Những lời nói của Mara sau đây đã minh họa
về thái độ coi thường khá phổ biến đối với phụ nữ
thời Đức Phật hiện tiền:
Chắc chắn Đức Phật đã triệt để chống
lại thái độ như vậy. Vị tỳ kheo ni mà Mara đưa ra những
lời trên đây đã đáp lại như sau:
"Khi tâm được định
tỉnh vững vàng, trí tuệ chắc chắn phải đạt, thì làm đàn
bà có khác gì đâu?
Hoàng Đế Kosola rất
thất vọng khi được biết Hoàng Hậu sanh con gái trong khi Ngài
mong mỏi có con trai. Để an ủi nhà Vua, Đức Phật nói:
"Tâu Hoàng Thượng,
Bé Gái nhỏ này có thể chứng minh
Cho thấy Bé còn hơn cả con trai
Bé sẽ lớn lên khôn ngoan và đạo hạnh,
Mẹ chồng trọng vọng, xứng đáng vợ hiền,
Sẽ sanh ra nam tử tài đức tuyệt luân,
Trị vì đại quốc, vâng, một đứa con,
Của một người vợ cao quý như thế sẽ trở thành người
lãnh đạo quốc gia".
-- (Tương Ưng Bộ Kinh)
Đức Phật xác nhận
là người đàn bà cũng rất khôn ngoan và không phải chỉ đàn
ông mới khôn ngoan.
Ngày nay có nhiều nhà
tôn giáo thích tuyên bố là tôn giáo của họ cho nam nữ bình
quyền. Chúng ta chỉ cần nhìn vào thế giới ngày nay chung
quanh chúng ta, chúng ta sẽ thấy địa vị của phụ nữ trong
xã hội. Hầu như phụ nữ không được bình quyền và vẫn
bị kỳ thị trong nhiều lãnh vực và thường vẫn bị lạm
dụng trong nhiều hình thức tinh tế. Ngay cả tại các quốc
gia tây phương, những phụ nữ như các hội đòi quyền bầu
cử phải tranh đấu hết sức cam go cho quyền lợi của họ.
Theo Phật Giáo, không thể nào bào chữa cho việc coi phự nữ
là hạ đẳng. Chính Đức Phật cũng sanh ra nhiều lần là
phự nữ trong những tiền kiếp luân hồi của Ngài, và dù là
phái nữ Ngài vẫn phát triển những phẩm cách cao thượng, và
trí tuệ cho đến khi Ngài đạt Giác Ngộ và Phật Quả.
PHẬT GIÁO VÀ CHÍNH
TRỊ
Đức Phật đã vượt
ra khỏi mọi vấn đề thế tục, nhưng Ngài vẫn có lời khuyên
về việc lãnh đạo chính quyền.
Đức Phật thuộc dòng
dõi giai cấp lãnh đạo đương nhiên có liên hệ với các
bậc vua chúa, hoàng tử, và đại thần. Mặc dù mối liên
hệ và giao tiếp đó, Ngài không bao giờ dùng đến ảnh hưởng
quyền uy chính trị để quảng bá giáo lý của Ngài; Ngài cũng
không cho phép giáo lý của Ngài được lạm dụng để đạt
uy quyền chính trị. Nhưng ngày nay, nhiều chính trị gia cố
gắng lôi kéo danh nghĩa Đức Phật vào chính trị bằng cách
giới thiệu Ngài là cộng sản, là tư bản, hay cả đến là
người ủng hộ chủ nghĩa đế quốc nữa. Họ quên rằng
triết lý chính trị mới mà chúng ta được biết thực ra
chỉ phát triển ở Âu Tây một thời gian lâu sau thời Đức
Phật. Những ai cố gắng sử dụng danh nghĩa của Đức Phật
cho lợi ích cá nhân của mình cần phải nhớ rằng Đức
Phật là bậc Đại Giác đã vượt ra khỏi tất cả những liên
quan thế tục.
Có một vấn đề cố
hữu là người ta hay đem trộn lẫn tôn giáo vào chính trị.
Căn bản của tôn giáo là đạo đức, thanh tịnh và đức
tin, trong khi căn bản của chính trị là quyền thế. Theo dòng
lịch sử, tôn giáo thường được sử dụng để hợp pháp hóa
những người đang nắm quyền hành và sự thi hành quyền
lực ấy. Tôn giáo đã được dùng để biện minh cho chiến
tranh, xâm lược, khủng bố, nổi loạn, phá hoại tác phẩm
mỹ thuật và văn hóa.
Khi tôn giáo được
sử dụng để thỏa mãn ý đồ chính trị, tôn giáo phải đi
trước những lý tưởng đạo đức cao cả và trở nên mất
giá trị bởi những yêu cầu chính trị trần tục.
Sức đẩy của Phật
Pháp không phải nhằm vào việc tạo lập các thể chế chính
trị mới và các cuộc cải tổ chính trị. Phật Pháp căn
bản tìm cách giải quyết các khó khăn của xã hội bằng cách
cải tạo chính những con người thành lập xã hội ấy và
bằng cách đề nghị một số nguyên tắc tổng quát để xã
hội được hướng dẫn tới tinh thần nhân cao cả hơn, để
cải tiến phúc lợi cho thành viên, và chia sẻ tài nguyên công
bằng hơn.
Thể chế chính trị
chỉ có một giới hạn nào đó trong việc bảo toàn hạnh phúc
và sự thịnh vượng của người dân. Không có một hệ
thống chính trị nào, dù có vẻ lý tưởng đến đâu đi
nữa lại có có thể mang thực sự hòa bình và hạnh phúc
chừng nào mà con người trong đó còn bị chi phối bởi tham,
sân và si. Hơn nữa, dù áp dụng thể chế chính trị nào đi
nữa, vẫn có những yếu tố chung nhất mà thành viên của xã
hội ấy phải kinh nghiệm: đó là kết quả của thiện
nghiệp và ác nghiệp, là không thể có sự toại nguyện
thực sự hay hạnh phúc trường cửu trong cái thế giới có
đặc tính khổ đau, vô thường, và vô ngã này. Với người
Phật Tử, không nơi đâu trong cõi Luân Hồi này có được
tự do thực sự, ngay cả trên thiên đường hay thế giới
của Phạm Thiên.
Mặc dù một hệ
thống chính trị tốt và công bằng bảo đảm được nhân
quyền căn bản, bao hàm sự hạn chế và quân bình trong việc
sử dụng quyền lực là một điều kiện quan trọng cho đời
sống hạnh phúc trong xã hội, người ta không nên lãng phí thì
giờ vào sự tìm kiếm bất tận một hệ thống chính trị
chủ yếu mà con người có thể hoàn toàn được tự do, vì
tự do hoàn toàn không thể tìm trong bất cứ một hệ thống
nào mà chỉ tìm thấy trong những tâm đã được tự do mà thôi.
Muốn được tự do, con người phải nhìn trở vào nội tâm mình
và hành hoạt làm sao để giải thoát chính mình khỏi xiềng
xích của vô minh và tham dục. Tự do trong ý nghĩa đúng nhất
của nó chỉ có thể đạt được khi một người biết sử
dụng Pháp để phát triển cá tính qua lời nói và hành động
chính đáng và rèn luyện tâm ý để phát triển tiềm năng
tinh thần và hoàn tất mục tiêu giác ngộ tối hậu.
Trong khi công nhận
sự ích lợi của việc tách rời tôn giáo với chính trị và
những giới hạn của hệ thống chính trị trong việc mang hòa
bình và hạnh phúc, có nhiều khía cạnh của lời Phật dạy
tương đồng gần gữi với sự cải biến chính trị hiện
tại. Trước tiên, Đức Phật đã nói về sự bình đẳng
của tất cả mọi người từ lâu trước Abraham Lincoln, và
về những giai tầng và đẳng cấp xã hội là những chướng
ngại nhân tạo dựng nên bởi xã hội. Theo Ngài chỉ có sự
phân chia thứ hạng của con người, được căn cứ trên
phẩm cách và đạo đức. Thứ hai, Đức Phật khuyến khích
tinh thần hợp tác xã hội và sự tham gia tích cực vào xã
hội. Tinh thần này được tích cực đẩy mạnh trong tiến trình
chính trị của xã hội tiên tiến. Thứ ba, vì Đức Phật không
chỉ định ai là người thừa kế Ngài nên thành viên của Tăng
Đoàn được hướng dẫn bởi Giáo Pháp và Luật, hay nói tóm
lại bởi Giới Luật. Cho đến ngày nay, thành viên của Đoàn
Thể Tăng Già đều phải tuân theo Giới Luật, Giới Luật chi
phối và hướng dẫn tư cách đạo đức họ.
Thứ tư, Đức Phật
khuyến khích tinh thần trao đổi ý kiến và tiến trình dân
chủ. Điều này được thể hiện trong phạm vi Đoàn Thể Tăng
Già mà tất cả thành viên đều có quyền quyết định về
những công việc có tính cách chung. Khi nêu lên một vấn đề
nghiêm trọng đòi hỏi sự chú ý, những cách giải quyết
được đưa ra giữa các tỳ kheo để bàn luận giống như
trong hệ thống nghị trường dân chủ hiện tại. Thủ tục
theo chế độ tự quản này đã làm cho nhiều người ngạc
nhiên khi biết rằng trong các hội trường Phật Giáo tại
Ấn cách đây hơn 2500 năm đã thấy có những nguyên tắc sơ
đẳng của thể thức áp dụng tại nghị trường ngày nay.
Một giới chức đặc biệt giống như vị Chủ Tịch Viện
được chỉ định để bảo quản phẩm cách của hội nghị.
Một giới chức thứ hai được chỉ định giống như vai trò
của Nghị Viên phụ trách tổ chức (Chief Whip) để kiểm soát
túc số (tức số đại biểu qui định). Những vấn đề được
đưa ra thảo luận dưới hình thức đề nghị. Trong một số
trường hợp, vấn đề chỉ phải biểu quyết một lần,
trong các trường hợp khác phải đến ba lần, thủ tục này
đã đi trước Nghị Viện ngày nay đòi hỏi một dự án
phải được đọc lần thứ ba truớc khi thành luật. Nếu
cuộc thảo luận có những ý kiến dị biệt, vấn đề phải
được quyết định bằng đa số tuyệt đối trong một cuộc
đầu phiếu kín.
Đường lối Phật Giáo
đến với quyền uy chính trị là sự đạo đức hóa và sự
sử dụng có trách nhiệm về quyền lực của đại chúng. Đức
Phật thuyết giảng về bất bạo động và hòa bình như một
thông điệp cho toàn thể vũ trụ. Ngài không chấp nhận bạo
động hay sự phá hoại đời sống, và tuyên bố là không có
một cuộc chiến tranh nào được gọi là "chính đáng".
Ngài dạy: "Kẻ chiến thắng gieo hận thù, kẻ chiến
bại sống đời lầm than. Ai là kẻ từ bỏ cả thắng lẫn
bại, kẻ đó hạnh phúc và an lạc"". Không những
Đức Phật dạy bất bạo động và hòa bình, Ngài là vị Ðạo
Sư Tôn Giáo duy nhất thân hành đến chiến trường để ngăn
cản chiến tranh. Ngài đã hóa giải sự căng thẳng giữa hai
dòng họ Thích Ca và Koliyas sắp sửa khởi chiến trên dòng sông
Rohini. Ngài đã thuyết phục được Hoàng Đế A Xà Thế
dừng binh đi đánh Vương Quốc Vajjis.
Đức Phật thảo
luận sự quan trọng về điều kiện tiên quyết của một chính
quyền tốt. Ngài trình bầy cho thấy một đất nước đi đến
thối nát, suy đồi, và bất hạnh như thế nào khi người
cầm đầu chính phủ những lạm và bất công. Ngài chống
lại sự tham những và cho biết chính quyền cần hành động
ra sao căn cứ trên nguyên tắc nhân đạo.
Đức Phật có lần nói:
"Khi người cầm quyền quốc gia công bằng và đức
hạnh, các bộ trưởng (đại thần) cũng trở nên công bằng
và đạo hạnh; khi các bộ trưởng công bằng và đạo hạnh,
những giới chức cao cấp trở nên công bằng và đạo hạnh;
khi các giới chức cao cấp công bằng và đạo hạnh, đội
ngữ và đoàn sinh trở nên công bằng và đạo hạnh; khi đội
ngữ và đoàn sinh trở nên công bằng và đạo hạnh, người
dân trở nên công bằng và đạo hạnh ". (Tăng Chi Bộ
Kinh)
Trong kinh Cakkavatti
Sihananda, Đức Phật dạy vô luân và tội ác, như trộm
cắp, lừa dối, bạo động, sân hận, độc ác, có thể phát
xuất vì nghèo khổ. Các vua chúa và chính quyền có thể cố
gắng ngăn chận tội ác bằng hình phạt, nhưng chỉ dùng võ
lực để triệt tiêu tội ác thì vô ích.
Trong kinh Kutadanta, Đức
Phật khuyến dụ nên phát triển kinh tế thay vì võ lực để
giảm thiểu tội ác. Chính quyền nên sử dụng tài nguyên
quốc gia để cải tiến điều kiện kinh tế trong nước. Có
thể bắt tay vào việc phát triển nông nghiệp và mở mang nông
thôn, hỗ trợ tài chánh cho các nhà thầu và người kinh
doanh, trả lương xứng đáng cho công nhân để duy trì cuộc
sống tươm tất có nhân cách.
Trong kinh Jataka, Đức
Phật dạy mười điều cần thiết cho một chính quyền tốt
được gọi là "Dasa Raja Dharma". Mười điều này có
thể áp dụng cả đến ngay nay cho bất cứ một chính quyền
muốn trị nước hòa bình. Những nguyên tắc đó là:
1. Không thành kiến
và tránh ích kỷ,
2. Duy trì đặc tính luân lý cao,
3. Sẵn sàng hy sinh lạc thú riêng tư cho hạnh phúc của người
dân,
4. Chân thật và hết sức liêm chính,
6. Sống cuộc đời thanh bạch cho người dân tích cực noi gương,
7. Không bị bất cứ hình thức sân hận nào,
8. Bất bạo động,
9. Thực hành hạnh kiên nhẫn, và
10. Tôn trọng ý kiến quần chúng để động viên hòa bình
và hòa hợp.
Về tư cách của người
lãnh đạo, Ngài khuyên thêm:
(a) Người cầm
quyền tốt hành động vô tư, không thành kiến và không
kỳ thị giữa nhóm này với nhóm khác.
(b) Người cầm quyền tốt không ấp ủ bất cứ loại sân
hận nào với bất cứ ai.
(c) Người cầm quyền tốt phải tỏ ra không sợ hãi bất
cứ điều gì khi thi hành luật pháp, nếu luật pháp ấy đúng.
(d) Người cầm quyền tốt phải có sự hiểu biết rõ ràng
luật lệ thi hành. Không phải là luật lệ phải thi hành
chỉ vì người cầm quyền có quyền hành để thi hành
luật ấy. Luật pháp phải được thi hành một cách hợp lý
và hợp với lẽ phải thông thường. -- (Kinh Cakkavatti
Sihananda)
Kinh Milanda Panha
có nêu như sau: "Nếu một người thiếu tư cách, thiếu
khả năng, không thích hợp, bất lực và không đáng làm vua,
tự mình tôn phong làm vua hay người trị vì với uy quyền to
lớn, kẻ đó sẽ bị hành hạ khổ sở...., phải chịu
nhiều hình phạt bởi người dân, vì thiếu tư cách và không
xứng đáng, đã tự mình lên ngôi vua bất chính". Người
cầm quyền, cũng như những người khác vi phạm và đi quá
giới đức và nguyên tắc căn bản của tất cả luật lệ xã
hội trong nhân loại, thì cũng phải chịu hình phạt; hơn
thế nữa, người cầm quyền bị khiển trách đã sử sự như
một tên ăn cắp của công. Câu chuyện trong Kinh Jataka có nêu
rằng người cầm quyền nào trừng phạt người vô tội, và
không trừng phạt kẻ có tội thì không xứng đáng trị vì
đất nước.
"Nhà Vua lúc nào cũng
phải tự mình thăng tiến, và cẩn thận quán chiếu hạnh
kiểm của mình trong hành vi, lời nói và tư tưởng, luôn luôn
cố gắng tìm tòi và lắng nghe ý kiến đại chúng xem mình có
phạm lỗi lầm hay sai sót trong việc trị vì vương quốc.
Nếu có sự trị vì sai quấy, họ sẽ kêu ca khi bị thiệt
hại bởi sự bất lực của người cầm quyền do chính sách
hình phạt, thuế má, bất công hay những áp bức kể cả sự
tham những dưới bất cứ hình thức nào, và người dân sẽ
chống lại nhà cầm quyền bằng cách này hay cách khác. Trái
lại, nếu nhà vua trị vì minh chánh, thần dân sẽ chúc phúc
ngài : Hoàng Thượng Muôn Năm". (Majjhima Nikaya - Trung
Bộ)
Đức Phật nhấn
mạnh về trọng trách của người cầm quyền biết dùng sức
mạnh quần chúng để cải tiến phúc lợi cho dân như Hoàng
đế Asoka đã làm vào thế kỷ thứ ba trước Tây Nguyên.
Asoka, một tấm gương sáng chói về nguyên tắc này vì vua đã
quyết định sống đúng theo Giáo Pháp và truyền bá Chánh Pháp
để phục vụ dân chúng và nhân loại. Vị Hoàng Đế này tuyên
bố không dùng võ lực với quốc gia lân bang, và cam kết
thiện chí này bằng cách gửi các sứ giả cùng với thông điệp
hòa bình và không gây hấn đến những vị vua ở xa. Ngài đã
động viên sự phát huy các đức hạnh xã hội như chân
thật, trung thành, từ bi, nhân ái, bất bạo động, cư xử đứng
đắn với mọi người, không phung phí, không hám lợi, và không
làm tổn thương thú vật. Ngài khuyến khích tự do tôn giáo và
sự tôn kính lẫn nhau giữa các tôn giáo. Ngài tổ chức các
cuộc thuyết Pháp định kỳ cho các đồng bào tại nông thôn.
Ngài phụ trách các công việc lợi ích công cộng, như thiết
lập các bệnh viện cho người và vật, cung cấp thuốc men,
trồng cây cối trên các đường lộ và rừng, đào giếng, xây
cất các trạm tiếp tế nước và các nhà tạm trú. Ngài
triệt để cấm ác độc với thú vật.
Có đôi khi Đức
Phật được xem như một nhà cách mạng xã hội. Chẳng hạn
như Ngài lên án hệ thống giai cấp, xác nhận sự bình đẳng
giữa mọi người, lên tiếng về sự cần thiết cải tiến các
điều kiện kinh tế xã hội, công nhận tầm quan trọng của
việc chia sẻ hợp lý của cải giữa người giàu và người
nghèo, nâng cao địa vị phụ nữ, khuyến cáo tinh thần hợp
tác nhân đạo trong chính quyền và nền hành chánh, dạy
rằng không nên điều hành xã hội bằng lòng tham mà phải
bằng lòng tôn trọng và từ ái đối với dân chúng.
Ngoài những việc như
trên, sự đóng góp của Đức Phật cho nhân loại còn vĩ đại
hơn nhiều vì Ngài đã phát động một điểm mà từ trước
tới nay chưa có một nhà cải cách nào đã làm bằng cách đi
ngược vào gốc rễ thâm sâu nhất của tính bất thiện nằm
trong tâm con người. Cải cách
chân chính chỉ có thể có hiệu quả khi được thực hiện
ngay trong tâm con người. Những cải cách bằng sức mạnh trên
thế giới bên ngoài đều rất ngắn hạn vì không có gốc
rễ. Nhưng những cải cách nẩy sanh từ kết quả của sự
thay đổi tâm thức bên trong con người mới có gốc rễ lâu
dài. Khi những cánh cây đâm chồi mọc nhánh, chúng sẽ rút
dinh dưỡng từ một nguồn không bao giờ cạn là những thôi
thúc do bản năng của dòng sống đang trôi chảy. Cho nên
những cải cách chỉ hữu hiệu khi tâm con người đã chuẩn
bị sẵn sàng phương cách, và chúng chỉ được duy trì được
bao lâu mà con người còn biết bồi dưỡng sinh khí cho chúng
bằng tình yêu thương chân lý, công bằng, và đồng loại.
Học thuyết của Đức
Phật giảng dạy không căn cứ trên "Triết Lý Chính
Trị". Học thuyết này cũng chẳng phải để khuyến khích
con người thụ hưởng lạc thú thế gian mà để chỉ rõ cho
thấy con đường đạt Niết Bàn. Nói một cách khác, mục đích
rốt ráo là chấm dứt ái dục trói buộc con người trong
thế giới này. Câu kệ trong Kinh Pháp Cú đã khéo tóm
tắt sự xác định ấy như sau: "Con đường dẫn đến
lợi lạc trần gian là một, và dẫn đến Niết Bàn bằng cách
sống một cuộc đời đạo hạnh lại là một con đường khác".
Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là người Phật Tử không thể, hay không nên
tham gia vào hoạt động chính trị vốn là một thực thể
trong xã hội. Cuộc sống của những thành viên trong xã hội
được hình thành bởi luật lệ và quy tắc, bởi những cải
cách kinh tế hợp pháp trong nước, những sự canh tân về
tổ chức ảnh hưởng bởi các nguyên tắc chính trị của xã
hội ấy. Tuy vậy, nếu một Phật Tử muốn hoạt động chính
trị, người đó không nên dùng tôn giáo để đạt uy quyền
chính trị, và cũng không nên khuyến bảo những ai đã từ
bỏ cuộc đời trần tục sống một cuộc đời thanh tịnh,
đạo hạnh tham gia hoạt động chính trị.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002