|
Vì sao tin Phật
Hòa thượng K.
Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang
dịch Việt,
California,
Hoa Kỳ, 1997
Nguyên
tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
---o0o---
Chương 2
THÔNG
ĐIỆP CỦA ĐỨC PHẬT
-ooOoo-
THÔNG ĐIỆP CHO TẤT
CẢ
Đức Phật, đóa hoa của nhân
loại, không còn trên thế giới này nữa, nhưng hương thơm
bức thông điệp hòa bình của Ngài vẫn muôn đời tỏa ngát.
Phật Giáo là một tôn
giáo cổ nhất còn được hành trì cho đến ngày nay. Trong khi
có nhiều tôn giáo khác tại Ấn, đã đi vào quên lãng, giáo
lý của Đức Phật, (được gọi là Phật Pháp), vẫn rất thích
hợp và cần thiết cho nhu cầu xã hội hiện tại. Lý do trên
là vì Đức Phật lúc nào cũng tự coi mình như một vị đạo
sư của loài người với thông điệp chủ trương mang hạnh
phúc và an lạc cho tất cả chúng sanh. Mối quan tâm đầu tiên
của Ngài là giúp đỡ các môn đồ có một cuộc sống bình
thường không đi đến cực đoan hay hoàn toàn chỉ muốn hưởng
dục lạc.
Bản chất thực của
giáo lý Đức Phật nêu rõ sự kiện là không phải bất cứ
ai cũng đạt được cứu cánh giải thoát chỉ trong một
kiếp khi mà các ô trược tinh thần còn cắm rễ quá sâu
trong tâm thức. Một số người có tinh thần vượt trội hơn
người khác, có thể tiến tu đến mức độ cao hơn tùy theo
căn cơ của họ. Nhưng mỗi cá nhân đều có tiềm năng cơ
bản để đạt được mục tiêu tối thượng của Phật Quả
nếu người đó có quyết tâm và thiện chí.
Đến bây giờ giọng
nói dịu dàng và hiền hòa của Đức Phật vẫn còn văng
vẳng bên tai chúng ta. Đôi khi chúng ta có lẽ cũng cảm thấy
hổ thẹn vì chúng ta không hiểu Ngài hoàn toàn. Đôi khi chúng
ta chỉ tán thán Giáo Lý của Ngài và kính trọng Ngài, nhưng
chúng ta lại không cố gắng thực hành điều Ngài giảng
dạy. Giáo Lý của Ngài và Thông Điệp của Ngài đã ảnh hưởng
đến tất cả mọi người từ hàng ngàn năm dù họ tin hay không
tin vào tôn giáo. Thông Điệp của Ngài dành cho tất cả nhân
loại.
Mặc dù Đức Phật,
đóa hoa của nhân loại, không còn trên thế gian này nữa, hương
thơm ngọt ngào và hương vị thanh khiết Giáo Lý của Ngài đã
bay tỏa tới muôn phương. Hương thơm êm dịu đã trấn tĩnh
và lắng đọng tâm tư hàng triệu người. Mùi thơm huyền
diệu thâm nhập nội tâm và đem niềm vui đến mọi quốc độ
chấp nhận Giáo Lý của Ngài. Lý do Giáo Lý của Ngài đã
chinh phục hàng triệu con tim vì Giáo Lý này được truyền bá
chẳng bằng vũ khí hay sức mạnh chính trị mà bằng từ bi và
tình thương yêu nhân loại. Không một giọt máu nào đổ ra làm
hoen ố con đường thanh tịnh. Đạo Phật thắng bằng sự
giao tiếp ấm áp của tình thương chứ không phải bằng móng
vuốt lạnh lẽo của khiếp sợ. Sự sợ hãi thần quyền và
chủ thuyết lửa địa ngục bất tận không hề có trong Đạo
Phật.
Trong 25 thế kỷ qua
từ khi Đức Phật xuất hiện, thế gian đã có nhiều thay đổi.
Nhiều Vương Quốc mọc lên rồi tan rã, nhiều quốc gia hưng
thịnh rồi suy tàn. Rất nhiều văn minh thời quá khứ đó đã
đi vào quên lãng. Nhưng tên Đức Phật vẫn sống động trong
tâm tư cả hàng triệu người trên thế giới ngày nay. Vương
Quốc của Chánh Đạo mà Ngài xây dựng, vẫn hùng hậu và
vững vàng. Mặc dù nhiều chùa tháp, đền đài, hình ảnh, thư
viện, và những biểu tượng tôn giáo xây dựng để vinh danh
Ngài nay không còn nữa nhưng Danh Xưng Cao Quí không tỳ vết
của Ngài và thông điệp của Ngài bất diệt trong tâm các người
có văn hóa.
Đức Phật dạy
chiến thắng vĩ đại nhất của con người không phải là
chinh phục được người khác mà là tự thắng mình. Ngài
dạy trong Kinh Pháp Cú: "Dù có chinh phục hàng muôn người
ở chiến trường, nhưng chinh phục chính mình mới là chiến
thắng cao quí nhất".
Có lẽ bằng chứng điển
hình nhất cho thấy Thông Điệp Từ Bi vĩ đại của Ngài đã
cảm hóa con người tàn bạo nhất là trường hợp của Hoàng
Đế A Dục. Vào khoảng hai trăm năm sau khi Đức Phật nhập
diệt, vị Hoàng Đế này đã hung bạo đem quân đánh giết trên
khắp lãnh thổ Ấn, gieo bao đau thương khủng khiếp. Nhưng
khi vị Vua này thông suốt được Phật Pháp, đã hối hận
về những tội lỗi gây ra. Ngày nay chúng ta nhớ ơn và tôn kính
vị Hoàng Đế này, là sau khi chuyển hóa về với con đường
hòa bình, ông đã lao mình và một cuộc chiến khác: một
cuộc chiến đem hòa bình cho nhân loại. ông đã chứng minh rõ
ràng Đức Phật quả không sai khi Ngài nhận định sự vĩ đại
thật sự phát xuất từ lòng thương yêu chứ không phải
hận thù, do khiêm tốn chứ không phải kiêu mạn, do từ bi
chứ không phải tàn bạo.
Hoàng Đế A Dục đã
tự hoán cải con người ông từ tàn ác thành nhân hậu hoàn
toàn: ông đã cấm việc giết cả đến các súc vật tại vương
quốc của ông. ông hiểu sở dĩ thuộc hạ trộm cắp vì
thiếu thốn, cho nên ông giảm bớt những nhu cầu trong nước.
Nhưng điều quan trọng trên hết là việc ông giáo huấn các
đệ tử của Đức Phật luôn luôn nhớ đến giáo lý của Ngài
là không bao giờ ép buộc người tôn giáo khác thay đổi
niềm tin với các giáo chủ của họ. Có những trường hợp,
chúng ta được biết có những vị Vua, sau khi đổi đạo, khát
máu, đã dùng gươm đao để truyền bá đạo của mình! Chỉ
đạo Phật có thể tự hào có một vị Vua vĩ đại như thế
không ai sánh bằng từ trước cho đến nay.
Giáo Lý của Đức
Phật được đưa ra để xã hội có thể tiến bộ về văn hóa
và văn minh hầu sống trong hòa bình và hòa hợp. Tất cả
những vấn đề khó khăn nhất trong cuộc sống sẽ được
thấu suốt hơn nếu chúng ta cố gắng học hỏi và tu tập
lời Phật dạy. Đức Phật đề cập vấn đề khổ đau của
nhân loại một cách thẳng thắn và trực tiếp.
Đức Phật là người
chinh phục vĩ đại nhất mà thế giới từng đư?c biết. Ngài
chinh phục thế giới bằng vũ khí luôn luôn có hiệu quả
của tình thương và chân lý. Giáo lý của ngài soi sáng
con Đường cho nhân loại để vượt qua một thế giới tối
tăm, hận thù và đau khổ, tiến tới một thế giới của ánh
sáng, tình thương và hạnh phúc.
THẦN THÔNG PHÉP LẠ
Theo Phật Giáo, nếu
một kẻ dộc ác có thể trở thành một người thánh thiện,
đó mới chính là phép mầu.
Trong mọi tôn giáo chúng
ta thường nghe về những phép lạ thi triển bởi các nhà khai
sáng hay các đệ tử của họ. Trường hợp của Đức Phật,
nhiều hiện tượng mầu nhiệm xẩy ra từ ngày Đản Sanh cho
đến ngày Nhập Niết Bàn của Ngài. Nhiều sức mạnh tâm
linh (được gọi là thần thông phép lạ ở những tôn giáo
khác) của Đức Phật đã đạt được trong suốt thời gian
Đức Phật tu tập thiền định. Đức Phật đã qua những
bậc thiền tập cao thâm nhất và tiến tới tự đạt được
trí tuệ tối thượng. Sự chứng đắc ấy qua thiền định
không phải là phép mầu mà là sức mạnh của bất cứ một
nhà tu hành khổ hạnh nào cũng có thể đạt được.
Dùng thiền định
trong đêm Giác Ngộ, Ngài đã nhìn thấy những kiếp trước
của Ngài, nhiều cuộc sống trong quá khứ với tất cả
những chi tiết, Ngài nhớ tới những kiếp trước, đã hành
hoạt gì trong những kiếp ấy để đạt giác Ngộ. Rồi trong
lần nhập định thứ nhì, Ngài nhìn thấy tất cả vũ trụ,
hệ thống của Nghiệp và Tái sanh. Ngài thấy thế gian tạo nên
bởi các chúng sanh cao quí và các chúng sanh tội lỗi, hạnh
phúc và bất hạnh. Ngài nhìn thấy họ liên tục đi đến cái
" chết do các hành động của họ" biến từ một
kiếp này sang một kiếp khác. Cuối cùng, Ngài thấu rõ bản
chất của Khổ đau, Nguyên nhân của Khổ, và con Đường đi
đến diệt Khổ. Và trong lần nhập định thứ ba, Ngài thấy
Ngài hoàn toàn thoát khỏi các ràng buộc của thế nhân hay
thần thánh. Ngài hiểu rõ Ngài đã làm xong những gì cần
phải làm. Ngài thấy rõ Ngài không còn phải chịu tái sanh
nữa và đây là thân xác cuối cùng của Ngài. Hiểu biết đạt
được trên đây dẹp tan vô minh, tăm tối và ánh sáng ngời
tỏa trong Ngài. Ngài đạt được sức mạnh tâm linh và trí
tuệ này trong lúc ngồi tham thiền dưới cội bồ đề.
Đức Phật sanh ra bình
thường và sống bình thường. Nhưng Ngài là một người phi
thường, Ngài quan tâm đến Giác Ngộ. Những kẻ không biết
trân trọng Trí Tuệ tối thượng của Ngài, chỉ cố giải thích
sự vĩ đại của Ngài bằng cách hé nhìn vào đời sống
của Ngài, và đi tìm kiếm thần thông phép lạ. Sự Giác
Ngộ tối thượng của Ngài đã thừa đủ cho chúng ta thấy
sự Vĩ Đại của Ngài. Không cần thiết để chúng minh sự Vĩ
Đại ấy bằng bất cứ phép thần thông nào. Đức Phật
hiểu rõ thần thông có thể đắc được do sự rèn luyện tâm
trí của con người. Ngài cũng biết đệ tử của Ngài có
thể đạt được thần thông ấy qua việc phát triển tinh
thần. Cho nên Đức Phật khuyên các đệ tử không nên dùng
thần thông phép lạ để quy nạp các người thiếu hiểu
biết. Ngài nhắc đến những thần công lực như đi trên
mặt nước, phù phép, làm người chết đứng dạy, và thi
triển những cái gọi là phi thường. Ngài cũng muốn nhắc đến
những cách đoán thần thông như tha tâm thông, tiên tri, bói
toán, vân vân ...Khi những người kém hiểu biết nhìn thấy
những phép lạ ấy, cho rằng là thật nên càng tin tưởng. Nhưng
những người cải đạo chỉ trên danh nghĩa này bị một tôn
giáo hấp dẫn bởi những loại thần thông trên, chỉ ôm ấp
một đức tin, đức tin không phải do họ chứng ngộ đuợc
chân lý mà do họ nuôi dưỡng ảo giác. Ngoài ra một số người
cho rằng các thần thông phép lạ ấy là do bùa phép. Thật
sự khi Đức Phật hướng dẫn mọi người nghe Pháp, Ngài
chỉ kêu gọi khả năng phán đoán của họ.
Câu chuyện sau đây
minh họa thái độ của Đức Phật đối với những phép
thần thông. Một ngày nọ, Đức Phật gặp một đ?o sĩ bên
bờ sông. Nhà tu này đã bỏ 25 năm để đạt thần thông
bằng khổ hạnh. Đức Phật hỏi đạo sĩ xem ông đã gặt
được kết quả gì sau nhiều năm lao khổ. Rất hãnh diện nhà
tu khổ hạnh trả lời là bây giờ ông có thể đi trên mặt
nước để qua sông. Đức Phật chỉ cho ông ta thấy việc đạt
thần thông của ông hoàn toàn vô nghĩa sau bấy nhiêu năm
khổ luyện, vì ông ta có thể qua sông mà chỉ tốn có một
đồng xu đi đò!
Trong một vài tôn giáo,
phép lạ thi triển bởi một người có thể giúp người đó
trở nên một vị thánh. Nhưng trong Phật Giáo, phép lạ có
thể là một chướng ngại cho người muốn đạt thánh quả,
đạt thánh quả là do sự tu tập từng bước một của một
cá nhân. Muốn đạt thánh quả, mỗi người phải hành trì
qua sự tự thanh tịnh hóa lấy mình và không ai có thể làm
cho một người khác thành thánh được.
Đức Phật dạy rằng
một người có thể đắc thần thông mà không đạt được
trí tuệ. Đức Phật dạy nếu trước tiên chúng ta đạt được
trí tuệ nhiên hậu chúng ta sẽ được phép lạ và cả thần
thông về tâm linh. Nhưng nếu chúng ta phát triển thần thông
mà không phát triển trí tuệ, chúng ta sẽ bị nguy hiểm. Chúng
ta có thể lạm dụng thần thông vào những lợi lộc thế
gian. Có nhiều người đã đi lệch ra khỏi chánh đạo vì dùng
thần thông mà không phát triển trí tuệ. Nhiều người đắc
được một vài thần thông phép lạ, đã gục ngã vì danh
vọng hão huyền khi thu được một vài lợi lạc thế gian.
Nhiều cái đưọc
gọi là phép lạ do một số người nói đến chỉ là tưởng
tượng và ảo giác tạo ra bởi đầu óc thiếu hiểu biết đúng
bản chất của sự vật. Những hiện tượng đó vẫn được
coi là phép lạ chừng nào người ta vẫn chưa hiểu đưọc
thực chất của chúng là gì.
Đức Phật cũng cấm
các đệ tử của Ngài dùng thần thông để chứng minh sự ưu
việt của giáo lý của Ngài. Trong một dịp Ngài nói dùng các
phép lạ để quy nạp ngoại đạo thì chẳng khác gì dùng vũ
nữ để mê hoặc người khác làm một điều gì. Bất cứ ai
với sự rèn luyện tinh thần đúng cách cũng có thể thi
triển thần thông vì chúng chỉ là sự biểu lộ của một tâm
trí vượt trên vật chất.
Theo Đức Phật, phép
lạ của sự chứng nghiệm mới đúng là phép lạ. Khi một
kẻ giết người, trộm cắp, khủng bố, say rượu hay gian dâm,
nhận thức được việc làm của mình sai quấy, kẻ đó thay
đổi, từ bỏ lối sống xấu xa, vô luân và gây tai hại,
sự thay đổi này mới thật là phép lạ. Sự thay đổi để
thăng tiến do sự hiểu biết Pháp là phép lạ cao cả nhất mà
bất cứ ai cũng có thể làm được.
ĐỨC
PHẬT IM LẶNG
Khi người hỏi không thể hiểu được nghĩa
lý thực sự của câu trả lời cho câu hỏi đó, và khi một
câu hỏi đặt ra cho Ngài sai, Đức Phật giữ im lặng.
Kinh điển có nêu
trong một vài dịp, Đức Phật im lặng trước những câu
hỏi. Một vài học giả, thiếu hiểu biết ý nghĩa sự im
lặng của Ngài, đã kết luận vội vã là Đức Phật không
trả lời được. Đúng là có một vài dịp, Đức Phật không
trả lời những câu hỏi về siêu hình, có tính cách lý
luận suông, có nhiều lý do tại sao Ngài đã giữ sự im
lặng cao thượng đó.
Khi Đức Phật biết được người hỏi không
ở trong tư thế của một người hiểu được câu trả lời
vì sự thâm thúy của nó, hay những câu hỏi đã sai ngay từ
lúc đầu, Đấng Giác Ngộ giữ im lặng. Đức Phật im lặng
trước một số câu hỏi sau đây:
1. Vũ trụ có bất
diệt không?
2. Vũ trụ có không bất diệt không?
3. Vũ Trụ có hữu hạn không?
4. Vũ trụ có không hữu hạn không?
5. Có phải linh hồn và thể xác là một không?
6. Linh hồn là một vật còn thể xác là một vật khác phải
không?
7. Như Lai có hiện hữu sau khi chết phải không?
8. Như Lai không còn hiện hữu sau khi chết phải không?
9. Như Lai hiện hữu và không hiện hữu sau khi chết phải không
?
10. Như Lai chẳng hiện hữu và cũng chẳng không hiện hữu
phải không?
Đức Phật đã nhận
thức rõ những vấn đề này, Ngài đã im lặng cao thượng.
Một người bình thường chưa giác ngộ hẳn có nhiều giải
thích, nhưng tất cả điều đó chỉ là phỏng đoán sai lệch
của trí tưởng tượng.
Cái im lặng của Đức
Phật trước những câu hỏi rất nhiều ý nghĩa hơn là cả
ngàn bài thuyết giảng về những câu hỏi này. Sự nghèo nàn
của ngôn từ của nhân loại xây dựng trên những kinh
nghiệm tương đối không hy vọng truyền đạt Sự Thật
rộng sâu mà một người tự mình chưa hiểu biết được qua
tuệ giác. Trong một vài dịp, Đức Phật rất kiên nhẫn
giảng giải là ngôn ngữ thế gian giới hạn không thể mô
tả hết được Chân Lý Tối Thượng. Nếu Chân Lý Tối Thượng
là tuyệt đối, thì nó không có một điểm nào để cho người
phàm phu, với chỉ bằng kinh nghiệm thế gian và sự hiểu
biết tương đối có thể căn cứ vào mà nhận thức thấu đáo
được. Nếu cố gắng tìm hiểu với một khái niệm tinh
thần hạn chế, họ sẽ hiểu nhầm Chân Lý chẳng khác chi
bẩy người mù sờ con voi. Người nghe mà chưa hiểu đưọc
Chân Lý không thể hiểu được lời giải thích, giống như
một người bị mù ngay từ khi lọt lòng thì làm sao hiểu
được mầu sắc của bầu trời.
Đức Phật đã không
trả lời tất cả những câu hỏi đặt ra cho Ngài. Ngài không
bắt buộc phải trả lời các câu hỏi vô nghĩa do sự thiếu
nhiều hiểu biết của người đặt câu hỏi và trường hợp
không thích nghi cho việc phát triển tinh thần. Ngài là vị Đạo
Sư thực tế, từ bi và trí tuệ sáng ngời. Ngài luôn luôn nói
cho mọi người hiểu rõ về tính khí, khả năng và năng lực
của họ. Khi một người đặt câu hỏi không phải ý định
học tập một cuộc đời đạo lý mà chỉ là tạo cơ hội
để chẻ sợi tóc làm tư (gây rắc rối), Đấng Thiện Thệ
không trả lời những câu hỏi như vậy. Các câu hỏi được
trả lời để giúp người hỏi tự hiểu mình, chứ không
phải để khoe khoang cho người hỏi biết trí tuệ tột đỉnh
của Ngài.
Theo Đức Phật, có vài
cách để trả lời các loại câu hỏi. Loại câu hỏi thứ
nhất cần thiết một câu trả lời rõ ràng như 'phải' hay
'không phải'. Thí dụ "Phải chăng tất cả sự vật đều
vô thường?", câu trả lời là phải. Loại câu hỏi thứ
hai cần phải có sự phân tích. Có phải Angulimala là một
kẻ giết người trước khi trở thành A-La-Hán. Vậy tất cả
những kẻ giết người đều có thể trở thành A La Hán ? Câu
hỏi này trước khi trả lời 'Phải' hay 'Không phải' cần
phải phân tích trước khi trả lời. Nếu không câu trả lời
sẽ sai hay không làm cho người ta hiểu được. Bạn cần
phải phân tích những điều kiện gì làm một kẻ giết người
thành một thánh nhân trong chỉ một kiếp sống.
Loại câu hỏi thứ ba
là loại cần thiết phản ứng bằng một câu hỏi ngược
lại để giúp người hỏi suy nghĩ chín chắn. Nếu bạn
hỏi: 'Tại sao giết một chúng sanh lại là điều sai trái? Câu
hỏi ngược lại là: 'Bạn cảm thấy thế nào, khi người khác
cố gắng giết bạn? Loại câu hỏi thứ tư là loại bạn
phải loại bỏ. Có nghĩa là bạn không nên trả lời. Những
câu hỏi này có tính chất ức đoán lý thuyết, và trả lời
những câu hỏi này tạo nhiều thêm rối rắm. Thí dự như câu
hỏi 'Vũ trụ này có hay không có một khởi thủy? ' Câu hỏi
này làm cho người ta bàn luận năm này qua năm khác mà không
đi đến kết luận. Những câu hỏi như vậy chỉ căn cứ vào
trí tưởng tượng chứ không phải bằng sự hiểu thấu
thực sự.
Một số câu trả
lời của Đức Phật song hành với những câu trả lời về
khoa học nguyên tử. Theo Robert Oppenheimer, ' Nếu chúng ta hỏi,
chẳng hạn, phải chăng vị-trí một hạt nhân điện tử lúc
nào cũng giữ nguyên không thay đổi, chắc chắn chúng ta
phải trả lời là "không"; nếu chúng ta hỏi phải chăng
vị trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời
gian, chắc chắn ta phải trả lời "không"; nếu chúng
ta hỏi phải chăng hạt nhân đó đang di động, chắc chắn chúng
ta phải trả lời "không". Đức Phật cũng đã giải
đáp như vậy khi có người hỏi hiện trạng con người sau
khi chết; nhưng theo truyền thống của khoa học ở thế kỷ
thứ 17 và 18 thì những câu trả lời như thế không mấy quen
thuộc'
Tuy nhiên điều quan
trọng đáng ghi nhận là Đức Phật cũng trả lời một vài câu
hỏi như vậy cho những đại đệ tử trí tuệ nhất của Ngài
sau khi người hỏi đi khỏi. Và trong nhiều trường hợp,
những câu giải nghĩa được chứa đựng trong các bài
thuyết giảng của Ngài cho chúng ta; những người sống thời
đại khoa học phát triển nhất thấy tại sao những câu hỏi
ấy không được Đức Phật trả lời vì chúng được nêu lên
chỉ là để thỏa mãn tính tò mò của người hỏi mà thôi.
THÁI ĐỘ
CỦA ĐỨC PHẬT VỚI KIẾN THỨC THẾ GIAN
Kiến thức thế gian
không bao giờ giúp con người sống một đời đạo hạnh để
đạt an lạc và giải thoát.
Kiến thức thế gian
chỉ hữu ích cho cứu cánh ngoài đời. Với kiến thức này,
nhân loại học cách xử dụng những tài nguyên trên trái đất
để nâng cao mức sống, sản xuất nhiều thực phẩm, phát
sanh điện lực dùng chạy các nhà máy, thắp sáng phố xá, nhà
cửa, điều động xí nghiệp và thương mại, chữa bệnh, xây
phòng ốc và cầu cống, nấu các món ăn ngoại lai, vân vân....
Kiến thức thế gian cũng được xử dụng vào những mục tiêu
tác hại như làm các hỏa tiễn với đầu đạn nguyên tử,
vận động thị trường hối đoái, lừa đảo 'công khai', và
châm ngòi lửa sợ hãi lo âu và hận thù bằng chính trị.
Mặc dù sự bành trướng nhanh chóng, kiến thức thế gian
nhất là ở thế kỷ thứ 20, nhân loại vẫn không tiến gần
đến việc giải quyết những vấn đề tinh thần và bất
toại nguyện lan tràn. Có thể có nhiều khả năng nhưng nó
sẽ chẳng bao giờ giải quyết những vấn đề chung quát
của con người và mang lại hòa bình và hạnh phúc bởi do
những tiền đề mà trên đó những kiến thức, khám phá và
phát minh này được xây dựng.
Trong khi mang lại sự
hiểu biết tốt đẹp là làm sao sống một cuộc đời lương
hảo ngoài đời, Đạo Phật vẫn đặt trọng tâm là làm sao
đạt được giải thoát qua sự trau dồi trí tuệ và rèn
luyện tinh thần. Đối với những con người bình thường
việc theo đuổi kiến thức thế gian sẽ không bao giờ có
dứt điểm, nhưng cuối cùng, xét kỷ ra thì thực sự chẳng
quan trọng gì. Chừng nào mà chúng ta hãy còn chưa hiểu Pháp
thì chúng ta vẫn bị mắc bẫy trong vòng luân hồi. Theo Đức
Phật: Đã lâu đời rồi, bạn đã từng đau khổ vì cái
chết của người mẹ, cái chết của người cha, cái chết
của đứa con trai, của đứa con gái, của anh, của chị, đã
lâu đời rồi bạn đã từng bị mất của cải, đã lâu đời
rồi bạn đã từng bị bệnh khổ. Vì lẽ bạn đã từng kinh
nghiệm về cái chết của người mẹ, của người cha, của
người con trai, của người con gái, của anh của chị, kinh
nghiệm về sự mất mát của cải, kinh nghiệm về sự đau đớn
vì bệnh tật, đau khổ bởi những điều bất hạnh, bạn đã
nhỏ biết bao nhiêu nước mắt trên con đường dài ấy -
hết từ sanh đến tử, rồi từ tử đến sanh - nước mắt này
con nhiều hơn nước ở bốn biển.' Kinh Anguttara Nikaya) Nơi đây
Đức Phật diễn tả cái Khổ Đau triền miên sanh tử trên
thế gian. Ngài chỉ chú trọng đến một điều đơn giản:
chỉ cho con người con Đường thoát khỏi Khổ đau.
Tại sao Đức Phật
lại nói cho các đệ tử của Ngài với thái độ như vậy.
Tại sao Ngài không cố gắng giải quyết vấn đề cho biết
thế giới bất diệt hay không bất diệt, nó hữu hạn hay không
hữu hạn? Những vấn đề này có thể hào hứng và phấn khích
những kẻ tò mò. Nhưng những vấn đề này không giúp gì cho
con nguời thoát được khổ đau. Đó là tại sao Ngài đã
dẹp những vấn đề này sang một bên vì nó vô ích, hiểu
biết những việc đó không đem lại hạnh phúc cho con người.
Đức Phật nhận
thấy nói về những điều không có một giá trị thực
tiễn, ngoài tầm hiểu biết chỉ phí phạm thời giờ và năng
lực. Ngài nhìn thấy nếu triển khai các giả thuyết vế các
vấn đề đó chỉ làm phân tâm trở ngại đến việc phát
triển tinh thần.
Kiến thức thế gian và
việc nghiên cứu khoa học phải được bổ khuyết bởi
những giá trị tôn giáo và tinh thần. Nếu không, kiến thức
ngoài đời không thể đóng góp được gì cho việc phát
triển một đời sống thanh tịnh, đạo hạnh. Con người đã
tới một giai đoạn mà tâm trí bị đầu độc bởi những
dụng cụ và thành quả của kỹ nghệ cấp tiến, bị ám
ảnh bởi những ô trược như ích kỷ, tham đắm quyền thế,
và ham muốn của cải vật chất. Thiếu giá trị đạo lý thì
kiến thức thế gian và sự tiến bộ kỹ nghệ có thể dẫn
con người đến suy tàn và tiêu diệt. Chúng chỉ khơi dậy lòng
tham dục và phát triển nó theo những chiều huớng mới đáng
sợ hơn. Mặt khác, khi kiến thức thế gian đưọc khai thác
cho những cứu cánh đạo đức, nó sẽ mang đến cho nhân
loại lợi lạc và hạnh phúc tối đa.
THÔNG ĐIỆP
CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
"Khi
Như Lai đi rồi, Giáo Pháp của Như lai sẽ là Thầy và người
chỉ đường cho các con"".
Ba tháng trước khi
nhập diệt, Ngài gọi các đệ tử và dặn dò: "Như Lai
đã thuyết pháp cho các con trong suốt 45 năm dài. Các con
phải thấm nhuần và quý trọng giáo lý ấy. Các con phải tu
tập theo giáo lý ấy và dạy người khác tu tập. Việc làm này
rất vĩ đại cho hạnh phúc của những người hiện đang
sống và cho hạnh phúc của thế hệ tiếp nối.
'Tuổi của Như Lai nay
đã chín mùi, quãng đời còn lại của ta rất ngắn ngủi. Đã
đến lúc ta sắp sửa ra đi, xa lìa các con. Các con phải tinh
tấn lên. Này các thầy tỳ kheo, các thầy phải có chánh
niệm, đạo hạnh thanh tịnh! Bất cứ ai kiên trì tu tập Giáo
Pháp sẽ vượt qua vòng sanh tử, và sẽ chấm dứt khổ đau.'
Khi A Nan hỏi Phật,
khi Ngài qua đời, đoàn thể Tăng Già sẽ ra sao ; Đức Phật
hỏi l?i: "Này A Nan, Tăng Già trông chờ gì ở ta? Ta đã
giảng dạy Chân Lý cho tất cả mọi người không phân biệt,
về Chân Lý, Như Lai không mảy may dấu diếm... Này A Nan, có
thể là một số trong các con nghĩ rằng rồi đây những lời
dạy của Sư Phụ chúng ta không còn nữa, chúng ta chẳng bao lâu
không còn Sư Phụ nữa". Đừng nên nghĩ như vậy A Nan à.
Khi Như Lai đi rồi, Giáo Pháp của Như Lai và giới luật sẽ
là Thầy các con".
Đức Phật tiếp:
'Nếu có ai nghĩ rằng: 'Chính Như Lai là người lãnh đạo tăng
đoàn', hay Tăng Già tùy thuộc Như Lai, chính Như Lai là người
phải ban hành các chỉ thị', Đức Phật không nghĩ là Ngài lãnh
đạo Tăng Già và Tăng Già tùy thuộc nơi Ngài. Như Lai đã đến
lúc phải ra đi. Giống như cỗ xe cũ hư không thể chở nặng
thêm được nữa, xác thân không thể chịu đựng được thêm
nữa. Cho nên này A Nan hãy là ngọn đèn và nơi nương tựa
ở chính các con. Đừng tìm nương tựa nào khác. Hãy lấy Chân
Lý làm ngọn đèn và nơi nương tựa. Đừng tìm nương tựa nơi
nào khác.
Khi tám mươi tuổi, vào
ngày sanh nhật, Ngài qua đời, không thi triển bất cứ phép
mầu nào. Ngài cho thấy bản chất thực sự của những tập
hợp pháp ngay cả trong sự sống của chính Ngài.
Khi Đức Phật nhập
Niết Bàn, một trong những đệ tử nhận xét: 'Tất cả
phải ra đi - tất cả chúng sanh có mạng sống thì mọi hình
tướng duyên hợp đều phải tan rã. Đúng, cả đến Đức Đại
Đạo Sư như Ngài, một đấng vô thượng, đầy đủ trí
tuệ và Giáo Ngộ như Ngài cũng phải chết'.
Lời Đức Phật dặn dò lúc ra đi:
'Hãy tinh tấn lên.
Mọi sự vật duyên hợp đều vô thường'.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục |
01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002
|