[13]
TU
TÂM
DƯỠNG
TÁNH
Trên
thế
giới
hiện
nay,
từ
Âu
sang
Á,
có
rất
nhiều
tôn
giáo,
tín
ngưỡng
khác
nhau.
Nói
chung,
đối
với
mỗi
tôn
giáo
đều
có
hai
hạng
người:
tu
sĩ
và
tín
đồ.
Trong
phạm
vi
bài
này,
để
cho
quảng
đại
quần
chúng
cùng
theo
dõi,
chúng
ta
chỉ
nhắc
đến
Phật
giáo.
Trong
phạm
vi
đó,
chúng
ta
thử
tìm
hiểu
một
vấn
đề
thường
được
đề
cập
đến
trong
cuộc
sống
hằng
ngày,
đó
là
chữ
"tu",
nhất
là
vấn
đề
tu
hành
dành
cho
cả
hai
giới
tín
đồ
và
tu
sĩ,
hay
nói
cách
khác
là
Phật
Tử
tại
gia
và
xuất
gia.
Về
phương
diện
vật
chất,
khi
thấy
có
một
công
trình
kiến
trúc
lâu
năm
đang
xuống
cấp,
hư
hao,
người
ta
đề
nghị
trùng
tu
hay
tu
bổ,
nghĩa
là
sửa
chữa
công
trình
đó
cho
tốt
đẹp
hơn,
khang
trang
hơn,
vững
chắc
hơn.
Về
phương
diện
tinh
thần
hay
tâm
linh,
khi
gặp
một
người
hiền
lành,
biết
ăn
chay,
tụng
kinh
niệm
Phật,
tánh
tình
dễ
dãi,
hiền
hòa
nhã
nhặn
với
mọi
người,
người
ta
thường
nói
người
đó
"nhờ
biết
tu"
nên
mọi
người
chung
quanh
cảm
thấy
dễ
thở,
thoải
mái.
Niềm
an
lạc
và
hạnh
phúc
có
ngay
từ
trong
gia
đình
người
đó,
ảnh
hưởng
đến
ngoài
xóm
làng,
bạn
bè
và
những
người
quen
biết.
Còn
đối
với
những
người
không
biết
tu,
bản
thân
họ
không
hưởng
được
an
lạc
và
hạnh
phúc,
không
biết
được
thế
nào
là
"pháp
vị"
vi
diệu
tuyệt
vời.
Họ
thường
bị
phiền
não
và
khổ
đau
của
cuộc
đời
chi
phối,
bức
bách,
ngày
ăn
không
ngon,
đêm
ngủ
chẳng
yên,
bởi
những
chuyện
thị
phi,
hơn
thua,
tranh
chấp
liên
tục,
không
bao
giờ
giải
quyết
được
ổn
thỏa.
Thêm
nữa,
gia
đình
họ
khó
có
được
những
ngày
thực
sự
êm
đềm
hạnh
phúc,
bởi
ảnh
hưởng
những
nhiệt
não
tỏa
ra
từ
con
người
không
biết
thế
nào
là
tu
đúng
theo
Chánh
Pháp,
hoặc
chỉ
biết
tu
hình
tướng
và
tin
theo
những
điều
mê
tín
dị
đoan.
Những
người
không
biết
Chánh
Pháp
để
tu,
thường
cảm
thấy
bất
mãn,
bực
dọc,
thèm
muốn,
thích
đấu
tranh,
thích
hơn
thua,
thích
tiện
nghi,
nhàn
hạ,
chùa
to
tượng
lớn,
phô
trương,
cung
kính,
ăn
trên
ngồi
trước,
nghĩa
là
họ
thích
đủ
mọi
thứ
trên
trần
đời.
Họ
luôn
luôn
nhìn
thấy
cuộc
đời
đầy
phiền
não
và
khổ
đau,
mọi
người
trên
trần
đời
là
bần
tiện
xấu
xa,
con
người
và
cuộc
đời
đều
đáng
lánh
xa.
Họ
không
bao
giờ
nghĩ
là
họ
chưa
hoàn
toàn,
chưa
hoàn
hảo,
họ
cũng
có
một
phần
lỗi
trong
các
cuộc
tranh
chấp
ở
đời.
Lúc
nào
họ
cũng
thấy
là
"mình
đúng
người
sai".
Cho
nên
họ
chạy
đi
tìm
thần
linh,
tìm
thượng
đế
để
cầu
nguyện,
khấn
vái,
cầu
khẩn,van
xin,
hết
điều
này
đến
điều
nọ.
Nếu
mọi
chuyện
đều
được
đáp
ứng,
toại
nguyện,
tốt
đẹp
như
ý
họ
mong
cầu,
họ
cho
là
"trời
thương".
Bằng
như
ngược
lại,
họ
phiền
trách,
cho
là
"trời
không
thương",
hoặc
"trời
bất
công"!
Những
người
không
hiểu
biết
Chánh
Pháp
thường
nghĩ
rằng,
cho
rằng
đạo
Phật
chỉ
dành
cho
những
người
thất
tình,
bất
đắc
chí,
hay
những
người
già
cả
không
sống
được
với
con
cháu
trong
gia
đình
nên
cạo
đầu
vào
chùa
để
"tu".
Lâu
ngày
cửa
chùa
biến
thành
chỗ
trốn
nợ
đời,
hay
là
viện
dưỡng
lão,
thiền
môn
biến
thành
sân
khấu
cải
lương
nam
bộ
của
những
kẻ
sầu
đời,
chán
ngán
thế
thái
nhơn
tình!
Bởi
vậy
cho
nên,
thiết
tưởng
chúng
ta
cũng
cần
tìm
hiểu:
"tu"
nghĩa
là
gì,
để
làm
gì,
có
ích
lợi
gì?
Những
ai
cần
phải
tu?
Tại
sao
phải
tu?
Làm
sao
tu
theo
Phật?
Muốn
tu
theo
Phật
phải
làm
gì?
*
*
*
Trong
mọi
giới
Phật
Tử
chúng
ta
hiện
nay,
phần
đông
không
hiểu
rõ
ý
nghĩa
của
chữ
"tu",
không
hiểu
rõ
tu
để
làm
gì,
cho
nên
ứng
dụng
một
cách
đáng
thương.
Có
người
cho
rằng
tu
là
phải
cạo
râu
tóc,
mặc
áo
nâu
sòng,
hay
áo
cà
sa,
vào
ở
trong
chùa,
tức
là
phải
có
hình
tướng
nhà
sư,
phải
là
tu
sĩ
mới
gọi
là
"người
tu".
Hoặc
rộng
rãi
hơn
một
chút,
có
người
cho
rằng
phải
biết
ăn
chay,
thường
xuyên
đi
chùa,
tụng
kinh,
niệm
Phật,
làm
công
quả,
làm
Phật
sự,
làm
việc
chùa,
mới
gọi
là
người
tu.
Không
làm
như
vậy
thì
không
phải
là
người
tu.
Hiểu
như
vậy
không
hoàn
toàn
sai,
nhưng
chúng
ta
chỉ
mới
chú
ý
đến
phần
"sự",
tức
là
phần
hình
thức,
hình
tướng
bên
ngoài
của
một
người
tu
mà
thôi.
Hay
nói
cách
khác,
những
điều
đó
chỉ
là
"điều
kiện
có"
của
một
người
tu,
dù
là
xuất
gia
tu
sĩ
hay
tại
gia
cư
sĩ,
chứ
chưa
phải
là
"điều
kiện
đủ"
để
thành
một
người
tu
thực
sự
theo
đạo
Phật.
Đạo
Phật
không
chú
trọng
nhiều
đến
hình
thức,
hình
tướng,
nhưng
không
phải
không
cần
có
hình
thức,
hình
tướng
bên
ngoài.
Tuy
vẫn
cần
phải
có
hình
thức,
hình
tướng
bên
ngoài,
một
người
tu
đồng
thời
cũng
phải
có
chất
lượng,
có
nội
dung
bên
trong,
gọi
là
phần
"lý",
cả
hai
phải
được
vẹn
toàn,
phải
"lý
sự
viên
dung"
mới
gọi
là
tu
đúng
Chánh
Pháp
.
Trước
hết
nói
về
phần
sự,
tức
là
phần
hình
thức,
hình
tướng
bên
ngoài,
chúng
ta
thảy
đều
đồng
ý
là
một
người
tu
cần
phải
có
hình
thức
trang
nghiêm
thanh
tịnh.
Nghĩa
là
một
người
tu
cần
phải
ăn
mặc
tề
chỉnh,
đi
đứng
đàng
hoàng,
thái
độ
chững
chạc,
cử
chỉ
khoan
thai,
nói
năng
lễ
độ,
hòa
nhã
khiêm
tốn.
Không
ai
có
thể
chấp
nhận
một
người
ăn
mặc
lôi
thôi
xốc
xếch,
đi
đứng
nghiêng
ngửa,
nói
năng
hồ
đồ,
cử
chỉ
thô
tháo,
là
một
người
tu
chơn
chính,
ngoại
trừ
trường
hợp
các
bậc
thánh
nhơn
trong
các
chuyện
cổ
tích.
Cũng
trong
phần
sự,
nói
chung
người
tu
là
người
ăn
hiền
ở
lành,
không
làm
việc
gì
bất
thiện,
khổ
người
hại
vật,
luôn
luôn
giúp
đỡ
bất
cứ
ai,
khi
cần
đến.
Tuy
nhiên,
phần
quan
trọng
hơn
cả
chính
là
phần
"lý",
tức
là
phần
nội
dung
bên
trong,
phần
tâm
tánh
chủ
yếu,
phần
ý
nghĩa
của
những
việc
làm
bên
ngoài
trên
đây.
Nghĩa
là
một
người
tu
cần
phải
giữ
gìn
giới
luật,
tụng
kinh,
niệm
Phật,
thiền
quán,
tu
tập
thiền
định,
phát
triển
trí
tuệ
bát
nhã,
đi
chùa,
làm
tất
cả
mọi
công
việc
đem
lại
ích
lợi
cho
mình
và
cho
người,
một
cách
chí
công
vô
tư,
không
phân
biệt,
không
thành
kiến.
Phần
lý
này
được
tóm
gọn
trong
bốn
chữ,
đó
là
TU
TÂM
DƯỠNG
TÁNH
vậy.
Nếu
một
người
tu
chỉ
biết
lo
phần
sự,
chỉ
biết
lo
trau
chuốt
hình
tướng
bên
ngoài,
chỉ
biết
lo
làm
những
việc
hình
thức,
không
có
phần
lý,
không
thực
sự
thông
hiểu
và
không
thực
hành
Chánh
Pháp,
thì
đó
chỉ
là
cái
thùng
rỗng,
chỉ
có
cái
võ,
không
có
ruột.
Một
người
chỉ
biết
tu
hình
thức
như
vậy,
dù
có
cạo
tóc
vào
ở
trong
chùa,
trong
tâm
vẫn
còn
đầy
dẫy
phiền
não,
chỉ
biết
học
những
nghi
lễ
cúng
kiến
mà
không
hiểu
ý
nghĩa
cao
siêu
của
các
nghi
lễ
đó.
Họ
không
chịu
nghiên
cứu
tìm
hiểu
Chánh
Pháp,
ngọn
đuốc
trí
tuệ
tắt
ngỏm,
cho
nên
chư
Tổ
gọi
những
người
như
vậy
là
"tu
mù".
Người
thế
gian
thường
gặp
họ
trong
các
tang
lễ,
nên
gọi
họ
là
"thầy
tụng
đám
ma".
Một
người
chỉ
biết
tu
hình
thức
như
vậy,
không
có
ích
lợi
gì
cho
chính
bản
thân
họ,
ngoài
lợi
dưỡng,
không
có
ích
lợi
gì
cho
những
người
chung
quanh,
và
nhứt
là
không
ích
lợi
gì
cho
đạo
pháp
cả.
Khi
đến
chùa
lễ
Phật,
tụng
kinh,
cúng
kiến
hay
thọ
tam
qui
ngũ
giới,
Phật
Tử
chúng
ta
thường
nghĩ
rằng:
chắc
là
từ
đây
về
sau,
chư
Phật
sẽ
phù
hộ
độ
trì
cho
được
bình
an,
mọi
mong
cầu
được
vạn
sự
như
ý,
và
cuối
cùng,
sau
khi
lìa
bỏ
cõi
đời
này,
chúng
ta
sẽ
được
chư
Phật
rước
về
miền
cực
lạc.
Như
vậy
chúng
ta
chưa
phải
là
Phật
Tử
chơn
chánh.
Thọ
tam
qui
tức
là
qui
y
Tam
Bảo,
gồm
Phật
Pháp
Tăng,
và
nguyện
giữ
năm
giới
là
sát,
đạo,
dâm,
vọng,
tửu.
Nói
cách
khác,
qui
y
Tam
Bảo
rồi,
chúng
ta
không
sát
sanh,
không
trộm
cắp,
không
tà
dâm,
không
nói
dối,
không
uống
rượu.
Thực
ra,
kể
từ
ngày
đó,
việc
chúng
ta
phải
làm
là
cố
gắng
sửa
đổi
tâm
tánh
của
chúng
ta,
phải
quyết
chí
chừa
bỏ
những
thói
hư,
tật
xấu,
phải
chiến
thắng
những
tâm
niệm
tham
lam,
sân
hận,
si
mê,
phải
từ
bỏ
những
lời
nói
ác
độc,
gièm
xiểm,
ganh
tị,
đố
kỵ,
phải
từ
bỏ
những
hành
động
xấu
xa,
gian
ác,
bất
thiện,
sát
nhơn
hại
vật,
phải
từ
bỏ
những
ý
nghĩ
lợi
mình
hại
người,
khen
mình
khinh
người.
Kể
từ
ngày
đó,
chúng
ta
phải
sống
theo
hạnh
của
chư
Phật,
chư
Bồ
Tát,
làm
lành
lánh
dữ,
làm
theo
những
lời
dạy
quí
báu
của
chư
Phật,
chư
Bồ
Tát,
chư
vị
Tổ
sư,
giữ
gìn
tâm
ý
cho
thanh
tịnh.
Đó
chính
là
tu
tâm
dưỡng
tánh
vậy.
Chúng
ta
thường
nghĩ
tu
là
nương
tựa,
là
cầu
xin
với
chư
Phật
để
thỏa
mãn
mọi
mong
cầu
và
qui
y
Phật,
theo
Phật,
thờ
cúng
Phật,
lạy
Phật,
sẽ
được
bình
an
suốt
đời.
Bởi
vậy
cho
nên
chúng
ta
trở
thành
yếu
hèn,
ỷ
lại,
mất
hết
ý
nghĩa
cao
đẹp
của
chữ
"tu".
Do
bản
chất
của
con
người
là
tham
lam,
yếu
đuối
và
sợ
hãi,
dù
là
Phật
Tử
thuần
thành,
đi
chùa
lễ
Phật,
tụng
kinh
thường
xuyên,
chúng
ta
cũng
không
tránh
khỏi
những
tâm
bệnh
nói
trên,
cho
nên
không
tránh
khỏi
những
phiền
não
và
khổ
đau
của
cuộc
đời.
Do
lòng
tham
lam
sâu
đậm
từ
vô
thủy
cho
đến
ngày
nay,
chúng
ta
qui
y
Phật
với
lòng
mong
cầu
thỏa
mãn
những
ước
mơ
thầm
kín,
thường
là
quá
sức
để
thực
hiện.
Chúng
ta
thỉnh
thoảng
đến
chùa,
hay
thậm
chí
cạo
tóc
vào
ở
luôn
trong
chùa
hằng
chục
năm
dài,
nhưng
không
chú
ý
đến
việc
học
đạo,
không
màng
đến
những
giáo
pháp
cao
siêu
trong
các
kinh
điển,
không
học
hỏi
các
bậc
thiện
tri
thức,
để
tự
tu
tâm
dưỡng
tánh
theo
lời
Phật
dạy.
Chúng
ta
thường
đến
chùa
chỉ
để
cầu
bình
an,
xin
may
mắn,
khấn
vái
điều
này,
van
xin
điều
nọ,
khi
gặp
khó
khăn,
lâm
cảnh
khổ
nạn,
bèn
tự
kêu
lên:
"Phật
ơi,
cứu
con!",
người
đời
quen
gọi,
đó
là
"tu
hú"!
Chúng
ta
sống
lây
lất
cho
qua
ngày
tháng
trong
niềm
mê
tín
như
vậy,
để
chờ
ngày
được
Phật
rước
về
miền
cực
lạc.
Thật
là
vô
minh,
làm
uổng
phí
cả
cuộc
đời
hiện
tại
vô
cùng
quí
báu!
Chỉ
mang
đến
chùa
có
một
bó
nhang,
một
nải
chuối,
một
bình
bông,
đóng
góp
một
ít
tiền
ấn
tống
kinh
sách,
hoặc
đăng
báo
lời
nguyện
với
hai
ba
câu
niệm
Phật
và
Bồ
Tát,
chúng
ta
cầu
nguyện,
khấn
vái,
van
xin,
đủ
thứ
chuyện.
Nào
là
thân
thể
khỏe
mạnh,
gia
đạo
bình
an,
bệnh
tiêu
tật
hết,
con
cái
giàu
sang,
buôn
may
bán
đắt,
nhứt
bổn
vạn
lợi,
thắng
chuyện
kiện
thưa,
được
tiền
bạc
triệu,
tình
duyên
tốt
đẹp,
thi
đâu
đậu
đó,
tai
qua
nạn
khỏi,
vạn
sự
kiết
tường,
muôn
sự
như
ý,
tùy
tâm
mãn
nguyện,
quyến
thuộc
siêu
sanh,
thân
nhân
trường
thọ,
nghĩa
là
chúng
ta
mong
cầu
đủ
mọi
thứ
trên
trần
đời.
Với
cái
giá
cầu
nguyện
rẽ
mạt
như
vậy,
chúng
ta
van
xin
đủ
những
điều
mà
chư
Phật
đã
dứt
bỏ,
và
khuyên
chúng
ta
nên
dứt
bỏ,
để
tu
tập
cho
đến
chỗ
giác
ngộ
và
giải
thoát
khỏi
vòng
sanh
tử
luân
hồi.
Vì
không
chịu
học
đạo
cho
nên
chúng
ta
mới
sai
lầm
như
vậy.
Làm
như
vậy,
có
phải
là
chúng
ta
đã
phỉ
báng
Phật,
đã
làm
sai
lời
Phật
dạy?
Chúng
ta
không
hiểu
luật
nhân
quả,
nghĩa
là
ở
hiền
gặp
lành,
gieo
gió
gặt
bão,
sinh
sự
sự
sinh,
gieo
nhân
nào
gặt
quả
nấy,
cho
nên
chúng
ta
dễ
dàng
phạm
tội
tạo
nghiệp,
dùng
thủ
đoạn
thưa
kiện,
kiếm
được
nhiều
tiền,
cúng
Phật
chút
đỉnh,
tự
kỷ
ám
thị,
để
mong
cầu
hết
tội,
chạy
tội,
xóa
tội.
Nếu
thực
tâm
muốn
sạch
tội,
chúng
ta
phải
biết
pháp
sám
hối
để
diệt
trừ
nghiệp
chướng,
phiền
não
và
khổ
đau,
tức
là
phải
biết
những
lời
dạy
của
chư
Phật,
phải
học
hỏi
Chánh
Pháp.
Mọi
phiền
não
khổ
đau
trên
đời
đều
từ
gốc
vô
minh
mà
ra.
Muốn
hết
phiền
não
khổ
đau,
muốn
được
giải
thoát,
muốn
được
an
lạc
và
hạnh
phúc,
chúng
ta
phải
giác
ngộ.
Muốn
được
giác
ngộ,
chúng
ta
phải
học
hỏi
giáo
pháp,
tức
là
những
lời
Phật
dạy,
để
tự
ứng
dụng
tu
tập
cho
đúng
Chánh
Pháp,
để
tự
tu
tâm
dưỡng
tánh.
Được
như
vậy,
chúng
ta
sẽ
mở
mang
trí
tuệ
bát
nhã
với
ngọn
đuốc
Chánh
Pháp
của
chư
Phật,
để
cương
quyết,
can
đảm,
kiên
trì,
nổ
lực,
tinh
tấn
tu
hành,
cho
đến
ngày
giải
thoát
khỏi
sanh
tử
luân
hồi.
Muốn
hiểu
được
lời
Phật
dạy,
muốn
được
hưởng
pháp
vị
một
cách
thấm
thía,
nồng
nàn,
chúng
ta
phải
tận
lực
suy
tư,
nghiền
ngẫm
Chánh
Pháp
một
cách
tường
tận,
tinh
vi.
Đồng
thời,
chúng
ta
phải
áp
dụng
Chánh
Pháp
vào
trong
đời
sống
hằng
ngày.
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy:
Hãy
tự
thắp
đuốc,
tự
mình
bước
đi.
Thắp
sáng
trí
tuệ,
ngọn
đuốc
chánh
pháp.
Nghĩa
là:
Đức
Phật
dạy
chúng
ta
hãy
tự
quán
chiếu,
tự
soi
sáng
trí
tuệ
của
mình
bằng
cách
học
hỏi
giáo
pháp,
để
tự
chuyển
hóa
ba
nghiệp
thân
khẩu
ý
của
mình
cho
được
thanh
tịnh,
hay
nói
cách
khác,
để
tự
tu
tâm
dưỡng
tánh.
Theo
lịch
sử,
vào
thời
đó,
lúc
Đức
Phật
còn
tại
thế,
Ngài
không
thể
cứu
được
các
vị
đại
đệ
tử
của
Ngài,
khi
nghiệp
báo
của
họ
đến.
Ngay
bản
thân
của
Đức
Phật
cũng
bị
những
khổ
nạn,
cũng
gặp
những
khó
khăn
do
ngoại
đạo
gây
nên,
thì
thử
hỏi,
chúng
ta
không
chịu
tự
tu
tâm
dưỡng
tánh,
tự
thắp
đuốc
lên
mà
đi,
tự
cứu
chính
mình,
mà
chỉ
một
mực
cầu
nguyện,
van
xin,
khấn
vái
đủ
điều
như
trên,
liệu
có
được
gì
chăng?
Trong
Kinh
Pháp
Cú,
Đức
Phật
có
dạy:
Dù
có
lên
non,
xuống
biển
vào
hang,
nghiệp
báo
đã
mang,
vẫn
theo
con
người
như
hình
với
bóng,
không
ai
có
thể
tránh
khỏi
thoát
khỏi.
Nghĩa
là:
nếu
chúng
ta
không
biết
tự
tu
tâm
dưỡng
tánh,
để
chuyển
hóa
ba
nghiệp,
thì
dù
cho
có
van
xin,
cầu
khẩn
đến
đâu,
hay
thay
hình
đổi
dạng,
làm
vua
hay
thường
dân,
làm
cư
sĩ
tại
gia
hay
tu
sĩ
xuất
gia,
làm
tín
đồ
hay
làm
giáo
chủ,
dù
như
thế
nào
đi
nữa,
chúng
ta
cũng
không
tránh
khỏi
khi
nghiệp
báo
đến.
Đó
chính
là
luật
nhân
quả
vậy.
Có
vị
giáo
chủ
đương
thời
khi
ra
tiếp
xúc
với
công
chúng,
đứng
ở
trên
xe
hơi,
trong
lồng
kính
chống
đạn,
vì
sợ
bị
ám
sát.
Thượng
đế
còn
không
cứu
được
khi
con
người
đến
lúc
phải
trả
nghiệp,
huống
gì
là
cái
lồng
kính!
Cũng
vậy,
tục
ngữ
có
câu:
"Chạy
trời
không
khỏi
nắng",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Chắc
mọi
người
ai
cũng
thừa
nhận
rằng:
tất
cả
chúng
ta
đều
sẵn
có
hai
thứ
tâm
địa,
đó
là
tâm
hiền
lương
và
tâm
bất
lương.
Tâm
hiền
lương
là
cái
nhân
đem
lại
cái
quả
an
lạc
và
hạnh
phúc
cho
mình
và
cho
người,
đời
này
và
nhiều
đời
sau.
Tâm
bất
lương
ác
độc
là
nhân
đem
lại
quả
phiền
não
và
khổ
đau
cho
mình
và
cho
người,
đời
này
và
nhiều
đời
sau.
Tu
là
dẹp
bỏ
tâm
bất
lương
ác
độc,
phát
triển
tâm
hiền
lương.
Tu
là
điều
kiện
tất
yếu
cho
tất
cả
mọi
người
muốn
hết
khổ
được
vui,
không
phân
biệt
bất
cứ
ai,
bất
cứ
giới
nào.
Người
nào
còn
chất
chứa
tâm
niệm
bất
lương
ác
độc,
thì
cầu
nguyện
bình
yên
chỉ
hoài
công
mà
thôi,
cũng
như
người
uống
nhằm
độc
dược
mà
lại
chưa
muốn
chết!
Tư
tưởng
yếu
hèn
và
ích
kỷ
khiến
chúng
ta
nghĩ
đến
việc
trao
gởi
thân
mạng
của
chúng
ta
và
của
gia
đình
cho
chư
Phật,
nhờ
chư
Phật
phò
hộ,
độ
trì
hết
thảy
mọi
việc
được
bình
an
khi
còn
sống,
được
về
miền
cực
lạc
khi
từ
giã
cõi
đời.
Những
người
này
cung
kính
Đức
Phật
như
một
vị
thần
linh
hộ
mạng,
tưởng
như
Đức
Phật
có
quyền
năng
bảo
hộ
cho
bản
thân
họ
và
gia
đình
họ
suốt
đời.
Vì
thế
khi
bản
thân
hay
gia
đình
họ
xảy
ra
việc
gì
không
may,
họ
hết
sức
tha
thiết
chí
thành,
cầu
nguyện
van
xin
Đức
Phật
gia
hộ
cho
được
tai
qua
nạn
khỏi.
Nếu
được
như
ý,
thì
họ
cho
là
Đức
Phật
linh
thiêng,
tiếp
tục
đi
chùa
lễ
Phật,
để
cầu
khẩn,
van
xin
tiếp
chuyện
khác.
Họ
không
hiểu
rằng
do
chính
họ
ăn
ở
hiền
lành,
làm
việc
phước
thiện,
tạo
phước
đức
trước
đây,
và
ngày
nay
nhờ
phước
báo
đó
đã
cứu
họ
qua
được
cơn
hiểm
nghèo,
hoạn
nạn,
chứ
không
phải
do
van
xin,
cầu
khẩn
mà
được
đáp
ứng
đâu.
Chính
phước
báo
đã
làm
giảm
thiểu
nghiệp
báo
đó
vậy.
Bằng
như
không
được
toại
nguyện,
không
được
tai
qua
nạn
khỏi,
do
thiếu
phước
báo,
họ
dễ
dàng
sanh
lòng
phỉ
báng
Đức
Phật
không
từ
bi,
không
linh
thiêng,
và
chạy
theo
ngoại
đạo
tà
giáo,
cúng
kiến
bất
cứ
vị
thần
thánh
nào,
mà
họ
nghe
đồn
là
linh
thiêng,
là
có
quyền
năng
tối
thượng,
siêu
việt,
sẵn
sàng
chịu
chết
thay
họ,
chuộc
tội
của
họ
làm,
cho
họ
được
bình
yên
sung
sướng.
Với
tâm
quịt
nợ,
trốn
trách
trách
nhiệm,
họ
bị
gạt
gẫm,
tiền
mất
tật
mang,
đánh
mất
chánh
tín,
rơi
vào
hố
sâu
mê
tín
dị
đoan,
ngày
càng
xa
rời
Chánh
Pháp.
Có
nhiều
người
cầu
nguyện
van
xin
Đức
Phật
không
có
kết
quả,
bèn
đến
các
lăng
tẩm
của
những
vị
tướng
quân
bị
triều
đình
ngày
trước
bức
hại,
nghe
đồn
hiển
thánh
thành
thần,
hoặc
đến
miểu
ông
miếu
bà
cốc
cô
nào
đó,
để
cầu
khẩn
khấn
vái,
ký
gửi
con
cái
bệnh
hoạn
khó
nuôi,
xin
bùa
hộ
mạng
bình
yên,
xin
phép
làm
ăn
một
vốn
bốn
lời.
Thực
là
đáng
thương
vô
cùng!
Tại
sao
như
vậy?
Bởi
vì
những
vị
đó
lúc
đương
thời
còn
giữ
không
được
cái
mạng
của
họ,
thì
làm
sao
mà
cứu
giúp
ai
ở
đời
sau
được
chứ!
Còn
những
ông
đồng
bà
cốt,
cô
hai
cô
ba,
có
khả
năng
nào
giải
tai
giải
nạn
cho
người
khác,
trong
lúc
tự
lo
thân
của
họ
còn
chưa
xong,
ngày
nào
không
có
khách
cúng
tiền,
không
biết
lấy
gì
mà
ăn?
Cuộc
sống
của
chúng
ta
đầy
dẫy
những
lo
âu,
bất
trắc.
Cho
nên
chúng
ta
luôn
luôn
sống
trong
sự
sợ
hãi.
Khi
gặp
hoạn
nạn
chúng
ta
thường
tìm
cách
nương
tựa
vào
một
đấng
thiêng
liêng
tưởng
tượng
nào
đó,
để
cầu
nguyện,
khấn
vái,
van
xin,
mong
được
an
tâm.
Bởi
vậy
cho
nên,
chúng
ta
thường
nghĩ
rằng
qui
y
Phật,
đi
chùa
lễ
Phật,
tụng
kinh
niệm
Phật,
hay
hằng
ngày
ở
nhà
tụng
kinh,
thắp
hương,
cúng
Phật,
là
"tu"
và
sẽ
được
chư
Phật
ban
cho
mọi
sự
như
ý,
mọi
thứ
an
lành,
mọi
sự
sung
sướng.
Nếu
không
được
toại
nguyện,
chúng
ta
sẽ
đánh
mất
niềm
tin
và
lạc
vào
ngoại
đạo
một
cách
dễ
dàng.
Ở
đây
chúng
ta
cần
hiểu
rõ
ràng
rằng:
"Ngoài
tâm
cầu
đạo
tức
là
ngoại
đạo".
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
chư
Tổ
có
dạy:
"Phật
tức
Tâm,
Tâm
tức
Phật",
ngoài
tâm
không
có
Phật,
Phật
ở
chính
ngay
trong
tâm
của
chúng
ta.
Phật
không
có
ở
trong
chùa,
không
có
ở
trên
non
trên
núi,
không
có
ở
dưới
sông
dưới
suối,
không
có
ở
trong
rừng
trong
hang,
không
có
ở
cội
cây
hòn
đá.
Phật
không
có
ở
trong
các
pho
tượng
hay
tranh
vẽ.
Những
người
tự
xưng
là
Phật
sống,
là
đại
diện
Phật
để
dâng
sớ
cúng
sao
giải
hạn,
cầu
an
cầu
siêu,
cầu
đủ
mọi
thứ
trên
trần
đời,
hoặc
thấy
cội
cây,
hòn
đá
có
hình
dáng
lạ
lùng
nào
đó,
liền
cho
là
Phật
hiện,
đổ
xô
đến
lạy
lấy
lạy
để,
đều
không
phải
Chánh
Pháp,
đều
là
mê
tín
dị
đoan
cả.
Thậm
chí
có
người
tu
đến
khi
mãn
phần,
xác
thân
tứ
đại
đem
thiêu,
thấy
có
vài
chuyện
lạ,
liền
cho
là
hiển
linh,
cho
là
xá
lợi,
rủ
nhau
đến
chụp
hình,
lễ
lạy
cho
có
phước,
để
cầu
xin,
van
vái.
Thật
là
đáng
thương
cho
những
người
gọi
là
Phật
Tử
như
vậy,
dù
là
tại
gia
hay
xuất
gia.
Ngày
xưa,
Thái
Tử
Tất
Đạt
Đa
rời
bỏ
hoàng
cung,
ra
đi
tìm
đạo
giải
thoát.
Sau
một
thời
gian
tu
tập
thiền
định,
trí
tuệ
bát
nhã
bừng
sáng,
Ngài
giác
ngộ
được
Chân
Lý
và
thành
Phật.
Sau
đó,
Đức
Phật
chỉ
dạy
rằng:
"Nhứt
thiết
chúng
sanh
giai
hữu
Phật
Tánh".
Nghĩa
là
tất
cả
mọi
chúng
sanh
ai
ai
cũng
có
Phật
Tánh,
còn
gọi
là
tánh
giác
ngộ,
đó
là
tánh
sáng
suốt
hoàn
toàn
tuyệt
đối.
Dù
là
kẻ
ngu
hay
người
trí
cũng
đều
có
Phật
Tánh
như
nhau.
Chỉ
tại
sự
mê
ngộ
chẳng
đồng,
cho
nên
mới
có
kẻ
ngu
người
trí.
Người
ngộ
được
Phật
Tánh
sẽ
thấy
cảnh
trần
càng
đẹp
càng
thuần.
Phật
Tánh
hay
tánh
giác
ngộ
chỉ
hiện
ra
khi
tâm
phiền
não
không
còn,
cũng
như
khi
mây
đen
tan
biến
hết
thì
mặt
trăng
sáng
hiện
ra
vậy.
Nói
một
cách
khác,
do
công
phu
tu
tâm
dưỡng
tánh,
cho
nên
trong
khi
vẫn
sống
ở
đời,
nhưng
không
còn
bị
cảnh
trần
chi
phối,
không
còn
bị
cảnh
trần
gây
phiền
não,
thì
vọng
tâm
lăng
xăng
lộn
xộn
trước
đây
của
chúng
ta
chuyển
hóa
thành
Phật
Tánh,
trở
nên
thanh
tịnh
trong
sáng.
Tất
cả
mọi
chúng
sanh
ai
ai
cũng
sẽ
trở
thành
một
vị
Phật
nếu
biết
tu
tâm
dưỡng
tánh
theo
đúng
Chánh
Pháp,
không
cần
phải
qua
tận
xứ
Ấn
Độ
tìm
Phật,
không
cần
phải
vào
rừng,
trèo
non
lội
suối,
không
cần
phải
làm
những
chuyện
thay
đổi
hình
tướng,
không
cần
phải
làm
những
chuyện
dị
hình
dị
tướng,
không
cần
phải
làm
những
chuyện
khác
thường
khác
đời
gì
cả.
Tất
cả
mọi
chúng
sanh
ai
ai
cũng
có
thể
tu
trong
mọi
hoàn
cảnh,
ngay
tại
thế
gian
này,
ngay
trên
cõi
đời
này.
Chỉ
có
điều
là
chúng
ta
có
phát
tâm
muốn
tu
hay
không
mà
thôi.
Chúng
ta
đã
biết
là
tất
cả
ai
ai
cũng
đều
có
những
tâm
niệm
xấu
ác
cần
phải
tu,
cần
phải
sửa,
cần
phải
chừa
bỏ,
như
là
tâm
tham
lam,
sân
hận,
si
mê,
kiêu
ngạo,
nghi
ngờ,
đố
kỵ,
tị
hiềm,
ganh
ghét,
hơn
thua,
cố
chấp,
che
giấu,
bỏn
xẻn,
keo
kiệt,
ích
kỷ,
dối
gạt,
lao
xao,
lộn
xộn,
lười
biếng,
buông
lung,
phóng
túng.
Tại
sao
vậy?
Tại
sao
chúng
ta
cần
phải
dẹp
bỏ
những
tâm
niệm
trên
mới
gọi
là
tu?
Bởi
vì,
trong
Kinh
Thủ
Lăng
Nghiêm,
Đức
Phật
có
dạy:
"Những
tâm
niệm
đó
chỉ
là
vọng
tâm".
Nghĩa
là
những
tâm
niệm
đó
"tùy
duyên
mà
có",
hết
duyên
thì
lặng
mất,
chứ
không
phải
là
tâm
thực
của
chúng
ta,
không
phải
là
"chơn
tâm".
Chẳng
hạn,
không
có
ai
đến
quấy
nhiểu,
làm
phiền,
chúng
ta
sẽ
hiền
lành
như
bụt
vậy.
Chỉ
khi
nào
có
người
đến,
nói
điều
gì
khó
nghe,
khó
lọt
vào
tai,
hay
làm
điều
gì
bất
như
ý,
đụng
chạm
quyền
lợi,
xúc
phạm
tự
ái,
chúng
ta
sẽ
nổi
tam
bành
lục
tặc
ngay
tức
thì,
do
nghiệp
chướng
tích
lũy
lâu
đời
nhiều
kiếp,
trong
kinh
sách
gọi
là
"tùy
duyên"
mà
tâm
tức
giận
đó
nổi
lên.
Nhẹ
thì
cãi
vã,
nặng
thì
ấu
đả.
Kết
cuộc,
một
bên
vào
nhà
thương
hay
ra
nghĩa
địa,
một
bên
thì
vào
nhà
tù
hay
ra
tòa
án.
Bởi
vì
người
đời
thường
cho
là
"nhịn
thì
nhục",
cho
nên
hể
ai
"cự
thì
đục".
Thế
là
sóng
gió,
thế
là
phiền
não
và
khổ
đau
nối
tiếp
theo
sau
đó.
Nếu
người
nào
hiểu
được
là
"nhịn
chẳng
có
gì
nhục,
cự
chẳng
cần
phải
đục"
thì
người
đó
sống
cuộc
đời
an
lạc
và
hạnh
phúc
không
nghi.
Chỉ
e
sợ
rằng
chúng
ta
nhịn
không
nổi
mà
thôi,
chứ
có
gì
gọi
là
nhục
đâu.
Chỉ
vì
tự
ái
quá
cao,
coi
mặt
mũi
quá
trọng,
nên
chúng
ta
phản
ứng
mà
chẳng
kịp
suy
nghĩ
đến
hậu
quả
xảy
ra
sau
đó.
Thí
dụ
như
có
người
đến
mắng
chúng
ta
là
đồ
ngu
như
bò,
chắc
là
chúng
ta
sẽ
nổi
tức
ngay.
Như
vậy
là
người
đó
nói
đúng
quá
rồi,
còn
gì
nữa
mà
đôi
co
và
cãi
vã!
Bởi
vì
nếu
chúng
ta
thực
sự
không
ngu
và
thực
sự
không
phải
là
con
bò,
thì
cần
gì
phải
tức
giận
cho
mệt.
Lời
nói
của
người
đó
không
có
nghĩa
lý
gì
cả,
cho
nên
chúng
ta
không
cần
phải
chấp
làm
gì.
Được
như
vậy,
chắc
chắn
chúng
ta
sẽ
sống
an
lạc
và
hạnh
phúc
ngay
hiện
đời,
không
nghi.
Hơn
nữa,
lời
chửi
mắng
chỉ
là
chuyện
nhỏ,
còn
những
chuyện
lớn
hơn,
chẳng
hạn
như
bạn
bè
chơi
thân
với
nhau
từ
lâu,
rồi
sang
đoạt
tài
sản,
bản
quyền
sách
vở,
rồi
lại
lôi
đầu
mình
ra
trước
ba
tòa
quan
lớn,
thưa
kiện
cho
sạt
nghiệp
luôn,
thì
chúng
ta
mới
phải
đối
phó
sao
đây,
cư
xử
sao
đây,
cho
gọi
là
phải
đạo?
Trong
kinh
sách
có
câu:
"Bồ
Tát
sợ
nhân,
chúng
sanh
sợ
quả".
Nghĩa
là
người
có
trí
tuệ
bát
nhã
của
bậc
Bồ
Tát,
trước
khi
hành
động,
nói
năng,
suy
nghĩ,
đều
cân
nhắc
đắn
đo
hậu
quả,
còn
phàm
phu
tục
tử,
muốn
làm
thì
làm,
muốn
nói
thì
nói,
muốn
nghĩ
thì
nghĩ,
chẳng
cần
biết
đến
hậu
quả
ra
sao.
Trong
tam
tạng
kinh
điển,
Đức
Phật
có
dạy:
Tự
ái
tức
là
chấp
ngã,
chấp
ngã
thì
khổ
đau.
Muốn
hết
phiền
não
và
khổ
đau
thì
phải
đạt
được
"trạng
thái
vô
ngã",
đó
là
mục
đích
cứu
kính
của
đạo
Phật.
Muốn
đạt
được
trạng
thái
vô
ngã,
chúng
ta
cần
phải
tu
học
và
hành
trì
trong
một
thời
gian
không
ngắn!
Đó
chính
là
tu
tâm
dưỡng
tánh
vậy.
Chấp
ngã
nghĩa
là
gì?
Chấp
ngã
tức
là
"chấp
cái
ta"
là
thiệt,
là
ngon
lành,
hể
ai
đụng
tới
là
ăn
thua
đủ
ngay
tức
thì.
Chúng
ta
có
biết
đâu
rằng
"cái
ta"
ngon
lành
đó,
chỉ
gồm
có
cái
xác
thân
hôi
hám
bằng
xương
thịt,
trong
kinh
sách
gọi
là
thân
tứ
đại
vì
gồm
có
bốn
chất
là
đất
nước
gió
và
lửa,
sẽ
bị
chúng
ta
bỏ
lại
trần
thế
ngay
khi
lìa
đời.
Cát
bụi
sẽ
trở
về
với
cát
bụi.
Vậy
cái
gì
là
"ta"
thực
sự
đây?
Có
phải
cái
tâm
suy
nghĩ
là
"ta"
chăng?
Cũng
không
phải!
Tại
sao
vậy?
Bởi
vì
cái
tâm
suy
nghĩ
lăng
xăng,
lộn
xộn
đó
"tùy
duyên
mà
có",
hết
duyên
thì
lặng
mất,
cho
nên
đó
chỉ
là
"vọng
tâm",
tức
là
cái
tâm
vọng
động
mà
thôi,
đâu
phải
thực
là
"ta".
Nếu
đó
là
"ta",
thì
chẳng
lẽ,
"ta"
lúc
có
lúc
không,
lúc
còn
lúc
mất?
Trong
Kinh
Thủ
Lăng
Nghiêm,
Đức
Phật
có
dạy:
"Sanh
diệt
ký
diệt.
Tịch
diệt
hiện
tiền".
Nghĩa
là
khi
vọng
tâm
sanh
diệt
lặng
mất
rồi,
tức
là
tâm
trạng
lúc
có
lúc
không
lắng
hết,
thì
cảnh
giới
tịch
diệt,
tức
là
chơn
tâm
hiện
tiền.
Chơn
tâm
là
một
tên
gọi
khác
của
Phật
Tánh.
Chúng
ta
có
thể
ví
dụ
mặt
biển
lúc
yên
lặng,
bình
thản,
im
sóng
lặng
gió
như
là
chơn
tâm.
Lúc
có
gió
thổi
đến,
gió
nhẹ
sóng
nhỏ,
gió
lớn
sóng
to.
Ví
như
vọng
tâm
điên
đảo,
nổi
sóng
tham
lam,
giận
tức,
ngu
si,
khi
đáp
ứng
với
những
ngọn
gió
của
đời
sống,
như
bị
dụ
dỗ
danh
lợi,
bị
chửi
mắng
nhục
mạ,
bị
chọc
tức
trêu
gan,
bị
khen
chê
phê
phán,
bị
suy
sụp
cơ
nghiệp.
Nói
một
cách
khác,
mặt
biển
tùy
gió
mà
nổi
sóng.
Tâm
của
chúng
ta
cũng
vậy,
tùy
duyên
mà
sanh
khởi
những
tạp
niệm,
sanh
khởi
những
vọng
niệm
xấu
xa
ích
kỷ,
lợi
mình
hại
người.
Mặt
biển
tượng
trưng
cho
tâm
thể
thanh
tịnh
của
chúng
ta,
trong
kinh
sách
gọi
là
Chân
Tâm
hay
Phật
Tánh.
Tu
tâm
dưỡng
tánh
nghĩa
là
làm
sao
sửa
đổi,
chừa
bỏ
những
những
tâm
niệm
trên
đây,
làm
sao
khi
có
gió
thổi
đến,
mà
mặt
biển
tâm
thanh
tịnh
của
chúng
ta
không
một
chút
xao
động,
không
một
chút
gợn
sóng,
tức
là
chúng
ta
đã
đạt
được
mục
đích
cứu
kính
của
Đạo
Phật
rồi.
Đó
mới
thực
là
một
người
chơn
chính
tu
theo
đạo
Phật,
mới
thực
sự
là
một
Phật
Tử
thuần
thành,
dù
là
tại
gia
cư
sĩ
hay
xuất
gia
tu
sĩ.
Ngược
lại,
đó
chỉ
là
hình
tướng
bên
ngoài
không
hơn
không
kém
mà
thôi.
Tục
ngữ
Pháp
có
câu:
"L?habit
ne
fait
pas
le
moine",
tức
là:
"Chiếc
áo
cà
sa
không
tạo
ra
người
tu
sĩ",
chính
là
nghĩa
đó
vậy.
Tục
ngữ
Việt
Nam
ta
có
câu:
Thứ
nhứt
tu
tập
tại
gia.
Thứ
nhì
tu
chợ,
thứ
ba
tu
chùa.
Nghĩa
là
tu
tập
tại
gia
là
việc
dễ
nhứt,
bởi
vì
trong
gia
đình
toàn
là
những
người
thân
thương,
nên
mọi
việc
đều
được
cảm
thông
dễ
dàng
hơn,
dễ
tha
thứ
hơn,
dễ
bỏ
qua
những
lỗi
lầm
sai
trái.
Kế
đến,
khi
ra
chợ
làm
ăn
buôn
bán,
mà
muốn
tu
thực
là
khó,
bởi
vì
gặp
những
người
ở
ngoài
chợ,
phần
đông
người
lạ,
ý
kiến
tánh
tình,
mỗi
người
mỗi
khác,
biết
đâu
mà
lường,
làm
dâu
trăm
họ,
làm
sao
tu
được?
Vào
chùa
tu
lại
càng
khó
hơn,
bởi
vì
giới
luật
nhà
chùa,
khắc
khe
nghiêm
ngặt,
thường
bị
kiểm
soát,
canh
chừng
nhắc
nhở,
mất
hết
tự
do.
Tuy
nhiên,
có
người
giải
thích
khác
hơn
như
sau:
Tu
tập
tại
gia
là
việc
khó
khăn
nhứt,
bởi
vì
người
trong
gia
đình
quá
quen
thuộc,
cho
nên
lờn
mặt,
khó
tu
khó
sửa,
không
người
nhắc
nhở,
khuyến
khích
tu
tập,
bụt
nhà
không
thiêng.
Hơn
nữa
tại
gia,
đủ
thứ
cám
dỗ,
đủ
thứ
phiền
não,
khổ
đau
cuộc
đời,
bận
rộn
suốt
ngày,
không
có
thời
giờ,
làm
sao
tu
được?
Tu
chợ
thì
ít
khó
hơn,
bởi
vì
mỗi
ngày
chỉ
đi
chợ
vài
tiếng
đồng
hồ
là
nhiều,
có
khi
mỗi
tuần
chỉ
đi
chợ
một
lần,
chuyện
gì
tu
được
thì
tu,
chuyện
gì
tu
không
được
thì
thôi!
Tu
ở
chùa
là
dễ
dàng
nhứt,
bởi
vì
không
phải
lo
chuyện
sinh
nhai,
không
ai
dám
xúc
phạm,
không
bận
rộn
chuyện
thế
gian,
có
thầy
lành
bạn
tốt
sách
tấn
đồng
tu.
Vậy
quan
niệm
nào
mới
thực
là
đúng?
Câu
trả
lời
tương
đối
là:
"tùy
duyên",
tức
là
tùy
người,
tùy
hoàn
cảnh,
tùy
địa
phương,
tùy
pháp
môn,
tùy
thời
đại,
tùy
giáo
phái,
tùy
nhiều
điều
kiện,
không
có
gì
nhứt
định
đúng
hoàn
toàn
cả!
Bất
cứ
hoàn
cảnh
nào,
dù
dễ
hay
khó,
người
nào
tu
được,
người
đó
an
lạc,
chung
quanh
hạnh
phúc!
Thực
là
đơn
giản!
*
*
*
Tóm
lại,
muốn
"tu
tâm",
nghĩa
là
chừa
bỏ
những
tâm
niệm
xấu
ác,
bất
thiện
trên
đây,
chúng
ta
cần
phải
"dưỡng
tánh",
nghĩa
là
nuôi
dưỡng,
phát
triển
những
đức
tánh
tốt
đẹp
thay
thế,
như
là
tánh
từ
bi
hỷ
xả,
tánh
bình
đẳng
vô
tư,
tánh
công
minh
chính
trực,
tánh
nhẩn
nhịn
nhu
hòa,
tánh
trong
sạch
hiền
lương,
tánh
siêng
năng
tinh
tấn,
tánh
kiên
trì
bền
chí.
Những
đức
tánh
tốt
đẹp
này
thay
thế
những
tâm
niệm
bất
thiện,
lăng
xăng
lộn
xộn,
lâu
ngày
giúp
chúng
ta
giác
ngộ,
và
chuyển
hóa
vọng
tâm
thành
chơn
tâm,
tức
là
chúng
ta
đã
giải
thoát
khỏi
sanh
tử
luân
hồi.
Tất
cả
mọi
người
đều
cần
phải
biết
tu.
Con
người
có
tu
mới
được
an
lạc,
tự
tại
và
giải
thoát.
Gia
đình
có
tu
mới
được
hạnh
phúc.
Nhân
loại
có
tu
mới
thanh
bình.
Chúng
ta
cũng
biết
cuộc
đời
khổ
đau,
bất
trắc,
hay
an
vui,
sung
sướng,
là
quả
báo
từ
nhiều
đời
nhiều
kiếp
trước,
do
"chính
chúng
ta
đã
làm",
đúng
theo
luật
nhân
quả.
Chúng
ta
đã
tạo
"nhân"
nào
trước
đây
thì
nay
chúng
ta
nhận
"quả",
kết
quả
hay
hậu
quả,
tương
ưng
đó
vậy.
Chúng
ta
nên
nhớ
chư
Phật
và
chư
vị
tu
hành
đắc
đạo
cũng
không
ra
ngoài
luật
nhân
quả.
Các
Ngài
chỉ
ra
ngoài
vòng
sanh
tử
luân
hồi
nhờ
biết
tu
theo
lời
chư
Phật
dạy,
đúng
Chánh
Pháp,
nên
thoát
khỏi
mọi
khổ
đau,
mọi
ràng
buộc
của
cuộc
đời.
Vậy,
nếu
muốn
khỏi
khổ
đau,
muốn
được
an
vui,
chúng
ta
hãy
phát
tâm
"tu"
ngay
từ
giờ
phút
này.
Nếu
muốn
tu
hành
đúng
Chánh
Pháp,
chúng
ta
phải
phát
tâm
cầu
học
Phật
Pháp
một
cách
mãnh
liệt.
Chỉ
có
cách
đó
mới
có
thể
giúp
chúng
ta
giác
ngộ
và
giải
thoát
mà
thôi.
Chúng
ta
hãy
tự
kiểm
điểm,
xem
mình
thuộc
hạng
nào
sau
đây:
Nếu
chúng
ta
thuộc
hạng
đến
với
Phật
để
mong
cầu
bình
an,
van
xin
điều
nọ
điều
kia,
thì
hãy
nên
thức
tỉnh,
can
đảm
chuyển
hướng
tu
hành
để
trở
thành
người
Phật
Tử
chơn
chánh,
tuy
còn
trong
vòng
sanh
tử
luân
hồi,
nhưng
cũng
sống
cuộc
đời
an
lạc
và
hạnh
phúc.
Nếu
chúng
ta
thuộc
hạng
đến
với
Phật
để
tu
học,
để
tu
tâm
dưỡng
tánh,
thì
nên
cố
gắng,
nổ
lực
hơn
nữa,
để
mọi
sự
xấu
xa,
phiền
não
đều
tan
biến,
tiến
thẳng
trên
đường
giác
ngộ
và
giải
thoát,
thoát
ly
khỏi
vòng
sanh
tử
luân
hồi.
Toàn
thể
chúng
ta
đều
muốn
là
người
chánh
tín,
không
ai
muốn
là
hạng
người
mê
tín
dị
đoan,
phải
biết
ứng
dụng
Chánh
Pháp
để
chuyển
hóa
cuộc
đời
mình,
bớt
khổ
thêm
vui,
thực
sự
đem
ngọn
đuốc
Chánh
Pháp
soi
sáng
đời
mình,
ra
khỏi
đêm
tối
vô
minh.
Sau
hết,
chúng
ta
cần
nhớ
lại
lời
chư
Tổ
đã
dạy:
Tu
mà
không
học,
đúng
là
tu
mù.
Học
mà
không
tu,
đúng
là
tủ
sách.
Kính
chúc
quí
vị,
nhờ
học
hiểu
Phật
Pháp,
biết
tu
tâm
dưỡng
tánh
nên
tạo
được
cảnh
giới
niết
bàn,
hưởng
sự
an
lạc
và
hạnh
phúc
ngay
hiện
đời,
giải
thoát
khỏi
vòng
sanh
tử
luân
hồi,
không
phân
biệt
là
tại
gia
cư
sĩ
hay
xuất
gia
tu
sĩ.
---
o0o
---
Mục Lục
Tập
1:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11|
12
Tập
2:
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
Tập
3:
1|
2
|
3
|
4|
5|
6
|
7
|
8
|
9
|
10|
11|
12|
13|
14
|15|
16
---
o0o
---
| Thư
Mục
Tác
Giả
|
--- o0o ---
Chân
thành
cám
ơn
Cư
sĩ
Chính
Trực
đã
gửi
tặng
phiên
bản
điện
tử
bộ
sách
này
(Trang
nhà
Quảng
Đức,
05-2002)
Trình
bày
:
Nhị
Tường
Cập
nhật
ngày:
01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục