
hiện
một
số
văn
bản
quan
trọng.
Các
kinh
sách
xuất
hiện
đầu
tiên
là
những
tác
phẩm
chuyển
tiếp
như
Thần
thông
du
hí
Kinh
(hay
Phương
quảng
Ðại
Trang
nghiêm
Kinh,
Lalitavistara)
và
Phật
bản
hạnh
tập
Kinh
(Mahavastu).
Chúng
thuộc
về
những
trường
phái
sau
này
của
Ðại
chúng
bộ
(Mahasanghikas,The
Great
Assembly),
đồng
thời
mô
tả
sự
nghiệp
đức
Phật
trong
những
từ
tán
dương,
siêu
thế.
Sau
đấy
có
hơn
100
kinh
Bắc
truyền
rõ
rệt,
và
cũng
như
cái
trước,
được
viết
bằng
tiếng
Phạn
và
Phạn
lai. Hầu
hết
các
kinh
này
rất
sâu
rộng;
nó
bao
gồm
Kinh
(Diệu)
Pháp
(Liên)
Hoa,
Kinh
Bát
nhã
Ba
la
mật
đa
trong
8
ngàn
dòng,
Kinh
Tam
muội
vương
(hay
Kinh
Nguyệt
đăng
tam
muội
vương,
tức
King
of
Concentration
Sutra,
hay
Samadhiraja
Sutra)
và
Kinh
Lăng
già
(Lankavatara
Sutra).
Chúng
dùng
tự
do
các
câu
cách
ngôn,
thí
dụ
và
đưa
ra
những
đề
tài
chính
của
phái
Bắc
truyền
theo
lối
tranh
luận
tổng
quát
và
giáo
huấn,
mô
phạm.
Một
thời
gian
sau
đó,
những
ý
tưởng
này
được
hỗ
trợ
bằng
những
luận
cứ
có
hệ
thống
được
tìm
thấy
trong
văn
chương
tường
thuật
và
luận
bình,
được
người
ta
biết
đến
là
luận
thuyết
(shastras)
và
được
viết
bởi
những
nhân
vật
nổi
tiếng
như
Long
Thọ
(Nagarjuna),
Vô
trước
(Asanga),
Thế
thân
(Vasubandhu). Trang
133.
Trong
các
kinh
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
hiện
nay
đang
có
với
chúng
ta,
tôi
xin
cống
hiến
chương
này
và
2
chương
kế
để
dẫn
dụ
những
đề
tài
và
giai
đoạn
quan
trọng
trong
việc
phát
triển
Phật
giáo
Bắc
truyền
(Ðại
thừ:
1.
Kinh
Diệu
pháp
Liên
Hoa
(Saddharmapundarika
Sutra),
2.
Tâm
Kinh
Bát
nhã
Ba
mật
đa
(the
Heart
Sutra,
Prajnaparamita
Hridaya
Sutra),
3.
Kinh
Lăng
già
(the
Lankavatara
Sutra). Ở
nhiều
mặt,
kinh
Pháp
Hoa
là
kinh
chánh
của
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Nó
có
ảnh
hưởng
rất
lớn
trong
thế
giới
Ðại
thừa,
không
chỉ
ở
Ấn
độ
mà
còn
ở
Trung
hoa
và
Nhật
bản.
Nó
cũng
là
văn
bản
chánh
được
ưa
chuộng
của
phái
Thiên
thai
(T’ien-t’ai)
và
phái
Pháp
hoa
(Nichiren).
Hơn
nữa,
trong
một
chừng
mực
nào
đó,
nó
trình
bày
chi
tiết
cái
cách
của
đại
bi.
Kinh
Pháp
Hoa
tiêu
biểu
bản
chất
cho
sự
định
hướng
căn
bản
của
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa),
đó
là
đại
bi. Trang
134.
Chúng
ta
hãy
xét
đến
một
số
đề
tài
trong
Kinh
Pháp
Hoa
mà
tôi
thấy
là
quan
trọng,
đặc
biệt
cho
sự
hiểu
biết
về
phái
Bắc
truyền.
Ðầu
tiên,
chúng
ta
hãy
xem
những
gì
kinh
đó
nói
về
đức
Phật.
Trong
Chương
14,
tôi
đã
đưa
ra
một
số
gợi
ý
được
tìm
thấy
trong
kinh
sách
Nam
truyền
(Tiểu
thừa):
tính
chất
vượt
quá
sự
hiểu
biết
của
con
người
như
siêu
thường
và
tiên
nghiệm
của
đức
Phật.
Việc
này
được
nói
một
cách
rõ
ràng
trong
các
bản
văn
định
hình
và
chuyển
tiếp
(của
phái
Bắc
truyền
Ðại
thừa)
như
Phật
Bản
Hạnh
Tập
Kinh
(Mahavastu
Sutra)
và
Thần
thông
Du
hí
Kinh
(Lalitavistara
Sutra).
Trong
Kinh
Pháp
Hoa,
tính
chất
siêu
thường,
vĩnh
cửu
và
hoạt
động
không
ngừng
của
đức
Phật
được
cắt
nghĩa
rất
rõ
ràng
và
khá
chi
tiết.
Cái
ý
muốn
nói
ở
đây
là
hình
hài
của
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni
được
con
người
của
thế
kỷ
thứ
6
tr.
T.
l.
nhận
thức
chỉ
giản
dị
là
sự
xuất
hiện
của
một
vị
Phật
siêu
việt,
là
mục
đích
cho
việc
giác
ngộ
chúng
sanh.
Mặc
dầu
thế
gian
biết
đến
sự
ra
đời
của
chàng
Sĩ
Ðạt
Ta
trong
dòng
họ
Thích
Ca,
biết
đến
biến
cố
dũng
cảm
xả
bỏ
vĩ
đại
của
ông,
biết
đến
những
năm
tranh
đấu
để
đắc
quả
dưới
cội
bồ
đề,
biết
đến
45
năm
hoằng
pháp
độ
sanh,
và
cuối
cùng
biết
đến
ngày
nhập
diệt
của
ông
vào
lúc
80
tuổi,
nhưng
tất
cả
chỉ
là
hình
thức
gây
ấn
tượng
cho
một
mục
đích:
giác
ngộ
chúng
sanh. Kinh
Pháp
Hoa
đã
đưa
ra
việc
này
với
câu
truyện
ngụ
ngôn:
một
y
sĩ
xuất
hiện
trong
Chương
Mười
Sáu
của
Kinh.
Trong
truyện
ngụ
ngôn
này,
một
bác
sĩ
có
bằng
cấp
và
nổi
tiếng
luôn
luôn
vắng
nhà
trong
một
thời
gian
rất
lâu.
Khi
trở
về
nhà,
ông
thấy
các
con
trai
của
mình
bị
ngộ
độc
và
bệnh
tình
rất
nặng.
Ông
chuẩn
bị
một
toa
thuốc
đầy
đủ
cho
chúng
theo
kiến
thức
y
khoa
của
mình.
Vài
người
con
tức
thì
uống
thuốc
ông
cho
và
được
lành
bệnh. Trang
135.
Tuy
nhiên,
những
người
con
còn
lại
dù
đã
trông
ngóng
cha
trở
về
để
đươc
cha
giúp
đỡ,
vẫn
không
sẵn
lòng
uống
thuốc
ông
cho.
Chúng
không
đánh
giá
đúng
cái
giá
trị
toàn
hảo
của
thuốc
chữa
và
tiếp
tục
chịu
bệnh
hoạn.
Thấy
được
điều
này,
cha
chúng
nghĩ
ra
kế
hoạch
để
thuyết
phục
chúng:
ông
nói
rằng
ông
đã
cao
tuổi,
rằng
giờ
chết
của
ông
gần
kề,
và
rằng
ông
phải
đi
nữa
để
đến
một
xứ
khác.
Rồi
ông
rời
khỏi
nhà
và
sau
đó
cho
người
nhắn
với
các
con
rằng
ông
đã
chết.
Bị
kinh
động
bởi
tin
cha
chết
và
tuyệt
vọng
là
sẽ
không
có
ai
trông
sóc
và
chữa
bệnh
cho
mình,
chúng
uống
thuốc
và
được
lành
bệnh.
Nghe
được
tin
con
hồi
phục,
người
cha
trở
về
và
đoàn
tụ
hạnh
phúc
với
các
con
của
ông. Qua
truyện
ngụ
ngôn
này,
chúng
ta
hiểu
rằng
sự
xuất
hiện
của
Phật
trong
thế
gian
này
giống
như
sự
trở
về
của
người
y
sĩ
đã
làm
một
cuộc
hành
trình
đến
một
quốc
gia
lân
cận.
Lúc
trở
về,
ông
thấy
các
con
ông,
tức
con
người
của
thế
gian
này
đã
nhiễm
thuốc
độc
tham,
sân
và
si
và
đang
sầu
bi,
bệnh
hoạn
và
đau
khổ.
Ông
nghĩ
ra
một
liều
thuốc
chữa
bệnh
đau
khổ
cho
họ,
đó
là
Pháp
Phật,
con
đương
của
giải
thoát.
Mặc
dù
có
người
trong
thế
gian
đã
theo
con
đường
này
và
hoàn
thành
giải
thoát,
nhưng
còn
những
người
khác
đã
bị
lậm
thuốc
độc
tham,
sân
và
si
mà
không
biết
và
vì
thế
từ
chối
theo
con
đường
tốt
đẹp
ngay
từ
đầu.
Do
vậy,
ông
phải
dùng
mưu
kế
để
thuyết
phục
và
khuyến
khích
họ
dùng
thuốc,
theo
đường
ngay
và
được
giải
thoát.
Kế
hoạch
đó
là
sự
nhập
diệt
của
Phật
đó
là
lối
vào
niết
bàn
cuối
cùng
của
ông.
Vì
thế,
theo
ngụ
ngôn
này
đức
Phật
lịch
sử
không
bao
giờ
thực
sự
đã
sống
và
không
bao
giờ
thực
sự
chết
mà
đó
chỉ
là
một
trong
những
sự
xuất
hiện
của
một
vị
Phật
ngoài
tầm
hiểu
biết
của
con
người
(tức
siêu
việt
và
tiên
nghiệm). Trang
136.
Kinh
này
củng
cố
điểm
nói
trên
(tức
điểm
nói
rằng
Chư
Phật
không
chết)
trong
Chương
11
(Kinh
Pháp
Hoa),
qua
sự
xuất
hiện
của
một
vị
Phật
có
trước
đó,
Phật
Ða
Bảo
(Prabhutaratna).
Vị
này
đã
trở
thành
Như
lai
(Tathagata),
hay
người
giác
ngộ,
cả
niên
kỷ
trước
đây.
Trong
khi
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni
bận
giảng
pháp
Kinh
Pháp
Hoa
(như
đã
được
mô
tả
trong
chính
kinh
đó)
thì
Phật
Ða
Bảo
xuất
hiện
trước
đám
đông
đang
tập
hợp.
Họ
gặp
ông
trong
tháp
có
nạm
ngọc
(tức
Hiện
Bảo
Tháp,
tên
của
Chương
11,
kinh
Pháp
Hoa)
thân
thể
ông
được
hình
thành
một
cách
tuyệt
hảo.
Ðây
cũng
là
một
dấu
hiệu
thêm
chứng
tỏ
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni
không
tịch
diệt
và
các
vị
Phật
trước
ngài
cũng
đã
không
tịch
diệt
như
ngài. Theo
Kinh
Pháp
Hoa
thì
chư
Phật
đều
có
khả
năng
siêu
thường,
tiên
nghiệm
và
vô
tánh;
Chư
vị
cũng
đáp
ứng
và
nuôi
dưỡng
các
nhu
cầu
của
chúng
sanh
tùy
theo
khả
năng
riêng
của
họ.
Trong
chương
5
của
Kinh,
chương
Dược
Thảo
Dụ,
đức
Phật
dùng
phép
ẩn
dụ
về
mưa
và
ánh
sáng
để
dẫn
chứng
điểm
này
(tức
điểm
đáp
ứng
và
nuôi
dưỡng
chúng
sanh).
Ông
nói
rằng,
cũng
như
mưa
rơi
trên
tất
cả
khu
thảo
mộc--cây
cối,
bụi
rậm,
dược
thảo,
và
cỏ
cây--không
phân
biệt
loại
gì.
Mỗi
loại
tùy
theo
tính
chất
và
khả
năng
của
nó
thụ
nhận
sự
bồi
dưỡng
từ
cơn
mưa.
Các
vị
Phật
cũng
như
thế,
qua
sự
xuất
hiện
trong
thế
gian
và
những
điều
dạy
của
họ,
nuôi
dưỡng
tất
cả
các
giống
hữu
tình,
mỗi
giống
tùy
theo
khả
năng
cá
nhân--hoặc
lớn,
giống
như
các
cây
cao;
trung
bình,
giống
như
những
cây
nhỏ
hơn
và
các
bụi
rậm;
hoặc
thấp,
giống
như
cây
cỏ.
Mỗi
cây
hưởng
lợi
nhờ
mưa,
theo
khả
năng
của
nó.
Chúng
sanh
hưởng
lợi
do
sự
xuất
hiện
của
chư
Phật
tùy
theo
khả
năng
của
người
ấy.
Và
cũng
như
ánh
sáng
mặt
trời
và
mặt
trăng
rọi
xuống
đều
trên
đồi,
thung
lũng
và
đồng
bằng,
chiếu
sáng
mỗi
nơi
tùy
theo
vị
trí
và
thời
gian
của
nó,
sự
hiện
diện
của
chư
Phật
cũng
rọi
ánh
sáng
trên
tất
cả
các
loài
hữu
tình--dù
cao,
trung
bình
hay
thấp--tùy
theo
vị
trí
và
khả
năng
của
chúng.
Chính
trong
ý
nghĩa
này
mà
đức
Phật
vô
hạn
và
siêu
việt,
xuất
hiện
dưới
vô
số
hình
thức
để
làm
lợi
cho
giống
hữu
tình:
dưới
hình
thức
của
một
A
la
hán,
một
vị
Bồ
tát,
một
người
bạn
đức
hạnh,
và
cũng
có
thể
là
hình
thức
của
một
giống
hữu
tình
bình
thường,
chưa
giác
ngộ. Trang
137.
Chúng
ta
khó
mà
biết
được
tính
chất
cơ
bản
của
thực
tướng
(tức
chơn
lý
hay
sự
thật):
cái
thực
tướng
của
sự
vật
thực
sự
không
thể
kiểm
nghiệm
bằng
lời
nói
được.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
đức
Phật
giữ
yên
lặng
khi
ông
được
hỏi
là:
thế
giới
này
vô
hạn
hay
hữu
hạn,
có
cả
hai
hay
không
có
cả
hai;
Như
lai
còn
hay
không
còn
sau
khi
chết,
có
cả
hai
hay
không
có
cả
hai.
Tính
chất
cơ
bản
của
thực
tướng
phải
được
nhận
ra
bởi
tự
ta
mà
không
có
sự
giúp
đỡ
của
ai.
Ðiều
này
được
phản
ảnh
qua
sự
phân
biệt
giữa
cái
Pháp
ta
làm
quen
gián
tiếp
nhờ
kẻ
khác
giúp
đỡ
với
cái
Pháp
ta
nhận
biết
do
chính
ta.
Việc
nhận
ra
sự
thật
này
không
phải
là
dễ
đàng.
Nó
phải
tự
ta
hoàn
thành,
và
nó
phải
là
kết
quả
của
một
sự
nhận
thức
trực
tiếp,
nội
tại.
Vì
thế,
được
tác
động
bởi
lòng
đại
từ
đại
bi,
các
chư
Phật
hiện
ra
trong
thế
gian
để
dạy
và
giúp
chúng
sanh
hoàn
thành
việc
nhận
thức
tính
chất
cơ
bản
của
thực
tướng
từng
giai
đoạn
một.
Họ
làm
việc
này
qua
những
phương
tiện
khéo
léo,
tùy
theo
khả
năng
và
khuynh
hướng
của
vật
hữu
tình. Ý
tưởng
về
khả
năng
và
khuynh
hướng
khác
nhau
của
chúng
sanh
không
lạ
gì
đối
với
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa).
Trong
kinh
sách
Nam
truyền
(Tiểu
thừa),
đức
Phật
cũng
có
so
sánh
những
khả
năng
khác
nhau
của
các
sinh
vật
với
những
vị
trí
khác
nhau
của
hoa
sen
trong
hồ:
cái
chìm
hẳn,
cái
chìm
một
phần,
các
cái
khác
không
dính
tới
nước
mà
vẫn
nở
hoa
trong
không
khí
trong
sạch
và
đầy
ánh
sáng.
Cũng
vậy,
sinh
vật
có
hạ
căn,
trung
căn
và
thượng
căn.
Phái
Nam
truyền
(Tiểu
thừa)
cũng
nói
đến
phương
tiện
khéo
léo
của
Phật:
có
nhiều
cách
dạy
bảo
khác
nhau,
trực
tiếp
hay
gián
tiếp.
Ý
tưởng
về
các
phương
tiện
khéo
léo
này
cũng
được
phản
ảnh
trong
việc
phân
biệt
tục
đế
(sự
thực
thế
gian)
và
chơn
đế
(sự
thật
tuyệt
đối).
Nó
cũng
được
phát
triển
và
làm
đẹp
thêm
trong
phái
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
và
là
một
đề
tài
cực
kỳ
quan
trọng
trong
Kinh
Pháp
Hoa. Vì
khó
nhận
ra
tính
rốt
ráo
của
thực
tướng,
và
vì
khả
năng
khuynh
hướng
của
các
giống
vật
hữu
tình
khác
biệt
nhau
nên
chư
vị
Phật
chọn
các
phương
tiện
khéo
léo
để
dẫn
dắt
từng
sinh
vật
một
đi
đến
mục
tiêu
sau
cùng
của
giải
thoát,
tùy
theo
khả
năng
và
khuynh
hướng
của
người
ấy.
Vì
thế,
Kinh
Pháp
Hoa
cắt
nghĩa
rằng
cỗ
xe
của
Bồ
tát
(Bồ
tát
thừa),
cỗ
xe
của
Chư
Phật
Ðộc
giác
(Prattyekabuddhas)
và
cỗ
xe
của
các
đại
đệ
tử
không
có
gì
khác
hơn
là
những
phương
tiện
khéo
léo
được
tính
sao
cho
vừa
vặn
với
khả
năng
và
khuynh
hướng
khác
nhau
của
các
giống
vật
hữu
tình. Trang
138.
Chương
Ba
của
Kinh
Pháp
Hoa
(Phẩm
Thí
dụ)
dùng
một
truyện
ngụ
ngôn
rất
thu
hút
để
giải
nghĩa
tính
chất
của
những
phương
tiện
khéo
léo.
Câu
chuyện
được
kể
như
sau.
Có
một
Trưởng
giả
cùng
các
người
con
trú
ngụ
trong
một
căn
nhà
cũ.
Một
ngày
nọ,
căn
nhà
bất
thình
lình
bắt
lửa.
Người
cha
thấy
rằng
cái
nhà
chốc
nữa
sẽ
thành
một
nhà
lửa
nên
gọi
các
con
của
ông
ra
ngoài.
Nhưng
chúng
mãi
mê
chơi
giỡn
và
không
chú
ý
đến
lời
kêu
gọi
của
ông.
Vì
đã
quen
với
tánh
nết
con
mình,
người
cha
khéo
léo
nghĩ
đến
một
kế
để
dụ
chúng
rời
nhà
lửa.
Biết
rằng
chúng
thích
đồ
chơi,
ông
gọi
chúng
ra
ngay
vì
đã
mang
cho
chúng
tất
cả
các
loại
đồ
chơi
khác
nhau.
Các
con
bỏ
chơi,
chạy
vội
ra
lấy
xe.
Một
khi
chúng
an
toàn
ra
khỏi
nhà
lửa,
người
cha
sẽ
cho
từng
đứa
những
chiếc
xe
tốt
nhất,
chiếc
xe
của
chư
Phật. Một
điều
dễ
nhận
thấy
trong
truyện
ngụ
ngôn
này:
căn
nhà
là
thế
giới,
ngọn
lửa
là
ngọn
lửa
phiền
não,
người
cha
là
đức
Phật
và
các
con
là
con
người
thế
gian.
Các
đồ
chơi
là
những
cỗ
xe
của
các
chư
Bồ
tát,
Phật
Ðộc
giác
(Pratyekabuddhas)
và
các
Ðại
đệ
tử
của
các
ngài. Các
chỗ
khác
trong
Kinh
Pháp
Hoa,
đức
Phật
cắt
nghĩa
rằng
ông
đã
dạy
con
đường
Nam
truyền
(Tiểu
thừa)
cho
những
người
tin
vào
sự
hiện
hữu
của
thế
gian
và
Bắc
truyền
(Ðại
thừa)
cho
những
người
công
đức
cao
dày.
Chỉ
dạy
Pháp
cho
Tiểu
thừa
thôi
sẽ
là
nhỏ
nhoi;
nếu
chỉ
dạy
Pháp
cho
Ðại
thừa
thôi,
nhiều
người
sẽ
hết
hy
vọng
chỉ
lo
hoàn
thành
mục
tiêu
giác
ngộ
mà
không
thực
hành
con
đường
đạo
chút
nào
cả.
Vì
thế
Pháp
cho
Tiểu
thừa
và
Pháp
cho
Ðại
thừa
là
những
kế
hoạch
có
lợi
cho
con
người
thế
gian,
được
vẻ
ra
để
thích
nghi
với
các
khả
năng
và
khuynh
hướng
khác
nhau
của
họ. Trang
139.
Ðức
Phật
cũng
nói
trong
kinh
là
sau
này
các
vị
A
la
hán
như
ngài
Xá
lợi
Phất
(Shariputra)
và
ngài
La
hầu
La
(Rahula)
sẽ
đạt
được
Phật
quả.
Ông
bèn
so
sánh
niết
bàn
của
A
la
hán
với
một
thành
phố
tưởng
tượng
được
gợi
lên
bởi
một
người
đang
khéo
léo
chỉ
đường
cho
một
nhóm
người
đi
tìm
một
gia
sản
to
tát.
Trên
đường
đi,
họ
dần
dần
mõi
mệt
và
thất
vọng
trong
việc
đi
đến
mục
tiêu.
Vì
thế
người
hướng
dẫn
gợi
lên
sự
xuất
hiện
của
một
thành
phố
mà
nó
có
tất
cả
những
tiện
nghi
cần
có
cho
họ
để
nghỉ
ngơi
và
lấy
lại
sức.
Sau
đó,
họ
lại
có
khả
năng
tiếp
tục
cuộc
hành
trình
cho
đến
khi
đến
được
nơi
có
gia
sản
đó.
Trong
truyện
ngụ
ngôn,
người
hướng
dẫn
là
đức
Phật,
kẻ
đi
đường
là
con
người
thế
gian,
và
thành
phố
tưởng
tượng
là
niết
bàn
của
các
vị
A
la
hán. Cái
ý
về
phương
tiện
thiện
xảo
được
cắt
nghĩa
trong
Kinh
Pháp
Hoa
bởi
các
truyện
ngụ
ngôn
đầy
ví
von.
Chẳng
hạn,
trong
chương
4
(chương
Tín
giải)
có
câu
truyện
ngụ
ngôn
của
một
người
con,
người
này
sống
xa
cha
vào
lúc
tuổi
còn
nhỏ
và
anh
đã
sống
gần
hết
cuộc
đời
anh
trong
sự
nghèo
khổ
vì
không
biết
gốc
gác
của
mình.
Cha
anh
mong
mỏi
gặp
con
lại
để
giao
gia
tài
di
sản
to
tát
cho
anh.
Ông
buồn
rầu
vì
không
có
cách
nào
để
tìm
con.
Một
ngày
nọ,
người
con
bất
ngờ
xuất
hiện
trước
cửa
nhà.
Thấy
sự
sang
quí
của
căn
nhà
và
sự
kính
trọng
của
những
người
tớ
đối
với
vị
chủ
nhân,
anh
ý
thức
được
cái
hèn
kém
của
mình
và
cố
gắng
tránh
thoát.
Cha
anh
nhận
ra
con
và
cho
người
thuyết
phục
bắt
anh
ở
lại.
Vì
không
nhận
ra
cha
mình
nên
người
con
hoảng
hốt
và
nói
lên
sự
vô
tội
của
mình.
Hiểu
được
tâm
lý
này,
người
cha
bảo
người
của
ông
để
anh
ta
tự
do
đi. Một
thời
gian
sau
đó,
người
cha
cho
người
làm
của
ông,
ăn
mặc
rách
rưới
nghèo
khổ,
nhờ
con
ông
làm
công
việc
quét
tước
phân
bò
trong
nhà
kho.
Con
ông
nhận
công
việc
nhỏ
nhoi
này
và
làm
trong
một
thời
gian.
Dần
dần,
lương
bổng
của
anh
được
tăng.
Trong
suốt
thời
gian
này,
người
con
vẫn
chưa
biết
ông
chủ
là
cha
mình
và
người
cha
cũng
tự
chế
việc
tiết
lộ
điều
đó
để
không
làm
cho
con
ông
buồn
hay
sợ
ông
nữa.
Sau
đó
người
con
được
cất
nhắc
lên
chức
vụ
đốc
công.
Ðến
lúc
nhận
thấy
con
mình
đã
mở
rộng
tầm
nhìn
và
nguyện
vọng,
người
cha
mới
tiết
lộ
nguồn
gốc
của
anh
và
giao
cho
anh
di
sản
của
ông.
Ðến
lúc
này
anh
mới
nhận
ra
được
dòng
dõi
của
mình,
đồng
thời
rất
vui
với
thành
quả
của
mình. Trang
140.
Kinh
Pháp
Hoa
đã
nói
rằng
tất
cả
chúng
ta
là
con
của
Phật
và
tất
cả
sẽ
hoàn
thành
di
sản
Phật
quả.
Vì
tham
vọng
và
nguyện
ước
của
chúng
ta
quá
nhỏ
nhoi
tầm
thường
nên
đức
Phật
đã
đặt
ra
giới
luật.
Nhờ
đó
chúng
ta
sẽ
dần
dần
phát
triển
và
mở
rộng
tầm
nhìn
cho
đến
khi
nhận
được
bản
chất
thật
sự
cùng
mối
quan
hệ
thân
tộc
của
mình
và
sẵn
sàng
chấp
nhận
di
sản
Phật
quả. Chủ
đề
chánh
của
Kinh
Pháp
Hoa
là
sự
làm
việc
sao
cho
các
phương
tiện
thiện
xảo
sanh
ra
lòng
đại
từ
đại
bi.
Do
lòng
từ
bi,
Chư
Phật
xuất
hiện
trong
thế
gian.
Do
lòng
từ
bi,
họ
thực
hành
các
phương
tiện
đó
bằng
vô
số
cách,
qua
vô
số
hình
thức,
kế
hoạch,
các
lối
thực
hành
và
các
cỗ
xe.
Tất
cả
những
việc
này
được
tính
toán
để
hợp
với
khả
năng
và
khuynh
hướng
khác
nhau
của
chúng
sanh,
để
làm
sao
cho
mỗi
một
người
có
thể,
với
cách
thức
và
thời
gian
riêng
của
mình,
phát
nguyện
và
hoàn
thành
sự
giác
ngộ
trọn
vẹn
ba
la
mật,
cái
giác
ngộ
của
đức
Phật.
Chính
vì
lời
nhắn
nhủ
phổ
biến,
lạc
quan
và
khuyến
khích
này
cho
tất
cả
mọi
người,
mà
truyền
thống
Ðại
thừa
đã
có
khả
năng
chiếm
được
lòng
tin
đại
chúng
một
cách
phi
thường
không
chỉ
ở
Ấn
độ
mà
còn
ở
Trung
và
Ðông
Á..
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002