Trong
chương
33,
tôi
đã
đưa
ra
một
số
phương
thức
để
phân
loại
đề
tài
là
một
đề
tài
khó
hiểu,
đặc
biệt
cho
những
người
mới
học
nghiên
cứu
Vi
diệu
pháp.
Vì
thế
tôi
muốn
bổ
túc
2
điểm
nữa
trước
khi
tiến
hành
cuộc
thảo
luận. Ðầu
tiên,
để
đạt
được
sự
hiểu
biết,
người
ta
cần:
1.
tầm
(tìm,
nghiên
cứu),
2.
sát
(xét,
nghĩ)
và
3.
(thiền)
định.
Chỉ
‘tầm’
(tức
nghe
và
đọc)
thì
không
đủ
để
phân
loại
các
thức:
ta
cần
‘sát’
một
cách
chính
xác
cách
thức
chúng
vận
hành,
xét
nghĩ
ý
nghĩa
của
chúng
là
gì.
Theo
kinh
nghiệm
cá
nhân
tôi,
các
kế
hoạch
phân
loại
này
không
có
ý
nghĩa
gì
cả
nếu
ta
không
bỏ
thì
giờ
ra
cho
chúng
chạy
tới
chạy
lui
trong
đầu
chúng
ta.
Sau
cùng,
sau
khi
tìm
và
xét,
ta
mới
có
thể
dùng
chúng
trong
giai
đoạn
thiền
định
của
mình. Thứ
hai,
muốn
hiểu
rõ
hơn
các
lối
phân
loại
này,
ta
phải
xét
đến
một
khuôn
mẫu
cụ
thể
và
gần
gũi
hơn.
Giả
dụ
bạn
muốn
biết
bao
nhiêu
người
xem
truyền
hình
ban
ngày
ở
Singapore.
Bạn
có
thể
chia
số
dân
thành
dân
đi
làm
và
dân
thất
nghiệp;
thêm
nữa,
bạn
có
thể
chia
nhóm
thất
nghiệp
thành
nhóm
nói
tiếng
Anh
và
nhóm
nói
tiếng
Hoa,
vì
thế
bạn
biết
bao
nhiêu
người
xem
chương
trình
tiếng
Anh
so
sánh
với
tiếng
Hoa.
Rồi
bạn
có
thể
chia
dân
số
thành
nam
và
nữ,
hay
thành
nhóm
đi
học
và
không
đi
học,
và
nhóm
đi
học
thành
những
người
học
trường
tiếng
Anh
và
những
người
học
trường
tiếng
Hoa.
Sau
khi
được
một
số
dữ
kiện,
ta
sẽ
có
nhiều
cách
để
phân
loại
chúng
tùy
thuộc
vào
những
gì
bạn
muốn
tìm
ra. Trang
299.
Ðây
cũng
là
cách
mà
Vi
diệu
pháp
dùng
để
phân
loại
về
thức:
với
các
loại
thức
được
chia
thành
từng
nhóm,
ta
sẽ
phân
loại
chúng
nhiều
cách
khác
nhau
tùy
theo
những
gì
chúng
ta
muốn
tìm
ra.
Nếu
chúng
ta
luôn
nhớ
2
điều
chung
này:
1.
tại
sao
và
bằng
cách
nào
ta
phân
loại
các
thành
phần
của
thức,
2.
suy
nghĩ
tới
lui
nhiều
lần
các
lối
phân
loại
đó,
thế
thì
chắc
chắn
ta
sẽ
hiểu
biết
chúng
sâu
sắc
hơn. Bây
giờ
ta
sẽ
xét
đến
các
thức
sắc
giới
(rapavachara)
và
thức
vô
sắc
giới
(arupavachara,
xem
chương
33).
Ở
đây
chúng
ta
chỉ
xét
đến
việc
phân
tích
loại
thức
có
được
do
thiền
na,
chú
tâm,
hay
định
(tiếng
Nam
Phạn
Pàli
là
jhàna,
tiếng
Bắc
Phạn
Sanscrit
là
dhyàna).
Trong
quyển
sách
đầu
tiên
của
Vi
diệu
pháp,
Xá
lợi
Phật
(Sariputta)
giữ
một
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
phân
tích
các
thức
đầu
tiên
của
Vi
diẹu
pháp.
Kinh
Anupada
đã
nhận
xét
rằng,
sau
khi
hoàn
thành
các
tình
trạng
khác
nhau
của
thiền
na
(dhyàna),
Xá
lợi
Phất
đã
áp
dụng
một
lối
phân
tích
Vi
diệu
pháp
bằng
cách
liệt
kê,
phân
loại
và
nhận
diện
các
loại
thức
mà
ông
đã
kinh
nghiệm
qua. Khá
nhiều
sự
nhấn
mạnh
được
phân
tích
ngay
trong
thời
kỳ
đầu
tiên
của
lịch
sử
Phật
giáo,
bởi
vì
kinh
nghiệm
của
tình
trạng
thiền
na
đặc
biệt
có
thể
được
giải
thích
sai
sự
thật
một
cách
dễ
dàng.
Trong
các
tông
phái
ngoại
đạo
(ngoại
đạo
đây
không
có
nghĩa
là
tà
đạo
mà
chỉ
là
các
tông
phái
đạo
giáo
khác
với
Phật
giáo
chính
thống),
các
tình
trạng
ấy
được
liên
tục
giải
thích
sai
lầm
là
bằng
chứng
của
một
thực
thể
siêu
việt,
siêu
nhiên
hay
là
của
một
linh
hồn
bất
tử. Bằng
cách
nói
rõ
rằng
các
tình
trạng
thiền
na,
giống
như
kinh
nghiệm
nói
chung,
là
vô
thường,
phù
du
và
vô
ngã,
sự
phân
tích
tránh
được
3
điều
ô
trược:
1.
đam
mê
hay
dính
mắc
đến
những
tình
trạng
tâm
thức
siêu
nhiên
và
lạ
thường,
đạt
được
qua
thiền
na;
2.
những
quan
điểm
không
đúng,
thí
dụ
như,
giải
thích
sai
lầm
về
các
tình
trạng
thiền
na,
xem
chúng
là
bằng
chứng
của
việc
có
một
thực
thể
siêu
việt
hay
linh
hồn
vĩnh
cửu;
và
3.
đánh
lừa,
do
có
ý
niệm
cho
rằng
đã
đắc
được
các
tình
trạng
thiền
na
đặc
biệt. Trang
300.
Sự
tu
tập
thiền
na
(dhyàna)
và
đắc
được
các
giai
đoạn
định
là
một
phần
rất
quan
trọng
trong
việc
hành
trì
Phật
giáo
bởi
vì
nó
là
cái
đích
của
sự
phát
triển
tâm
linh.
Ðây
là
một
trong
ba
ngành
học
chánh
là
giới-định-huệ
của
Phật
giáo
Ðể
hoàn
thành
các
giai
đoạn
định
này,
ta
cần
tạo
căn
bản
giới
hạnh
và
bớt
tham
gia
vào
các
hoạt
động
thế
gian.
Sau
khi
tạo
được
các
điều
kiện
tiên
khởi
này
rồi,
ta
mới
tiến
tới
việc
trau
dồi
từng
giai
đoạn
định
qua
các
phương
pháp
khác
nhau. Tóm
lại,
ta
tiến
hành
bằng
phương
tiện
của
khoảng
40
đối
tượng
thiền
định
truyền
thống,
bao
gồm
10
trợ
lực
(kasina).
Những
đối
tượng
này
được
liên
hợp
với
khí
chất,
căn
cơ
của
thiền
giả.
Nói
cách
khác,
những
đối
tượng
thiền
định
đặc
biệt
được
qui
định
cho
một
số
căn
cơ.
Nói
chung,
ta
bắt
đầu
với
một
trợ
lực
bên
ngoài,
dần
dần
trợ
lực
đó
đươc
nội
tại
hóa
và
trở
thành
ý
niệm.
Cuối
cùng
trợ
lực
đó
được
xả
bỏ
đi
và
thiền
giả
đi
vào
trạng
thái
thiền
định
đúng
nghĩa. Năm
pháp
định
(jhananga)
chủ
chốt
cho
việc
phát
triển
các
trạng
thái
thiền
định
đem
kết
quả
cho
thức
sắc
giới
và
vô
sắc
giới
là:
1.
tầm
hay
tìm
(vitakka),
2.
sát
hay
xét
(vichara),
3.
hỉ
(piti),
4.
lạc
(sukha),
5.
tịnh
(ekaggata)
(Phụ
chú:
Xin
so
sánh
với
7
giai
đoạn
của
sơ
thiền
là
‘tầm,
sát,
hỉ
lạc,
tịnh,
định,
xả’
trong
quyển
‘Chơn
lý’
của
Hệ
phái
Khất
sĩ
Minh
Ðăng
Quang
trang
72.
Cũng
xin
so
sánh
với
Thất
giác
chi
trong
Ba
mươi
bảy
phẩm
trợ
đạo
là
‘niệm,
trạch,
tấn,
hỉ,
khinh,
định,
xả).
Năm
yếu
tố
vitakka,
vichara,
piti,
sukha
và
ekaggata
này
có
trong
hầu
hết
các
loại
thức,
bao
gồm
thức
dục
giới
và
thức
của
vài
loại
thú
thông
minh. Lấy
thí
dụ
‘tịnh’.
Mỗi
thức
đều
có
mức
độ
‘tịnh’
nào
đó.
Tâm
tịnh
này
giúp
ta
chú
tâm
vào
đối
tượng
của
kinh
nghiệm
thức
của
mình.
Nếu
không
thực
sự
tịnh
tâm
được,
chúng
ta
không
thể
rút
ra
một
đối
tượng
rõ
rệt
nào
của
thức
từ
một
số
đối
tượng
để
chọn.
Năm
pháp
định
giữ
vai
trò
đặc
biệt
trong
việc
phát
triển
các
thức
thiền
định
ở
chỗ
là
chúng
nâng
các
thức
dục
giới
lên
sắc
giới
và
tăng
cường
độ
lên
vô
sắc
giới.
Sự
tăng
cường
độ
này
là
sự
cải
thiện
và
phát
triển
sức
mạnh
của
các
phần
hành
đặc
biệt
của
thức. Trang
301.
Sự
tăng
cường
độ
của
2
pháp
định
đầu
tiên
(tầm
-
sát)
dẫn
đến
sự
phát
triển
trí
tuệ
và
tăng
sự
sáng
suốt
lên.
Giống
như
vậy,
sự
tăng
cường
độ
giai
đoạn
thứ
năm
dẫn
đến
sự
phát
triển
pháp
định
‘tịnh’
(hoàn
toàn
tập
trung).
Sự
tăng
cường
độ
tất
cả
5
pháp
định
lần
lượt
dẫn
đến
quả
đắc
các
quyền
lực
siêu
phàm. Năm
pháp
định
cũng
giúp
nâng
cao
tâm
thức
con
người
từ
cõi
dục
qua
cõi
sắc
và
sang
cõi
vô
sắc
bằng
cách
tháo
gở
5
trở
ngại
trói
buộc
(nivarana):
‘tầm’
chuyển
biến
sự
lười
biếng,
lờ
đờ;
‘sát’
biến
đổi
sự
nghi
hoặc;
‘hỉ’
cải
biến
sự
không
thân
thiện;
‘lạc’
làm
tiêu
tan
bồn
chồn,
lo
lắng;
và
‘tịnh’
điều
chỉnh
lòng
ái
dục. Chúng
ta
hãy
xét
kỹ
5
pháp
định
để
thấy
chúng
chuyển
biến
như
thế
nào
về
các
thức
tập
trung.
Ðầu
tiên
ta
xét
chi
tiết
về
cái
nghĩa
của
nó.
Trong
bối
cảnh
của
thiền
quán,
‘vitakka’
nên
được
đặt
tên
là
‘tầm’
hay
‘tìm’,
vì
nó
có
nghĩa
là
‘đặt
lên’.
‘Vitakka’
đặt
cái
tâm
lên
đối
tượng
thiền
định;
‘vichara’
là
‘sát’
hay
‘xét’
hay
duy
trì
cái
tâm
vào
đối
tượng
ấy.
Yếu
tố
‘piti’
(hỉ)
làm
ta
vui,
hứng
khởi
theo
đuổi
hoạt
động
thiền
quán
một
cách
cần
mẫn. Kế
đến
ta
thử
đối
chiếu
‘hỉ,
piti’
với
‘lạc,
sukha’
để
hiểu
thêm
sự
liên
hệ
giữa
chúng.
Hỉ
và
lạc
thuộc
về
hai
hạng
kinh
nghiệm
khác
nhau:
hỉ
thuộc
về
hành
(sankhara)
và
lạc
thuộc
thọ
(vedana).
Một
mặt,
‘hỉ’
là
sự
tham
dự
tích
cực
và
nhiệt
tình;
còn
‘lạc’
là
một
cảm
giác
thoả
mãn
hay
vui
sướng.
Xin
đọc
thêm
dẫn
dụ
sau
đây
để
hiểu
thêm
sự
liên
hệ
giữa
2
từ
đó.
Giả
thử
một
người
đang
ở
trong
sa
mạc,
được
cho
biết
rằng
có
một
hồ
nước
ngọt
ở
bìa
làng
gần
đó.
Sau
khi
biết
được,
anh
liền
có
một
cảm
giác
hỉ
(piti,
interest)
và
được
thúc
đẩy
để
khuyến
khích
đi
tìm.
Khi
thực
sự
tới
được
hồ
nước
và
thỏa
mãn
cơn
khát,
anh
có
cái
lạc
(sukha,
bliss).
Chính
cái
‘hỉ,
piti’
khuyến
khích
ta
hướng
về
thức
được
tập
trung,
trong
khi
‘lạc,
sukha’
là
kinh
nghiệm
thực
sự
của
hạnh
phúc
tinh
thần
do
kết
quả
từ
thức
tập
trung. Tịnh
(hay
Nhất
điểm
tụ,
ekaggata)
là
sự
tập
hợp,
không
tản
mạn
của
tâm,
tập
trung
cái
tâm
không
dao
động
với
đề
tài
thiền
quán.
Nó
giống
như
ngọn
lửa
của
cây
đèn
không
bị
dao
động
trong
một
căn
phòng
không
có
gió
lùa. Khi
tất
cả
5
pháp
định
có
mặt,
ta
đắc
được
thức
định
đầu
tiên
của
sắc
giới
(sơ
thiền).
Khi
các
pháp
định
bị
loại
bỏ
từng
phần
một,
chúng
ta
tiến
đến
bực
thứ
năm
của
sắc
giới.
Nói
một
cách
khác,
khi
ta
loại
được
‘tìm,
vitakka’,
ta
có
nhị
thiền
của
sắc
giới;
khi
‘xét,
vichara’
được
bỏ
đi,
ta
có
tam
thiền
của
sắc
giới;
khi
‘hỉ,
piti’
được
loại
đi,
ta
có
tứ
thiền
của
sắc
giới;
và
khi
‘lạc,
sukha’
biến
đi,
ta
có
ngũ
thiền
của
sắc
giới. Có
năm
loại
thức
chủ
động
gây
nghiệp
quả,
tức
là
các
loại
thức
thiện.
Ngoài
ra,
có
5
loại
thức
gây
kết
quả
và
5
loại
thức
thực
dụng
không
gây
kết
quả.
Năm
cái
đầu
là
hoạt
động
do
nghiệp
lực
hiện
có
trong
đời
này.
Năm
cái
thứ
hai
là
kết
quả
của
5
cái
đầu:
đây
là
đầu
mối
của
định
thuộc
cõi
sắc
gây
kết
quả
tái
sinh
vào
cõi
sắc.
Năm
cái
thứ
ba
là
5
định
thức
thuộc
sắc
giới
được
thực
hành
bởi
những
vị
đã
được
giải
thoát
(A
la
hán),
những
người
đã
phá
vỡ
được
các
sự
ràng
buộc
của
hành
động
và
phản
hành
động;
vì
thế
các
định
thuộc
sắc
giới
được
xem
như
không
gây
quả
khi
phải
thực
hành
chúng.
Nói
tóm,
có
15
loại
định
sắc
giới:
5
thiện
lành
-
hành
động;
và
vì
hành
động
nên
gây
5
quả;
5
không
gây
quả. Trang
303.
Khi
đã
đạt
được
định
thứ
năm
của
sắc
giới
mà
ta
vẫn
không
thấy
bằng
lòng
với
sự
hữu
hạn
của
nó
thì
ta
tiến
lên
thiền
định
vô
sắc
giới,
cũng
bằng
phương
tiện
của
một
đối
vật
thiền
định,
thông
thường
đó
là
một
trong
mười
trợ
lực
(kasina).
Người
ta
hoàn
thành
sự
chuyển
tiếp
này
bằng
cách
nới
rộng
trợ
lực
cho
đến
khi
nó
bao
trùm
cái
vô
biên
của
không
gian
(vô
biên
xứ),
kế
đến
từ
bỏ
cái
trợ
lực
đó
và
thiền
quán
về
cái
vô
biên
đó,
nhờ
vậy
hoàn
thành
định
đầu
tiên
của
các
định
thức
của
vô
sắc
giới. Khi
hoàn
thành
được
rồi,
ta
tiến
lên
định
thức
thứ
hai
của
vô
sắc
giới,
tức
thức
vô
biên
xứ.
Nghĩa
là
thay
vì
chú
tâm
vào
đối
tượng
của
định
(tức
không
vô
biên
xứ),
ta
chú
tâm
vào
chủ
thể
(tức
thức
vô
biên
xứ). Ðịnh
thứ
ba
của
vô
sắc
giới
trụ
vào
sự
không
hiện
hữu
của
thức
vô
biên
xứ
trước
đó.
Nói
một
cách
khác,
cái
định
thứ
ba
của
vô
sắc
giới
là
không
trụ
vào
đâu
cả
(tức
vô
sở
hữu
xứ). Cuối
cùng,
cái
định
thứ
tư
của
vô
sắc
giới
là
không
trụ
vào
cỏi
tưởng
cũng
như
cỏi
không
tưởng,
một
điều
kiện
mà
thức
này
rất
tinh
tế
đến
độ
nó
không
thể
được
mô
tả
là
hiện
hữu
hay
không
hiện
hữu. Cũng
như
với
các
định
trong
sắc
giới,
ta
có
3
bộ
thức
vô
sắc
giới
(nhưng
với
4
thay
vì
5
loại
cho
mỗi
bộ).
Bốn
loại
thức
vô
sắc
giới
thuộc
về
loại
thiện
lành-hành
động;
bốn
thuộc
loại
kết
quả-phản
ứng,
có
nghĩa
là
tái
sinh
trong
cỏi
vô
sắc;
và
4
thuộc
loại
bất
động
hay
thực
dụng,
các
định
vô
sắc
giới
được
thực
hành
bởi
các
vị
A
la
hán.
Tóm
lại,
có
12
loại
thức
vô
sắc
giới:
4
thiện
lành-chủ
động,
4
gây
kết
quả
và
4
bất
động. Trang
304.
Nếu
xét
đến
tiến
trình
các
định
của
vô
sắc
giới,
ta
thấy
một
sự
thống
nhất
dần
dần
và
tinh
vi
của
thức:
cái
định
vô
biên
xứ
của
đối
tượng
tức
‘không
vô
biên
xứ
định’,
rồi
đến
cái
định
vô
biên
xứ
của
chủ
thể
tức
‘thức
vô
biên
xứ
định’,
theo
sau
là
cái
định
trong
tánh
không
tức
‘vô
sở
hữu
xứ
định’,
và
cuối
cùng
cái
định
không
ở
trong
tưởng
cũng
không
ở
trong
không
tưởng
tức
‘phi
tưởng
phi
phi
tưởng
xứ
định’.
Bạn
hẳn
nhớ
rằng,
khi
ta
nói
về
thức
và
đối
tượng
trong
cõi
dục
giới,
tức
loại
kinh
nghiệm
nhỏ
nhất,
thức
và
đối
tượng
của
nó
vỡ
ra
thành
nhiều
pháp
định.
Trong
khi
tiến
qua
sắc
giới
và
vô
sắc
giới,
dần
dần
ta
có
sự
thống
nhất
về
chủ
thể
và
sự
thống
nhất
về
đối
tượng,
để
khi
đạt
đến
cái
định
thứ
tư
vô
sắc
giới
(tức
phi
tưởng
phi
phi
tưởng
xứ
định),
ta
đã
đạt
đến
cực
điểm
của
kinh
nghiệm
thế
gian. Ðiều
đáng
quan
tâm
là
các
định
thuộc
sắc
giới
và
vô
sắc
giới
đã
được
biết
đến
bởi
các
nhà
tu
phái
Du
già
trước
thời
đức
Phật
và
được
thực
hành
bởi
các
hành
giả
thời
đức
Phật.
Ta
có
lý
do
để
tin
rằng
2
vị
thầy
mà
Ðức
Phật
theo
học
trước
khi
giác
ngộ
là
những
hành
giả
của
các
lối
thiền
định
này.
Các
thức
định
vô
sắc
giới
là
mức
độ
cao
nhất
của
sự
phát
triển
tâm
linh
mà
con
người
muốn
đạt
được
trước
thời
đức
Phật,
vào
đêm
giác
ngộ
của
ông,
chứng
tỏ
rằng
định
phải
phối
hợp
với
huệ
để
trở
thành
thực
sự
siêu
thế
gian. Ðây
là
lý
do
tại
sao
người
ta
nói
rằng,
dù
ta
hoàn
thành
mức
phát
triển
cao
nhất
trong
thiền
định
và
được
tái
sinh
vào
đỉnh
cao
nhất
của
vô
sắc
giới,
nhưng
khi
sức
mạnh
của
thức
thiền
định
đó
yếu
đi
(vì
tính
vô
thường
của
nó),
ta
lại
sẽ
được
tái
sinh
xuống
cõi
thấp
hơn.
Vì
lý
do
này,
ta
cần
phải
tiến
lên
nữa
đến
mức
độ
phát
triển
tinh
vi
và
cao
cấp
của
thức
thiền
định.
Cần
phải
song
hành
các
loại
thiền
định
với
trí
huệ
thì
ta
mới
có
thể
vượt
lên
trên
các
loại
thức
thế
gian
để
đến
với
các
loại
thức
siêu
thế
gian
(siêu
thức).
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002