Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Lý tưởng của Bồ Tát, hay Bồ Tát
Đạo
"Tấm
thân bằng thịt bằng máu mà tôi mang đây,
Chỉ để làm cho thế gian được an lành và hữu phước."
-- Sri Sanghabodhi
---o0o---
Trong
giáo lý của Đức Phật, có ba phương cách, hay ba con đường,
để thành đạt tuệ giác (bodhi). Người có chú nguyện đạt
cho kỳ được mục tiêu phải tùy bản tánh mình, chọn một
trong ba đường ấy là: Thinh Văn Giác (Savaka Bodhi [1]), Độc
Giác (Pacceka Bodhi), và Toàn Giác (Samma Sambodhi).
Thinh Văn Giác (Savaka Bodhi),
cũng được xem là lý tưởng A La Hán [2], là sự giác ngộ
của một đệ tử, hay A La Hán Đạo. người có nguyện vọng
đi theo con đường A La Hán thường phải tìm sự hướng dẫn
của một đạo sư cao thượng đã chứng ngộ Đạo Quả. Đối
với người đệ tử có trình độ tinh thần tiến bộ đầy
đủ, chỉ một lời chỉ giáo đơn sơ của vị chân sư cũng
có thể khai thông trí tuệ và đưa vào vòng Thánh Đạo. Như
Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) chẳng hạn, chỉ được nghe
nửa bài kệ của vị A La Hán Assaji đã chứng đắc tầng Thánh
đầu tiên. Bà Patacara, trong cơn suy sụp tinh thần vì chồng,
con, cha, mẹ và em bị tử nạn thê thảm, được duyên lành
đưa đến Đức Phật và đắc Quả A La Hán trong khi rửa chân
dưới ờ suối, bà nhìn những giọt nước từ chân gieo điểm
xuống dòng. Kisagotami là một người phụ nữ khác, tính tình
chân chất, đến van nài Đức Phật cứu sống cho đứa con
của bà vừa mới chết, cũng đắc Quả Thánh trong khi quan sát
những ngọn đèn đang lụi dần. Vị tỳ khưu Cula Panthaka, không
thể học thuộc một câu kệ trong bốn tháng, cũng đắc Quả
A La Hán khi quán tưởng đến bản chất vô thường của một
cái khăn lau tay sạch.
Sau khi đã thành tựu nguyện vọng,
vị A La Hán dành trọn khoảng thời gian còn lại của đời mình
để tế độ những ai muốn tìm trạng thái thanh bình an lạc,
bằng cách nêu gương lành trong sạch và ban truyền giáo huấn
thâm sâu. Trước tiên Ngài tự thanh lọc, và sau đó cố
gắng giúp người khác gội rửa bợn nhơ, bằng cách giảng
dạy giáo lý mà chính Ngài đã thực hành. Một vị A La Hán có
đủ tư cách để truyền dạy Giáo pháp hơn các vị đạo sư
phàm tục thường, chưa chứng ngộ Chân Lý, vì Ngài dạy
với kinh nghiệm bản thân.
Trong lý tưởng cao quý của bậc
Thinh Văn A La Hán không có chi là vị kỷ bởi vì Đạo Quả A
La Hán chỉ có thể thành đạt được sau khi hành giả tuyệt
trừ mọi hình thức ngã chấp. Ảo kiến về sự tự ngã và
lòng vị kỷ là những dây trói buộc mà người có chú
nguyện noi theo con đường A La Hán phải cắt đứt cho kỳ
được để thành tựu mục tiêu cứu cánh. Những bậc thiện
trí, nam cũng như nữ, trong thời Đức Phật và về sau, đã
được duyên lành gặp cơ hội vàng son khai thông trí tệ
trong kiếp sống hiện tiền.
Độc Giác Phật (Pacceka Bodhi),
là sự khai minh giác ngộ đơn độc của một người tự
lực cố gắng tiến đến Đạo Quả, không nhờ một ai dạy
dỗ hay giúp đỡ. Vì đặc tính đơn độc giác ngộ, nên chư
Phật Độc Giác không dắt dẫn ai đến nơi giác ngộ bằng
lối đơn độc giác ngộ được. Các Ngài chỉ nêu gương đức
hạnh và trí dũng.
Hơn nữa, chư Phật Độc Giác chỉ
ra đời trong lúc không có Phật Pháp. Số Phật Độc Giác không
phải chỉ có một trong một thời kỳ riêng biệt, như trường
hợp của bậc Toàn Giác (Samma Sambuddho). Như Đức Phật Gotama,
mặc dù đã viên tịch lâu đời, nhưng bao giờ Giáo Pháp
của Ngài còn tỏ rạng và tinh thuần như lúc ban sơ, thì không
thể có một vị Phật Độc Giác ra đời trên thế gian này.
Trong kinh Khaggavisana Sutta của bộ
Sutta Nipata (Kinh Tập) có những lời dạy của chư Phật Độc
Giác như sau:
"1.-
Sống giữa chúng sanh, hãy dẹp lại một bên, gươm đao và các
loại khí giới. Không gây tổn thương cho bất luận ai. Không
làm cho ai phải xót đau vì một đứa con hay một người bạn.
Nhưng, hãy mạnh dạn tiến bước, như chúa sơn lâm, đơn độc
một mình.
2.- Thân
mật sanh trìu mến. Do trìu mến có ưu phiền. Hãy nhận chân
niềm bất hạnh phát sanh do trìu mến và, như chúa sơn lâm, hãy
mạnh dạn tiến bước, đơn độc một mình.
3.- Chúng
ta chắc chắn tán dương giá trị của tình bằng hữu. Hãy thân
cận với bậc cao nhân hoặc người ngang bằng ta. Nếu không
được vậy, hãy sống đời trong sạch không đáng bị khiển
trách và, như chúa sơn lâm, hãy đơn độc mạnh tiến.
4.- Khoái
lạc vật chất trong đời sống quả thật vô số kể, vừa
êm dịu, vừa ngọt ngào và quyến rũ. Dưới đủ hình thức,
dục lạc làm cho lòng người say đắm. Hãy nhận chân hiểm
họa của nó và một mình, đơn độc, hãy vững tiến như chúa
sơn lâm.
5.- Trong
sương tuyết lạnh lùng và nắng chan nóng bức, khi đói, lúc
khát, nào gió, nào mặt trời, nào muỗi mòng, rắn rít. Hãy
khắc phục tất cả và, như chúa sơn lâm, một mình, đơn độc,
hãy mạnh dạn vững bước.
6.- Như
loài hùm, loài sư tử, không bị tiếng động làm, giựt mình,
run sợ. Như gió thoảng qua, không dính mắc trong màn lưới.
Như hoa sen, từ bùn nhơ nước đục vượt lên, nhưng không vướng
bợn nhơ của bùn của nước, hãy mạnh dạn tiến bước,
đơn độc một mình.
7.- Rồi
đúng lúc, đúng thời cơ, hãy trau giồi tâm Từ, tâm Xả, tâm
Bi, tâm Xuất Gia (tâm từ khước), tâm Hỷ và, không để
thế gian làm hư hỏng, hãy mạnh dạn, như chúa sơn lâm, đơn
độc tiến bước."
Toàn Giác (Samma Sambodhi)
là đỉnh giác ngộ tối cao của bậc đã thành tựu mức độ
trí tuệ tuyệt luân, vô lượng, từ bi, thông suốt mọi lẽ.
Bậc đã chứng đắc Đạo Quả tối thượng siêu việt này
gọi là Toàn Giác Phật hay Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc Chánh
Biến Tri. Phạn ngữ "Samma Sambuddho" có nghĩa là người
tự mình trở nên hoàn toàn giác ngộ. Tự lực cố gắng khai
thông tuệ giác, không thầy chỉ dạy. Các Đấng Toàn Giác,
sau khi chứng quả vô thượng bồ đề liền đem ra phổ cập
trong quần sanh, tận tụy hướng dẫn chư Thiên và nhân loại
đến nơi hoàn toàn trong sạch, giải thoát khỏi vòng quanh vô
tận của định luật tử sanh, sanh tử. Không phải như chư
Phật Độc Giác, trong một châu kỳ chỉ có một vị Phật Toàn
Giác duy nhất ra đời, như đoá hoa duy nhất chỉ trổ sanh trên
một loại cây hy hữu.
Người cố gắng tu dưỡng tâm tánh
với chí nguyện thành đạt Đạo Quả Chánh Giác được gọi
là Bodhisatta (Bồ Tát). Trong cõi trần thế đầy
ngã chấp và ích kỷ này, thử nghĩ có cái chi quý đẹp thanh
cao bằng hy sinh tất cả để trau giồi cuộc sống của mình
cho được trong sạch, hầu mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân?
Trong cuộc đi bất định theo vòng luân
hồi, những ai phát tâm muốn phục vụ thế gian và tiến đến
mức toàn thiện đều được hoàn toàn tự do đi theo con đường
Bồ Tát. Nhưng không có sự ép buộc, thúc đẩy tất cả
mọi người phải cố gắng thành đạt cho kỳ được Đạo
Quả Phật. Vả lại, trong thực tế, đó là điều không thể
làm được.
Cũng có lời phê bình rằng Bồ Tát
Đạo là con đường có khuynh hướng đưa hành giả ra khỏi
nếp sống gò bó, chật hẹp, bình thản, êm đềm và yên tĩnh
của những tu viện. Luận như vậy chỉ tỏ ra mình kém hiểu
biết Giáo Pháp thuần túy của Đức Phật.
Sách Abhisamayalankara-Aloka, một tác
phẩm Bắc Phạn (Sanskrit) mới sau này, và là một án chú
giải Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna Paramita) có ghi:
"Những
vị đại đệ tử (Sravakas) đã chứng ngộ hai hạng tuệ giác
(tức hạng Thinh Văn Giác, Sravaka, và Độc Giác, Pratyeka
Buddha) trong khi còn, và sau khi thân ngũ uẩn chấm dứt vẫn còn
tâm sợ sệt, bởi vì các Ngài chưa thành đạt Đại Bi và Trí
Tuệ Cao Thượng (Uru karuna prajna vaikal-yena, Vô Thượng Bát Nhã
Đại Bi). Do sự chấm dứt sinh lực tạo nên bởi những năng
lực trong quá khứ, các Ngài có thể đắc Niết Bàn. Tuy nhiên,
trong thực tế, (các vị Thánh tiểu thừa) chỉ thành đạt cái
gì mường tượng như Niết Bàn, gọi là Niết Bàn, giống như
ánh sáng bị dập tắt. Không còn trở lại tam giới nữa, nhưng
sau kiếp sống trần gian này, chư vị A La Hán sẽ tái sanh vào
cõi thanh tịnh nhất trong cảnh gới hoàn toàn tinh khiết (anasravadhatu),
ở trong một trạng thái xuất thần nhập hoá, mơ mơ màng màng,
bên trong những cánh hoa sen (Padmaphutesu jayante). Sau đó, Đức
Phật A Di Đà (Amitabha) và các vị Phật khác giống như vầng
thái dương, sẽ đem các Ngài lên gội rửa cho trí tuệ được
trong sáng (akilishta nana). Từ đó chư vị A La Hán tận lực
tiến đến Giác Ngộ Tối Thượng và, mặc dù đã đạt thành
trạng thái giải thoát, các Ngài hoạt động (trong thế gian
hữu vi), cũng giống như các Ngài đi xuống địa ngục. Rồi,
tích trữ dần dần những yếu tố cần thiết của Đạo
Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, các Ngài trở thành đạo sư
của tất cả chúng sanh (tức thành Phật)."
Trên đây là một lý luận hết sức
lạ lùng, xa hẳn tinh thần của những lời dạy căn nguyên mà
Đức Phật đã ban truyền.
Người ta còn luận rằng Quả A La Hán
là vị ngã, ích kỷ và khuyên mỗi người phải cố gắng tu
hành cho đến qủa vị Phật để cứu độ chúng sanh. Luận
như vậy cũng hữu lý, nhưng thử hỏi, mục tiêu của Đức
Phật là gì? Phải chăng là dắt dẫn người khác đến Đạo
Quả A La Hán và cứu vớt họ? Nếu quả thật vậy, thì ta
phải mặc nhiên kết luận rằng chính Đức Phật nuôi dưỡng
tinh thần ích kỷ nữa sao? Không thể được.
Trong ba con đường, dĩ nhiên Đạo
Quả Phật là cao siêu hơn cả, nhưng không phải tất cả ai
ai cũng nhất định thành Phật được, cũng như không phải
tất cả những khoa học gia đều có thể trở thành Einstein
hay Newton. Tuy nhiên, mỗi nhà khoa học đều có thể phục vụ
nhân loại tùy khả năng của mình.
Danh từ Nam Phạn (Pali) "Bodhisatta",
Bồ Tát, gồm hai phần. "Bodhi" là trí tuệ hay giác
tuệ, và "Satta" là "gia công để..., hay chuyên
cần để...". Vậy, Bodhisatta, Bồ Tát, là người gia công,
hay chuyên chú nỗ lực để thành đạt trí tuệ hay giác tuệ.
Đúng ra, hình thức Bắc Phạn (Sanskrit) của danh từ Bodhisatta
phải là Bodishakta, nhưng thường người ta dùng một danh từ
phổ thông là Bodhisattva, "trí tuệ chúng sanh", nghĩa là
chúng sanh có nguyện vọng trở thành Phật.
Danh từ này thường được dùng để
chỉ bất luận ai, cố gắng thành đạt tuệ giác, nhưng theo
đúng nghĩa của nó, Bodhisatta là người đã có lập lời chú
nguyện đi theo con đường Chánh Đẳng Chánh Giác và đã có
được thọ ký [3].
Hiểu theo một lối, tất cả mọi chúng
sanh đều có khả năng trở thành Phật, bởi vì Đạo Quả
Phật không phải là một đặc ân dành riêng cho hạng người
tốt nào.
Người Phật tử không tin rằng bên
trong tất cả mọi người đều có một điểm linh quang, được
thần linh phú cho, mà ta cần phải trau giồi để trở thành
Phật. Phật Giáo phủ nhận sự hiện hữu của một Thần
Linh Tạo Hoá hay một tha lực bí ẩn nào có thể đặt cái điểm
linh quang ấy vào bên trong ta. Tuy nhiên, người Phật tử
thấu hiểu và tin tưởng nơi những khả năng cố hữu và năng
lực sáng tạo của con người.
Phật Giáo cũng phủ nhận một linh
hồn trường cửu chuyển sinh mãi mãi, từ kiếp này sang
kiếp sống khác và, mãi mãi thu nhận kinh nghiệm. Thay vì
một linh hồn bất biến, cái được gọi là tinh hoa của con
người, Phật Giáo chủ trương có một luồng sinh lực luôn
luôn cuộc chảy, không ngừng đổi thay. Chỉ có tiến trình
diễn biến là đồng nhất, trước cũng như sau.
Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) là
một người. Nhờ ý chí dũng mãnh, trí tuệ cao siêu và từ
bi vô lượng, Thái Tử Đắc Quả Phật, trạng thái toàn
thiện đến mức cùng tột, và Ngài đã vạch ra cho nhân
loại con đường duy nhất dẫn đến nơi chí thiện ấy. Một
đặc điểm của Phật Giáo là bất luận ai cũng có thể có
nguyện vọng chính mình trở nên chí thiện, nếu kiên trì
chuyên cần và cố gắng đúng mức. Đức Phật không bao giờ
dành độc quyền thành Phật. Mọi người đều có khả năng
thành đạt, nhưng Đạo Quả Phật phải được thành tựu
bằng chí lực, bằng tinh tấn của chính mình cơ không phải
nhờ sự hỗ trợ nào từ bên ngoài. Đức Phật không bao
giờ lên án, gọi ai là tội lỗi, đáng thương hại, phải
mỗi mãi ở trong khổ cảnh. Thay vì làm nản lòng hay tạo
mặc cảm tự ti cho tín đồ và giữ riêng cho mình Đạo Quả
Phật, Đức Phật vạch ra con đường và khuyến khích tất
cả những ai hoan hỷ lắng tai nghe, theo dấu chân Ngài để làm
được như Ngài, thành đạt Đạo Quả Vô Thượng, Chánh Đẳng
Chánh Giác.
Bồ Tát không nhất thiết phải là
Phật tử. Trong hiện tại ta có thể gặp nhiều vị Bồ Tát
đầy lòng từ bi, bác ái, mặc dù các Ngài có thể không hay
biết gì về lời chú nguyện thành Phật của mình. Các vị
ấy có thể ở trong hàng Phật tử, cũng có thể không.
Ba Hạng Bồ Tát:
Theo Phật Giáo, có ba hạng Bồ Tát là:
a) Trí tuệ Bồ Tát (Pannadhika),
b) Tín Đức Bồ Tát (Saddhadhika) và
c) Tinh Tấn Bồ Tát (Viriyadhika).
Ba hạng trên đây tuần tự tương
đương với ba hạng du dà (yoga) trong Ấn Độ Giáo: Nana Yogi,
Bhakti Yogi, và Karma Yogi.
Trí Tuệ Bồ Tát ít
thiên về lòng nhiệt thành sùng đạo nhưng kiên trì tinh tấn
chuyên cần hơn trên đường phát triển trí tuệ. Tín Đức
Bồ Tát sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phượng, mà ít
chú trọng về công trình trau giồi tâm trí và bồi đắp công
đức vị tha. Tinh Tấn Bồ Tát thì tập trung vào tinh thần
phục vụ. Thật hy hữu nếu không phải là không bao giờ - ba
đặc điểm trên điều hòa kết tụ vào một người. Đức
Phật Gotama được xem là hạng Trí Tuệ.
Theo kinh sách, con đường của bậc
Trí Tuệ Bồ Tát ngắn nhất. Tín Đức Bồ Tát phải trải
qua một thời gian dài hơn; và Tinh Tấn Bồ Tát, càng dài hơn
nữa.
Trí Tuệ Bồ Tát chú trọng về công
phu phát triển trí tuệ và hành thiền nhiều hơn là nhiệt thành
với những hình thức lễ bái cúng dường bề ngoài. Các Ngài
luôn luôn đi theo sự hướng dẫn của lý trí và không chấp
nhận điều gì một cách mù quáng. Không tự bó tay qui hàng
một lý thuyết nào, cũng không làm nô lệ cho một quyển sách,
một bộ kinh, hay một cá nhân nào. Trí Tuệ Bồ Tát thích
trầm tĩnh, yên lặng để trau giồi thiền tập. Từ nơi
vắng vẻ tịch mịch ấy, Ngài rải ra những tư tuởng an lành,
tuy trầm lặng nhưng hùng dũng, bủa khắp thế gian, để đem
lại sự hỗ trợ tinh thần cho nhân loại đau khổ.
Tín Đức Bồ Tát đặt
trọn niềm tin nơi hiệu lực của tâm thành, Saddha, hay niềm
tin chân thành là đặc điểm chánh yếu của ngài. Cùng với
Saddha (niềm tin nơi Tam Bảo) như người bạn đồng hành trung
tín, Ngài thành tựu mục tiêu. Tất cả các hình thức về
lễ bái, thờ phượng bụt tượng, là sở trường của vị Tín
Đức Bồ Tát. Tượng Phật là một nguồn gợi cảm quan
trọng đối với Ngài.
Nên hiểu rằng người Phật Tử không
sùng bái pho tượng vì chính cái pho tượng bằng đồng hay
bằng gỗ ấy, người Phật Tử bày tỏ lòng kỉnh mộ tinh
thần cao cả mà pho tượng tượng trưng, và suy niệm về
phẩm hạnh, và ân đức của đức Từ Tôn. Càng suy tưởng
đến Đức Phật, càng kỉnh mộ Ngài. Đó là lý do tại sao mà
Phật Giáo không khi nào phủ nhận các hình thức ngưỡng mộ
bề ngoài (amisa puja) mặc dầu pháp hành (patipatti puja) đáng
được khuyến khích hơn và chắc chắn là bổ ích hơn. Vả
lại, để đi đến thành quả thỏa đáng, đôi khi trí thức
khô khan cũng cần được hưởng chút ít hương vị của
Bhakti (đức tin). Nhưng Bhakti, đức tin, quá đáng thì cũng
phải nhờ trí tuệ kềm hãm để khỏi phải sa vào cuồng tín.
Tinh Tấn Bồ Tát thì
luôn luôn tìm cơ hội để phục vụ kẻ khác. Không có gì làm
cho vị Bồ Tát hoan hỷ bằng tích cực phục vụ. Đối với
các Ngài, "làm việc là hạnh phúc và hạnh phúc là làm
việc". Không tích cực hoạt động thì các Ngài không có
hạnh phúc. Như đức vua Sangha-bodhi xứ Sri Lanka nói: "Ta
mang tấm thân bằng thịt và máu này là chỉ để đem lại
trạng thái tốt đẹp và an lành cho thế gian."
Bồ Tát không chỉ sống cho riêng mình
mà còn sống cho kẻ khác nữa.
Luôn luôn hoạt động luôn luôn làm
việc, không ngừng, không biết mệt, không chán, không phải làm
việc như người nô lệ, mà như một chủ nhân. Các Ngài không
ham muốn, không bám vào danh thơm tiếng tốt. Các Ngài chú
trọng đến việc làm, đến sự phục vụ. Ai biết, ai không
biết mình làm gì, điều ấy không quan trọng. Chẳng màng
được khen, không bị sợ chê, Bồ Tát thản nhiên trước
lời tán dương hay khiển trách.
Bồ Tát quên mình trong khi phục vụ
kẻ khác, có khi phải hy sinh mạng sống của mình để cứu
mạng chúng sanh khác, những người bạn đồng hành trên bước
đường dài dẵng của vòng luân hồi.
Muốn quên mình để hiến thân cứu
mạng cho một chúng sanh khác, Bồ Tát phải hành tâm Bi và tâm
Từ đến mức độ đặc biệt.
Bồ Tát ước mong sự tốt đẹp và
an lành của thế gian. Ngài thương chúng sanh như bà từ mẫu
thương đứa con duy nhất của bà. Bồ Tát hòa mình với tất
cả mọi người như anh, như chị. Thương yêu tất cả như
mẹ, như cha, như bạn, như thầy.
"Tâm Bi của Bồ Tát nhằm thực
hiện tánh cách bình đẳng giữa Ngài và người khác (para
atma samata) và cũng đặt mình trong kẻ khác (para atma
parivartana)".
Trong khi thực hành như vậy, BồTát
mất dần ý niệm về cái "Ta" và không còn thấy sự
khác biệt giữa Ngài và người khác. Ngài tự đồng hóa
với tất cả, lấy tốt trả xấu, lấy thiện trả ác lấy,
lành trả dữ, giúp đỡ tất cả, chí đến những người
chủ tâm hại mình, bởi vì Bồ Tát hiểu rằng "lực lượng
của người dẫn đạo là pháp nhẫn".
Bị nhục ma nhưng không nhục mạ
lại, bị đánh đập nhưng không đánh đập lại, bị làm
phiền nhưng không gây phiền nhiễu ai, Bồ Tát một mực giữ
đức khoan hồng. Tựa như đất mẹ trầm lặng, Bồ Tát âm
thầm chịu đựng tất cả những lỗi lầm của kẻ khác.
Chú thích:
[1] Savaka, Thinh Văn: Đúng theo nghĩa
đen là "người nghe".
[2] Theo đúng ngữ nguyên, Arahant (A La
Hán) là bậc Ứng Cúng, hay người đã dập tắt mọi khát
vọng.
[3] Giáo sư Rhys Davids viết như sau
trong quyển Buddhist Birth Stories (trang xxxiv): "Một quyển
tiểu thuyết có tính cách tôn giáo tựa đề "Barlaam and
Joasaphat" kể lại câu chuyện một hoàng tử Ấn Độ được
Barlaam cảm hoá và trở nên đạo sĩ ẩn dật. Người đọc
sẽ lấy làm ngạc nhiên được nghe rằng chuyện này là một
đoạn trong tiểu sử của Đức Phật, và (nhân vật) Joasaph là
Đức Phật dưới một tên khác."
Chữ Joasaph, hay Joasaphat chỉ là
biến thể của danh từ "Bodhisattva". Joasaphat trong
tiếng Á Rập, cũng được viết là Yudasatf, và đó là do sự
lẫn lộn giữa hai mẫu tự "Y" trong tiếng Á Rập, và
"B". Bodhisat trở thành Yudasatf. Xem "Encyclopaedia of
Religion and Ethics", tập 6, trang 567.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com