Trong
chương
cuối
của
8
chương
nói
về
Kim
cương
thừa
này
(xin
xem
lại
từ
chương
22
đến
28),
tôi
xin
xét
đến
sự
hành
trì
thiền
định
đặc
biệt
theo
lối
Kim
cương
thừa
có
tên
là
Sadhana
(một
lối
hành
trì
của
Mật
tông
bao
gồm
các
nghi
thức
như
hình
dung,
khẩn
cầu
và
đọc
tụng
thần
chú).
Từ
ngữ
Sadhana
nghĩa
là
‘hoàn
thành,
đạt
được,
thiết
lập’.
Sadhana
là
phương
tiện
nhờ
đó
người
ta
có
thể
hoàn
thành,
đắc
quả
hay
thiết
lập
cái
kinh
nghiệm
của
cõi
giới
linh
thiêng
hay
kinh
nghiệm
giác
ngộ.
Người
tham
gia
vào
việc
hành
trì
theo
lối
sadhana
được
gọi
là
Sadhaka.
Việc
đạt
được
kết
quả
cho
việc
hành
trì
này
là
Siddhi
(tất
đàn)
và
người
đạt
được
nó
là
Siddha.
Tôi
đề
cập
đến
nó
là
vì
trong
Chương
22,
chúng
ta
đã
biết
qua
về
những
bậc
Ðại
Giác
(Mahasiddhas)
đã
chứng
đắc
kinh
nghiệm
giác
ngộ
qua
sự
hành
trì
thiền
định
Mật
giáo. Trong
Chương
28
chúng
ta
đã
nói
rằng,
trong
lễ
điểm
đạo
Kim
cương
thừa,
hành
giả
dùng
phương
pháp
hay
chìa
khóa
để
nhập
vào
và
kinh
nghiệm
với
cõi
linh.
Nói
chung,
chìa
khóa
được
cho
là
cái
hướng
nhìn
về
vị
thánh
giám
hộ
và
công
thức
truyền
khẩu
đặc
biệt,
hay
bài
thần
chú
liên
hệ
với
vị
thánh
giám
hộ.
Những
việc
này
tạo
thành
những
thành
phần
quan
trọng
trong
thiền
định
Mật
giáo,
mục
đích
của
nó
là
việc
tái
tạo
và
thiết
lập
cõi
giới
linh
thiêng.
Nếu
muốn
hiểu
cách
hành
trì
thiền
định
Mật
giáo
giúp
cho
hành
giả
đạt
được
kinh
nghiệm
giác
ngộ
ra
sao,
ta
cần
xét
đến
hình
thức
và
nội
dung
tổng
quát
của
thiền
định
Mật
giáo. Ðể
cắt
nghĩa
việc
hành
trì
thiền
định
Mật
giáo,
tôi
sẽ
dùng
một
cấu
trúc
không
phổ
biến
lắm.
Bạn
sẽ
đối
đầu
với
một
số
hành
trì
không
giống
với
mẫu
đặc
biệt
mà
tôi
dùng
ở
đây:
các
thành
phần
không
theo
thứ
tự,
đôi
khi
lại
được
trình
bày
có
hơi
khác
nữa.
Tuy
vậy
nói
chung,
các
thành
phần
cấu
trúc
này
hiện
diện
trong
hầu
hết
tất
cả
các
hình
thức
thiền
định
Mật
giáo.
Và
sự
giải
thích
cặn
kẽ
mà
tôi
nói
ở
đây
được
căn
cứ
vào
những
điều
chính
thức
có
trong
Tạng
luận
của
phái
Mật
tông. Trang
263.
Một
điểm
khác
nữa
tôi
muốn
xin
nhấn
mạnh
là
thiền
định
Kim
cương
thừa
có
ý
nghĩa
cả
2
mặt,
đó
là
phương
pháp
(con
đường)
và
mục
tiêu
(kết
quả).
Tôi
nói
phương
pháp
là,
nhờ
vào
sự
thực
hành
thiền
định
Kim
cương
thừa,
người
ta
có
thể
đạt
được
kinh
nghiệm
giác
ngộ.
Tinh
tấn
trong
việc
thực
hành
thiền
định
là
ta
đã
hoàn
thiện
phương
pháp
đó,
tức
là
nhờ
phương
pháp
đó
mà
ta
đạt
được
mục
tiêu.
Vì
thế
một
mặt
thì
thiền
định
Kim
cương
thừa
là
phương
pháp,
nhưng
khi
hành
giả
thành
thạo
rồi,
thiền
định
trở
nên
mục
tiêu.
Nó
chỉ
là
phương
pháp
chứ
chưa
thành
mục
tiêu
đối
với
những
người
chưa
thấy
tiến
bộ. Tôi
xin
cắt
nghĩa
việc
này
bằng
cách
đưa
ra
lời
giải
thích
tổng
quát
về
thiền
định
Kim
cương
thừa:
thiền
định
Kim
cương
thừa
là
sự
bắt
chước,
là
một
bản
sao
của
các
chư
Bồ
tát
và
chư
Phật.
Hạnh
nghiệp
của
chư
Phật
và
chư
Bồ
tát
gồm
phương
pháp
và
mục
tiêu.
Trong
khi
Bồ
tát
hành
hạnh
Bồ
tát
thì
con
đường
đang
đi
là
phương
pháp.
Một
khi
hoàn
thành
Phật
quả
thì
con
đường
Bồ
tát
và
hạnh
nghiệp
của
một
vị
Phật
trở
thành
mục
tiêu
cho
người,
dù
rằng,
đối
với
các
sinh
vật
khác,
chúng
vẫn
là
phương
pháp.
Chẳng
hạn
như
chúng
ta
thấy
trong
Chương
15,
trong
bối
cảnh
của
Bắc
truyền
(Ðại
thừa),
hạnh
nghiệp
của
đức
Phật
như:
ngày
sanh,
ngày
từ
bỏ
cuộc
sống
gia
đình,
thời
gian
tu
khổ
hạnh,
thời
kỳ
giáo
hóa
chúng
sinh
và
cuối
cùng
đắc
quả...chỉ
là
một
vở
kịch
đuợc
diễn
ra
cho
sự
giác
ngộ
của
một
trong
các
giống
hữu
tình. Trong
tiến
trình
đạt
được
tiến
bộ
trên
con
đường
đạo,
phương
pháp
và
mục
tiêu
trở
nên
khó
phân
biệt
được.
Sự
tu
tập
để
đạt
được
mục
tiêu
cho
một
hành
giả
vẫn
có
khi
chỉ
là
phương
pháp
cho
các
người
khác,
những
người
vẫn
cần
phải
được
hướng
dẫn
tới
Phật
quả.
Vì
thế,
xem
thiền
định
Kim
cương
thừa
là
phương
pháp
hay
mục
tiêu
là
tùy
theo
chỗ
đứng,
trình
độ
hiểu
biết
và
mức
độ
tinh
tấn
của
người
đó
trên
con
đường
đạo. Trang
264.
Chúng
ta
hãy
chia
thiền
định
Kim
cương
thừa
thành
hai
phần,
mỗi
phần
lại
được
chia
thành
2
phần
phụ
nữa.
Ðể
đắc
quả
Phật,
ta
phải
hoàn
thành
công
đức
(phước)
và
tri
kiến
(huệ),
đó
là
2
điều
kiện
tiên
quyết
không
có
gì
thay
thế
được.
Hoàn
thành
Bát
nhã
Ba
la
mật
về
bố
thí,
trì
giới,
nhẫn
nhục
cho
ta
công
đức,
chu
tất
Bát
nhã
Ba
la
mật
về
thiền
định
và
trí
huệ
cho
ta
tri
kiến.
Còn
tinh
tấn
thì
đều
cần
cho
phần
công
đức
và
phần
tri
kiến. Phân
nửa
đầu
của
việc
tu
theo
Kim
cương
thừa
là
sự
mô
phỏng,
bắt
chước
có
tính
cách
tiếp
thu
cho
khả
năng
vô
thức
và
tư
duy
của
con
người
đi
vào
con
đường
Bồ
tát,
nhờ
đó
công
đức
và
tri
kiến
Phật
được
hoàn
thành.
Thiền
định
Kim
cương
thừa
bắt
đầu
bằng
việc
qui
y.
Nó
tiếp
tục
đánh
thức
tư
tưởng
giác
ngộ
và
phản
ảnh
các
sự
hành
trì
của
Lục
độ
và
Tứ
Vô
lượng
tâm
Từ
Bi
Hỉ
Xả.
Tất
cả
các
sự
hành
trì
này
biểu
hiện
sự
tiếp
thu,
thiền
định
cho
phần
tích
lũy
công
đức
của
Bồ
tát. Ðể
xét
thêm
nội
dung
‘Thiền
Kim
cương
thừa’
(Sadhana),
chúng
ta
nói
tiếp
về
thiền
định
của
tánh
không.
Nó
chẳng
có
gì
khác
hơn
là
sự
biểu
hiện
cho
việc
được
tiếp
thu
và
hoàn
thành
tri
kiến
của
Bồ
tát.
Bồ
tát
hoàn
thành
tri
kiến
qua
định
và
huệ.
Ở
đây,
ta
có
thiền
định
về
tánh
không,
nó
là
sự
hợp
nhất
của
(thiền)
định
và
(trí)
huệ. Ta
đã
xét
cái
phân
nửa
đầu
của
thiền
định
Kim
cương
thừa,
tương
ứng
với
hạnh
nghiệp
của
Bồ
tát
cho
đến
khi
đạt
được
Phật
quả,
với
2
loại
hoàn
thành
công
đức
và
tri
kiến.
Ðiều
này
được
biểu
hiện
bằng
cách
trở
về
với
việc:
đánh
thức
tư
tưởng
giác
ngộ,
thực
hành
Tứ
Vô
lượng
tâm
và
thiền
quán
về
tánh
không. Trang
265.
Sau
khi
giác
ngộ
và
đắc
quả
Phật,
các
sự
hoàn
thành
về
công
đức
và
tri
kiến
cho
ta
2
thứ
bậc.
Hai
thứ
bậc
này
là
2
tầm
vóc
của
Phật
quả:
tầm
vóc
hình
sắc
và
tầm
vóc
siêu
việt.
Trong
cái
nửa
thứ
hai
của
Thiền
Kim
cương
thừa
(Sadhana),
ta
có
toàn
bộ
các
biểu
hiện
có
tính
cách
mô
phỏng,
tư
duy
về
cái
thực
tướng
Phật
quả
của
2
tầm
vóc
này.
Việc
này
được
biểu
hiện
trong
Thiền
Kim
cương
thừa
(Sadhana)
qua
2
tiến
trình:
1.
tiến
trình
tạo
duyên,
và
2.
tiến
trình
hoàn
tất.
Hai
tiến
trình
này
tương
đương
với
2
tầm
vóc
hình
sắc
và
siêu
việt
như
đã
nói
trên. Bằng
cách
nào
mà
2
tiến
trình
tạo
duyên
và
hoàn
tất
lại
được
phản
ảnh
dưới
hình
thức
kinh
nghiệm
tư
duy
trong
bối
cảnh
Thiền
Kim
cương
thừa?
Khi
đạt
được
biểu
tượng
Phật
quả,
ta
hình
dung
đến
sắc
tướng
vị
thần
giám
hộ,
tức
là
tạo
duyên
cho
cái
biểu
tượng
của
Phật
quả
dưới
hình
thức
vị
thần
giám
hộ
đặc
biệt
đó.
Hành
giả
tạo
ra
sự
mô
phỏng
tâm
thức
thuộc
tầm
vóc
hiện
tượng
của
Phật
quả
dưới
hình
thức
vị
thần
giám
hộ
liên
hệ.
Ngoài
ra,
còn
có
việc
đọc
tụng
thần
chú
về
vị
thần
ấy.
Việc
đọc
tụng
này
là
sự
mô
phỏng
biểu
tượng,
tiếp
thu,
tư
duy
của
Pháp
Phật.
Hai
yếu
tố
sáng
tạo
sắc
tướng
của
vị
thần
giám
hộ
và
đọc
tụng
thần
chú,
tạo
ra
tiến
trình
sáng
tạo.
Chúng
tương
tự
với
tầm
vóc
sắc
tướng
của
Phật
quả
và
cũng
là
sự
bắt
chước
các
hoạt
động
có
tính
cách
hiện
tượng
của
đức
Phật. Sau
phần
hành
trì
sáng
tạo
về
sắc
tướng
của
vị
thần
và
việc
đọc
tụng
thần
chú
là
đến
phần
‘hoà
tan’
sắc
tướng
của
vị
thần
trở
thành
tánh
không
và
không
còn
đọc
tụng
thần
chú
nữa.
Việc
hoà
tan
và
không
đọc
tụng
nữa
là
mô
hình
thu
nhỏ
của
tầm
vóc
tư
duy
siêu
việt
của
Phật
quả. Trang
266.
Trong
phần
phân
nửa
thứ
hai
của
Thiền
Kim
cương
thừa,
ta
có
sự
bắt
chước
các
hạnh
nghiệp
của
đức
Phật,
với
tầm
vóc
hiện
tượng
và
siêu
việt
của
Phật
quả.
Sự
mô
phỏng
này
được
hoàn
thành
qua
việc
dùng
2
ý
niệm
‘tạo
duyên
và
hoàn
tất’.
Tiến
trình
tạo
duyên
cho
ta
hình
dung
được
vị
thần
và
đọc
tụng
thần
chú,
đó
là
mô
hình
về
tầm
vóc
hiện
tượng
của
đức
Phật:
các
hoạt
động
hoằng
pháp
và
giáo
pháp
của
ông.
Tiến
trình
hoàn
tất
tạo
ra
sự
‘‘hoà
tan’’
vị
thần
(thành
tánh
không)
và
sau
đó
không
đọc
tụng
thần
chú
nữa.
Ðó
là
mô
hình
của
tầm
vóc
siêu
việt
của
đức
Phật. Nói
tóm
lại,
trong
Thiền
Kim
cương
thừa
(sadhana),
ta
có
một
mô
hình
toàn
bộ
hạnh
nghiệp
của
chư
Phật
và
chư
Bồ
tát.
Phần
thứ
nhất
là
mô
hình
thu
nhỏ
các
sự
hoàn
thành
công
đức
và
tri
kiến
của
Bồ
tát.
Phần
thứ
hai
là
mô
hình
thu
nhỏ
các
tầm
vóc
hiện
tượng
và
siêu
việt
của
Phật. Tôi
xin
trở
lại
thiền
định
và
trí
huệ.
Ðiểm
này
nhấn
mạnh
đến
sự
hợp
nhất
hoàn
toàn
của
Phật
giáo.
Ðây
là
đặc
tính
tuyệt
đối
của
tất
cả
các
tông
phái
Phật
giáo
khi
đòi
hỏi
sự
hoà
nhập
giữa
định
(chú
tâm)
và
huệ
(hiểu
biết),
một
sự
hợp
nhất
của
sự
yên
bình
và
sự
hiểu
biết
sâu
xa
(trí
huệ).
Trong
bối
cảnh
Thiền
Kim
cương
thừa,
sự
hợp
nhất
này
là
điều
cần
thiết.
Trong
khi
hành
giả
thiền
quán
về
tánh
không
bằng
cách
hoàn
thành
tri
kiến
của
Bồ
tát,
vị
này
phải
hợp
nhất
‘định’
với
‘huệ’.
Trong
trường
hợp
này,
khả
năng
chú
tâm
vào
đối
tượng
được
áp
dụng
cho
sự
hiểu
biết
về
tánh
không.
Trong
khi
trước
đây,
vị
này
gieo
trồng
khả
năng
chú
tâm
với
sự
giúp
đỡ
bên
ngoài,
thí
dụ
như
một
cái
đĩa
màu
xanh,
thì
bây
giờ
trong
bối
cảnh
Thiền
Kim
cương
thừa,
vị
này
chú
tâm
vào
sự
hiểu
biết
tánh
không.
Nhờ
thiền
quán
vào
tánh
không,
vị
này
bắt
chước
để
hoàn
thành
tri
kiến
Bồ
tát
qua
sự
gieo
trồng
thiền
định
và
trí
huệ
ba
la
mật. Trang
267.
Cũng
có
sự
hợp
nhất
‘định’
và
‘huệ’
trong
bối
cảnh
hình
dung
vị
thần
giám
hộ
và
đọc
tụng
thần
chú.
Ở
đây
các
đối
tượng
để
chú
tâm
là
hình
tướng
của
vị
thần
giám
hộ
và
âm
thanh
của
thần
chú,
nhưng
hành
giả
phải
hợp
nhất
cái
hiểu
biết
tánh
không
của
mình
với
sự
chú
tâm
về
hình
tướng
của
vị
thần
giám
hộ
và
âm
thanh
của
thần
chú
để
cho,
trong
khi
hình
dung
và
đọc
tụng,
vị
này
xem
sự
hình
dung
và
âm
thanh
của
thần
chú
là
mẫu
của
hiện
tượng
tánh
không,
là
sự
phản
hồi,
là
một
ảo
tưởng
huyền
bí,
là
một
tiếng
dội.
Ðiều
này
quả
đúng
như
vậy,
vì
sự
phản
hồi
hay
tiếng
dội
liên
hệ
tương
đối
với
nhân
và
duyên
như
thế
nào,
thì
sự
hình
dung
vị
thần
giám
hộ
và
âm
thanh
của
thần
chú
sanh
khởi
và
tồn
tại
cũng
liên
hệ
tương
đối
với
nhân
và
duyên
như
thế
ấy. Trong
bối
cảnh
Thiền
Kim
cương
thừa,
sự
hình
dung
và
đọc
tụng
cũng
giống
như
các
hiện
tượng
khởi
sinh
độc
lập
và
tánh
không.
Trong
Thiền
Kim
cương
thừa
cũng
như
trong
các
tông
phái
Phật
giáo
phát
triển
tâm
linh
khác,
sự
hợp
nhất
thiền
định
và
trí
huệ
là
tuyệt
đối
cần
thiết.
Ðây
là
lý
do
tại
sao
Bồ
tát
Long
thọ
nói
trong
Bức
Thư
Gửi
Bạn
(Sukrillekkha)
rằng
nếu
không
có
định
thì
không
có
huệ,
và
không
có
huệ
sẽ
không
có
định.
Ðối
với
hành
giả
đặt
thiền
định
và
trí
huệ
chung
với
nhau,
bể
luân
hồi
có
thể
bị
cạn
khô,
giống
như
nước
đọng
trong
dấu
in
của
móng
guốc
bò
trong
bùn
bị
cạn
khô
vì
cái
nắng
mặt
trời
ở
giữa
trưa
vậy. Bằng
cách
đặt
thiền
định
và
trí
huệ
trong
bối
cảnh
Thiền
Kim
cương
thừa,
người
ta
có
thể
hoàn
thành
cái
kinh
nghiệm
của
cõi
giới
linh
thiêng,
cái
kinh
nghiệm
của
Phật
quả.
Ðiều
này
được
hoàn
thành
dần
dần
qua
việc
làm
quen
và
để
riêng
của
cõi
giới
linh
thiêng
được
vẽ
ra
trong
Thiền
Kim
cương
thừa.
Ðây
là
một
thế
giới
thiền
định
thu
nhỏ
đã
được
tiếp
thụ
qua
hạnh
nghiệp
của
chư
Bồ
tát
và
chư
Phật.
Bằng
cách
này,
người
ta
có
thể
hoàn
thành
mục
tiêu
Phật
quả.
Và
cũng
nhờ
thế,
kinh
nghiệm
giác
ngộ
của
một
người
sẽ
trở
thành
phương
tiện
dẫn
dắt
các
giống
hữu
tình
khác
đến
cùng
một
cõi
giới
linh
thiêng,
cùng
một
mục
tiêu.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002