Việc
nghiên
cứu
Phật
giáo
thường
bắt
đầu
với
cuộc
đời
của
vị
sáng
lập
đức
tin
có
tính
cách
lịch
sử
này,
nhưng
tôi
xin
khảo
sát
tình
trạng
phổ
biến
ở
Ấn
độ
trước
khi
đức
Phật
ra
đời.
Tôi
tin
việc
khảo
sát
như
vậy
rất
có
ích
vì
với
bối
cảnh
lịch
sử
và
văn
hóa
rộng
rãi,
nó
sẽ
giúp
ta
hiểu
hơn
về
cuộc
đời
và
sự
lời
dạy
của
ngài.
Ngoài
ra,
nó
giúp
chúng
ta
hiểu
cặn
kẻ
hơn
bản
chất
Phật
giáo
nói
riêng
và
có
thể
cả
bản
chất
triết
học
và
tôn
giáo
Ấn
độ
nói
chung. Tôi
xin
bắt
đầu
xét
đến
nguồn
gốc,
sự
phát
triển
triết
học
và
tôn
giáo
Ấn
độ
về
mặt
địa
lý.
Miền
bắc
của
tiểu
lục
địa
Ấn
độ
có
2
con
sông
lớn
là
sông
Hằng
và
Yamuna.
Chúng
đều
phát
nguyên
từ
Hi
mã
lạp
sơn
và
hai
dòng
sông
chảy
hoàn
toàn
riêng
biệt
trong
hầu
hết
chiều
dài
của
chúng.
Dần
dần
chúng
chảy
gần
nhau
hơn
và
sau
đó
hợp
lại
trong
các
cánh
đồng
của
miền
bắc
Ấn
độ,
gần
thành
phố
hiện
nay
là
Allahabad.
Từ
ngã
ba
sông
này,
chúng
tiếp
tục
chảy
chung
nhau
cho
đến
khi
cùng
đỗ
vào
vịnh
Bengal. Khu
vực
địa
lý
của
2
con
sông
lớn
này
là
một
thí
dụ
tiêu
biểu
cho
nguồn
gốc
và
sự
phát
triển
của
triết
học
và
tôn
giáo
Ấn
độ.
Trong
văn
hóa
và
địa
lý
Ấn
độ,
có
hai
luồng
đại
tư
tưởng
khởi
đầu
hoàn
toàn
khác
nhau
và
riêng
biệt
về
đặc
điểm.
Trong
nhiều
thế
kỷ
dòng
nước
chảy
của
hai
con
sông
vẫn
giữ
khoảng
cách
riêng
biệt.
Sau
đó
chúng
chảy
gần
nhau
rồi
hợp
lại
làm
một
và
tiếp
tục
chảy
chung
gần
như
không
phân
biệt
được
nhau
cho
đến
ngày
nay.
Trong
khi
tiến
hành
cuộc
khảo
sát
văn
hóa
tiền
Phật
giáo
Ấn
độ,
chúng
ta
có
thể
nhớ
lại
hình
ảnh
của
2
con
sông
phát
nguyên
riêng
rẽ,
rồi
hợp
lại
tại
một
điểm
và
tiếp
tục
cùng
nhau
chảy
ra
biển. Trang
14.
Khi
xét
đến
lịch
sử
cổ
đại
Ấn
độ,
chúng
ta
nhận
thấy
trong
thiên
niên
kỷ
thứ
ba
trước
Thiên
chúa,
tức
cách
đây
gần
5000
năm,
đã
có
một
nền
văn
minh
phát
triển
rất
cao
trên
tiểu
lục
địa
này.
Nền
văn
minh
này
cổ
xưa
như
những
nền
văn
minh
được
gọi
là
cái
nôi
của
văn
hóa
nhân
loại,
chẳng
hạn
như
của
Ai
cập
và
Babylon.
Thời
kỳ
thịnh
vượng
của
nó
kéo
dài
khoảng
1000
năm
(từ
năm
4800
Ttc
đến
3800
Ttc).
Ðó
là
nền
văn
minh
thung
lũng
Indus
(vmtlAd)
hay
văn
minh
Harappan.
Nó
chạy
dài
từ
miền
tây
Pakistan,
phía
nam
đến
tỉnh
Bombay
ngày
nay,
phía
đông
là
địa
điểm
Shimla,
trong
chân
núi
của
rặng
Hi
mã
lạp
sơn. Nhìn
vào
bản
đồ
Á
châu,
bạn
sẽ
lập
tức
nhận
ra
khu
vực
địa
lý
vmtlAd
thật
mênh
mông.
Nền
văn
minh
này
không
những
đã
ổn
định
trong
suốt
một
ngàn
năm
mà
nó
còn
rất
tiến
bộ
cả
hai
mặt
vật
chất
và
tinh
thần.
Về
vật
chất,
nền
vmtlAd
chuyên
về
nông
nghiệp
và
thể
hiện
được
một
trình
độ
cao
cấp
về
khả
năng
dẫn
thủy
nhập
điền
và
thiết
kế
đô
thị.
Có
bằng
chứng
là
dân
chúng
của
nền
văn
minh
này
đã
phát
triển
một
hệ
thống
toán
học
dựa
trên
biểu
mẫu
nhị
phân--cùng
một
biểu
mẫu
trong
điện
toán
hiện
đại.
VmtlAd
là
văn
minh
có
văn
hoá.
Nó
đã
phát
minh
được
một
hệ
chữ
viết
mà
phần
lớn
cho
đến
ngày
hôm
nay
vẫn
chưa
được
giải
đoán.
(Ý
nghĩa
của
hệ
chữ
vmtlAd
là
một
trong
những
bí
mật
lớn
mà
môn
khảo
cổ
ngôn
ngữ
học
ngày
nay
chưa
giải
quyết
được.)
Cũng
có
bằng
chứng
rõ
rệt
là
nền
văn
minh
này
đã
phát
triển
được
một
trình
độ
tâm
linh
rất
cao.
Các
cuộc
khám
phá
về
khảo
cổ
học
tại
hai
địa
điểm
chánh
Mohenjo-daro
và
Harappa
chứng
minh
cho
điều
này. Thời
kỳ
tươi
sáng
của
nền
văn
minh
này
bị
gián
đoạn
bất
ngờ
khoảng
giữa
1800
Ttc
và
1500
Ttc
(cách
đây
-3800
đến
-3500
năm--chính
xác
hơn
là
cách
đây
khoảng
3750
năm,
theo
Pháp
An,
Nguyệt
san
Giác
Ngộ
số
43
tháng
10-1999)
do
thiên
tai
hay
bị
xâm
lăng.
Ðiều
chắc
chắn
là
sau
đó
tiểu
lục
địa
này
đã
bị
xâm
lăng
từ
phía
tây
bắc
bởi
giống
người
xâm
lược
Ðông
Âu
Aryans
Hồi
giáo,
và
cũng
chính
họ
đã
xâm
lăng
tiếp
trong
những
thế
kỷ
sau
này.
Họ
là
một
sắc
tộc
ở
Ðông
Âu,
trong
vùng
đồng
cỏ
bằng
phẳng
của
nước
Ba
lan
và
Ukraine
ngày
nay.
Giống
Ðông
Âu
Aryans
rất
khác
với
người
thời
vmtlAd.
Người
Indus
chuyên
về
nông
nghiệp
và
sống
tĩnh
tại,
còn
giống
Aryans
sống
đời
du
mục
và
chăn
nuôi.
Họ
không
quen
với
đời
sống
thành
thị.
Họ
là
một
dân
tộc
thích
chiến
tranh
và
bành
trướng,
sống
nhờ
phần
lớn
vào
chiến
lợi
phẩm
chiếm
được
trong
tiến
trình
di
dân
và
chinh
phục
các
dân
tộc
khác.
Khi
giống
Aryans
đến
Ấn
độ,
họ
mau
chóng
trở
thành
một
nền
văn
minh
nổi
bật
nhất.
Như
vậy,
cách
đây
khoảng
3500
năm,
xã
hội
Ấn
độ
đã
bị
ảnh
hưởng
rất
mạnh
bởi
các
giá
trị
Aryans
rồi
(Theo
Pháp
An,
Nguyệt
san
Giác
Ngộ
số
43,
‘‘cách
đây
3500
năm,
những
khu
vực
chính
đã
bị
hủy
diệt
mặc
dù
vùng
lãnh
thổ
có
nền
văn
hoá
cao
có
thể
vẫn
còn
tồn
tại
dưới
thời
điểm
đó’’). Trang
15.
Trọng
tâm
của
chúng
ta
là
xét
đến
quan
điểm
tôn
giáo
của
con
người
trong
hai
nền
văn
minh
nói
trên.
Như
tôi
đã
nói,
nền
vmtlId
đã
có
một
ngôn
ngữ
viết
mà
cho
đến
ngày
hôm
nay
chúng
ta
không
thể
giải
đoán.
Những
điều
chúng
ta
biết
về
nền
văn
minh
này
được
rút
ra
từ
hai
nguồn
gốc
đáng
tin
cậy:
các
khám
phá
khảo
cổ
học
tại
Mohenjo-daro
và
Harappa
và
hồ
sơ
ghi
lại
bằng
chữ
viết
của
người
Ðông
Âu
Aryans,
những
người
đã
mô
tả
các
hoạt
động
và
niềm
tin
tôn
giáo
của
dân
tộc
họ
thống
trị. Các
cuộc
khai
quật
đã
cho
biết
một
số
các
dấu
hiệu
quan
trọng
đối
với
con
người
vmtlAd.
Các
dấu
hiệu
này
có
ý
nghĩa
tôn
giáo
và
cũng
linh
liêng
đối
với
Phật
giáo.
Chúng
bao
gồm
cây
bồ
đề
(piple)
(sau
này
được
biết
là
cây
bodhi)
và
những
thú
vật
như
voi
và
nai.
Hình
tượng
có
ý
nghĩa
nhất
là
một
hình
người
ngồi
trong
tư
thế
hoa
sen,
tay
để
trên
đầu
gối
và
mắt
nhắm
hờ
lại
gợi
ý
một
cách
rõ
ràng
thế
ngồi
của
thiền
định.
Với
những
khám
phá
khảo
cổ
này
và
các
bằng
chứng
khác,
các
học
giã
nổi
tiếng
đã
kết
luận
rằng
nguồn
gốc
của
những
việc
tập
luyện
du
già
và
thiền
na
có
thể
được
truy
nguyên
từ
nền
vmtlAd.
Hơn
thế
nữa,
khi
nghiên
cứu
các
sự
mô
tả
về
hình
thức
tu
luyện
tôn
giáo
của
con
người
vmtlAd
được
tìm
thấy
trong
kinh
Vệ
đà,
tài
liệu
ghi
chép
trong
thời
kỳ
tiền
Aryans,
chúng
ta
thấy
hình
ảnh
của
người
tu
khổ
hạnh
lang
thang
luôn
được
nhắc
đến.
Những
người
tu
khổ
hạnh
này
đã
tập
luyện
các
phương
pháp
về
huấn
luyện
tâm
não,
độc
thân,
mặc
những
đồ
tồi
tàn
nhất,
không
có
chỗ
ở
nhất
định
và
chỉ
dẫn
cách
vượt
ngoài
phạm
vi
sanh
tử. Trang
16.
Tổng
hợp
các
bằng
chứng
khảo
cổ
và
khám
phá
trên,
ta
có
được
một
hình
ảnh
nổi
bật
của
các
quan
điểm
tôn
giáo
và
việc
tu
tập
của
con
người
trong
nền
vmtlAd.
Hình
ảnh
ấy
tuy
sơ
sài
nhưng
đầy
đủ
và
cần
thiết.
Tôn
giáo
của
nền
văn
minh
này
rõ
ràng
là
đã
chứa
đựng
một
số
yếu
tố
quan
trọng.
Trước
nhất
là
thiền
na
hay
sự
tập
luyện
trí
não
rõ
ràng
đã
có
mặt.
Thứ
hai,
sự
thực
tập
tính
từ
bỏ
cuộc
sống
cố
định,
để
sống
một
cuộc
đời
khổ
hạnh
không
nhà
cửa,
hành
khất,
cũng
đã
phổ
biến.
Thứ
ba,
đã
có
ý
niệm
về
sự
tái
sanh
hay
hóa
thân
trong
tiến
trình
vô
lượng
kiếp
của
một
người.
Thứ
tư,
một
tinh
thần
trách
nhiệm
đạo
đức
ngoài
cuộc
đời
hiện
sống--tức
ý
niệm
nghiệp
báo.
Sau
cùng
là
mục
tiêu
về
cuộc
sống
có
đức
tin--nghĩa
là
mục
tiêu
về
giải
thoát,
về
tình
trạng
không
còn
chịu
ảnh
hưởng
chu
kỳ
bất
tận
của
sanh
tử.
Ðây
là
những
đặc
điểm
nổi
bật
nhất
của
cái
tôn
giáo
trong
nền
văn
minh
tối
cổ
của
Ấn
độ. Cuối
trang
16.
Xét
đến
tôn
giáo
của
người
Aryans,
ta
nhận
thấy
nó
tương
phản
hẳn
với
tôn
giáo
của
nền
văn
minh
trước
đó.
Thật
vậy,
quả
là
khó
khăn
khi
muốn
thấy
được
sự
khác
biệt
một
cách
triệt
để
hai
nền
văn
hóa
của
hai
tôn
giáo.
Việc
dựng
lên
một
bức
tranh
toàn
diện
về
các
quan
điểm
và
sự
tu
tập
lòng
tin
tôn
giáo
của
người
Aryan
giản
dị
hơn
nhiều
so
với
người
Thung
lũng
sông
Ấn.
Khi
người
Aryans
đến
Ấn
độ,
họ
mang
theo
một
tôn
giáo
hoàn
toàn
thế
tục
trong
bản
chất.
Như
tôi
đã
nói,
họ
là
một
xã
hội
bành
trướng,
mở
đường.
Các
điểm
xuất
phát
của
họ
nằm
trong
vùng
Ðông
Âu
và
tôn
giáo
của
họ
giống
với
tôn
giáo
của
người
Hy
lạp
cổ
hơn.
Nếu
xét
đến
sự
mô
tả
các
vị
thần
đã
hình
thành
đền
bách
thần
Hy
lạp,
bạn
sẽ
không
thể
nào
không
chú
ý
đến
những
sự
tương
tự
nổi
bật
giữa
hai
nền
văn
minh
đó.
Người
Aryans
sùng
kính
một
số
thần
thánh
được
nhân
cách
hóa
qua
các
hiện
tượng
thiên
nhiên,
như
Indra,
thần
sấm
và
chớp;
Agni,
thần
lửa,
và
Varuna,
thần
nước. Trang
17.
Trong
tôn
giáo
của
nền
văn
minh
thung
lũng
sông
Ấn,
người
tu
khổ
hạnh
là
một
hình
ảnh
hành
đạo
nổi
bật
nhất,
trên
tất
cả
những
cái
khác;
trong
tôn
giáo
Aryan,
vị
tu
sĩ
là
người
quan
trọng
hơn
cả.
Trong
khi
tôn
giáo
của
nền
văn
minh
trước,
xem
sự
dũng
cảm
từ
bỏ
đời
sống
gia
đình
là
điều
tối
cao;
người
cận
cổ
Aryans
lại
xem
tình
trạng
xứng
đáng
nhất
là
người
có
gia
đình,
hay
chủ
nhà.
Trong
khi
nền
văn
minh
sông
Ấn
không
đề
cao
giá
trị
con
cháu,
thì
người
Aryans
coi
con
cháu,
đặc
biệt
con
trai,
là
ưu
tiên
cao
nhất.
Tôn
giáo
của
nền
văn
minh
trước
nhấn
mạnh
về
sự
tập
luyện
thiền
định,
thì
niềm
tin
người
Aryans
đặt
vào
sự
thực
hành
hy
sinh.
Ðiều
này
được
xem
là
phương
tiện
chính
yếu
để
liên
lạc
với
thần
thánh,
bảo
đảm
sự
chiến
thắng
trong
chiến
tranh,
kiếm
được
con
trai
và
sự
giàu
sang
và
cuối
cùng
lên
thiên
đàng.
Trong
khi
tôn
giáo
Indus
bao
gồm
các
ý
niệm
tái
sanh
và
nghiệp
quả,
người
Aryans
không
có
những
ý
niệm
đó.
Với
người
Aryans,
quan
niệm
trách
nhiệm
đạo
đức
ngoài
cuộc
đời
hiện
sống
có
vẻ
không
được
biết
đến.
Ðối
với
họ,
giá
trị
xã
hội
cao
nhất
là
trung
thành
với
nhóm,
một
đức
tính
cần
có
cho
sự
đóng
góp
quyền
lực
và
sự
liên
kết
các
bộ
lạc
với
nhau.
Sau
cùng,
mục
tiêu
tối
hậu
của
cuộc
sống
tôn
giáo
cho
con
người
của
nền
vmtlAd
là
giải
thoát,
một
tình
trạng
vượt
lên
trên
sanh
tử,
trong
khi
đối
với
người
Aryans,
mục
tiêu
chỉ
là
lên
thiên
đàng,
một
thiên
đàng
trông
rất
giống
một
bản
sao
toàn
hảo
của
thế
giới
hiện
nay. NÓi
tÓm
lẠi,
trong
khi
tÔn
giÁo
cỦa
nỀn
vmtlAd
ÐỀ
cao
sỰ
DŨng
cẢm,
thiỀn
ÐỊnh,
tÁi
sanh,
nghiỆp
BÁo,
vÀ
sau
cÙng
lÀ
mỤc
tiÊu
giẢi
thoÁt
,
thÌ
tÔn
giÁo
Aryan
nhẤn
mẠnh
vỀ
cuỘc
ÐỜi
hiỆn
tẠi,
sỰ
hy
sinh
cho
cÁc
nghi
thỨc
tÔn
giÁo,
trung
thÀnh,
giÀu
sang,
con
chÁu,
quyỀn
lỰc
vÀ
thiÊn
ÐÀng.
Vì
thế,
rõ
ràng
là
các
tổng
hợp
về
quan
điểm
tôn
giáo,
sự
tu
luyện
và
các
giá
trị
được
bày
ra
bởi
hai
nền
văn
minh
cổ
đại
này
ở
Ấn
độ
hầu
như
là
hoàn
toàn
đối
chọi
với
nhau.
Vậy
mà,
trong
suốt
nhiều
thế
kỷ
sống
chung,
hai
nguồn
tín
ngưỡng
đó
đã
giải
quyết
thành
công
trong
việc
hợp
lại
làm
một
và
trở
nên
không
phân
biệt
được
nhau
trong
nhiều
trường
hợp. Trang
18.
Trước
khi
kết
luận
bài
nói
về
các
đặc
điểm
của
hai
tôn
giáo
Thung
lũng
sông
Ấn
và
Aryan
đầu
tiên,
điều
nên
chú
ý
là
tình
trạng
phát
triển
tôn
giáo
của
người
Aryans
đã
được
bổ
túc
thêm
hai
yếu
tố
xa
lạ
so
với
tôn
giáo
của
người
Thung
lũng
sông
Ấn.
Hai
yếu
tố
đó
là
chế
độ
đẳng
cấp
(tức
là
sự
phân
chia
xã
hội
thành
nhiều
tầng
lớp
khác
nhau)
và
lòng
tin
vào
quyền
thế
và
mặc
khải
(tính
không
thể
sai
lầm
của
sự
phát
hiện
chân
lý),
trường
hợp
sau
này
có
trong
kinh
Vệ
đà.
Tình
trạng
phát
triển
tôn
giáo
của
nền
vmtlAd
đã
không
chấp
nhận
các
khái
niệm
này,
và
chúng
vẫn
là
những
điểm
tranh
cãi
liên
miên
phân
rẻ
hai
tín
ngưỡng
chính
này
của
Ấn
độ. Lịch
sử
của
tôn
giáo
Ấn
độ
trong
khoảng
1000
năm
từ
1500
Ttc
đến
thế
kỷ
thứ
VI
Ttc
(tức
thời
đức
Phật)
là
lịch
sử
của
sự
tương
tác
giữa
hai
tín
ngưỡng
đối
nghịch
với
nhau.
Trong
khi
di
chuyển
về
phía
đông
và
nam,
định
cư
và
bành
trướng
ảnh
hưởng
qua
khắp
tiểu
lục
địa
Ấn
độ,
người
Aryans
sống
một
cuộc
đời
tĩnh
tại
hơn.
Dần
dần,
hai
nền
văn
hoá
bắt
đầu
tương
tác,
ảnh
hưởng
và
thậm
chí
hợp
nhất
lại
với
nhau.
Ðây
đúng
là
cái
hiện
tượng
mà
tôi
đã
nói
đến
về
hai
con
sông
lớn
của
Ấn
độ,
sông
Hằng
và
sông
Yamuna. Trang
19.
Vào
thời
đức
Phật,
một
loại
đời
sống
khác
biệt
phát
triển
mạnh
mẻ
và
năng
động
trong
xứ
Ấn
độ.
Nhìn
bề
ngoài
một
vài
sự
kiện
nổi
bật
về
cuộc
đời
của
đức
Phật
cũng
thấy
rõ
như
vậy.
Chẳng
hạn,
sau
ngày
ra
đời,
hai
loại
người
khác
biệt
đã
tiên
đoán
về
tương
lai
cao
thượng
của
ông.
Lời
tiên
đoán
đầu
tiên
do
Asita,
một
ẩn
sĩ
tu
khổ
hạnh
trong
rừng
núi.
Các
tiểu
sử
về
đức
Phật
đều
cho
biết
Asita
là
một
người
Bà
la
môn,
một
thành
phần
của
đẳng
cấp
giáo
sĩ
xã
hội
Aryan.
Rõ
ràng
đây
là
bằng
chứng
của
sự
tương
tác
hai
dòng
tín
ngưỡng
tôn
giáo
cổ
đại.
Kết
quả
của
sự
tương
tác
đó
là
vào
khoảng
thế
kỷ
thứ
VI
Ttc,
thời
đức
Phật
đản
sanh,
ngay
cả
người
Bà
la
môn
cũng
đã
bắt
đầu
từ
bỏ
cuộc
sống
gia
đình
và
chọn
một
cuộc
sống
khổ
hạnh
không
nhà
cửa,
một
điều
không
được
nghe
nói
đến
cả
ngàn
năm
trước
đó.
Chúng
ta
được
biết
sau
đó
108
người
Bà
la
môn
đã
được
mời
dự
lễ
đặt
tên
cho
chú
Phật
trẻ.
Họ
cũng
tiên
đoán
tương
lai
cao
thượng
của
đứa
trẻ.
Rõ
ràng
họ
là
giáo
sĩ
Bà
la
môn,
những
người
đã
không
từ
bỏ
cuộc
sống
gia
đình
và
vì
thế
làm
lễ
với
nghi
thức
chính
thống
và
nguyên
thủy
được
chấp
thuận
trong
nhóm
người
Ðông
Âu
Aryans. Làm
thế
nào
mà
hai
dòng
tín
ngưỡng
đầu
tiên
khác
nhau
lại
có
khả
năng
hợp
nhất
lại?
Tôi
nghĩ
có
thể
tìm
ra
câu
trả
lời
trong
những
lần
thay
đổi
mạnh
mẽ
trong
đời
sống
của
người
dân
Ấn
độ
giữa
thiên
niên
kỷ
thứ
hai
và
thời
kỳ
của
đức
Phật.
Sự
bành
trướng
Aryan
chấm
dứt
khi
người
Aryans
đã
tỏa
khắp
đồng
bằng
Ấn
độ.
Sự
chấm
dứt
việc
bành
trướng
này
đem
lại
nhiều
thay
đổi
về
xã
hội,
kinh
tế
và
chánh
trị.
Trước
hết,
lối
sống
bộ
lạc,
du
cư,
chăn
nuôi
của
những
người
Aryans
đầu
tiên
dần
dần
thay
đổi
thành
lối
sống
tĩnh
tại,
trồng
trọt
nhiều
hơn
và
sau
cùng
là
lối
sống
thành
thị.
Phần
lớn
dân
cư
sống
trong
những
đô
thị
đó
được
tránh
khỏi
một
phần
nào
những
thiên
tai
mà
trước
đó
đã
được
nhân
cách
hóa
bằng
các
thần
thánh
của
người
Aryans
đầu
tiên. Trang
20.
Thứ
hai,
nền
thương
mại
bắt
đầu
quan
trọng
hơn.
Trong
khi
trước
đó
các
tu
sĩ
và
chiến
binh
là
những
nhân
vật
nổi
bật
nhất
trong
xã
hội
đầu
tiên
Ðông
Âu
Aryan--tu
sĩ
vì
họ
liên
lạc
được
với
thần
thánh,
chiến
binh
vì
họ
tiến
hành
chiến
tranh
chống
lại
quân
thù
của
bộ
lạc
và
đem
về
các
chiến
lợi
phẩm--bây
giờ
thương
nhân
là
lớp
đang
vươn
lên.
Trong
thời
của
đức
Phật,
khuynh
hướng
này
hiển
hiện
rõ
trong
những
tín
đồ
nổi
tiếng
thuộc
giai
cấp
thương
buôn--Cấp
Cô
Ðộc
(Anathapindika)
là
một
thí
dụ. Sau
cùng,
tổ
chức
xã
hội
theo
dòng
dõi
bộ
tộc
dần
dần
trở
nên
lỗi
thời,
và
tình
trạng
lãnh
thổ
bắt
đầu
thành
hình.
Không
còn
các
bộ
lạc
trong
đó
có
những
bộ
phận
trung
thành
cá
nhân
thân
cận
nữa.
Nó
được
thay
thế
bởi
lãnh
thổ
quốc
gia
trong
đó
nhiều
giống
dân
của
các
bộ
lạc
khác
nhau
hợp
lại
chung
sống.
Vương
quốc
Ma
kiệt
đà
(Magadha),
với
vua
Bambisara,
người
bảo
trợ
và
tín
đồ
nổi
tiếng
của
đức
Phật
là
một
trong
những
thí
dụ
của
các
quốc
gia
đang
lên. Trang
20.
Các
thay
đổi
về
xã
hội,
kinh
tế
và
chính
trị
đã
giúp
người
Ðông
Âu
Aryan
càng
ngày
càng
sẵn
sàng
chấp
nhận
và
sử
dụng
những
tư
tưởng
tôn
giáo
của
nền
vmtlAd.
Mặc
dầu
họ
đã
thống
trị
thực
sự
nền
văn
minh
bản
địa
có
trước
mình,
một
ngàn
năm
hay
hai
ngàn
năm
sau
đó
đã
chứng
kiến
việc
họ
càng
ngày
càng
chịu
ảnh
hưởng
các
quan
điểm,
các
lối
tu
luyện
và
những
giá
trị
tôn
giáo
của
nền
vmtlAd.
Do
vậy,
khoảng
từ
đầu
thời
đại
chung,
sự
phân
biệt
về
truyền
thống
giữa
Ðông
Âu
và
nền
vmtlAd
càng
lúc
càng
khó
tìm
thấy
dấu
vết.
Thật
vậy,
cái
thực
tế
này
có
trách
nhiệm
đối
với
ý
niệm
sai
lầm
cho
rằng
Phật
giáo
là
hình
thức
đối
nghịch
lại,
hoặc
là
một
chi
của
Ấn
độ
giáo. Phật
giáo
tìm
được
sự
cảm
hứng
cho
mình
từ
sự
phát
triển
tinh
thần
tôn
giáo
của
nền
vmtlAd.
Các
yếu
tố
dũng
cảm
xả
bỏ,
thiền
quán,
tái
sanh,
nghiệp
báo
và
giải
thoát
là
những
thành
phần
quan
trọng
của
tinh
thần
tôn
giáo
con
người
thung
lũng
sông
Ấn.
Chúng
cũng
quan
trọng
trong
Phật
giáo.
Chính
đức
Phật
rất
có
thể
đã
muốn
nói
như
vậy
khi
cho
rằng
con
đường
ông
giáo
huấn
là
một
con
đường
cổ
xưa
và
rằng
mục
tiêu
mà
ông
hướng
tới
là
một
mục
tiêu
cổ
xưa.
Phật
giáo
duy
trì
truyền
thống
thờ
sáu
vị
Phật
tiền
sử,
những
vị
này
được
tin
rằng
đã
có
ảnh
hưởng
lớn
trước
Phật
Thích
Ca
Mâu
Ni.
Tôi
tin
tất
cả
điều
này
cho
thấy
một
sự
liên
tục
chắc
chắn
giữa
sự
phát
triển
tinh
thần
tôn
giáo
và
tín
ngưỡng
của
nền
vmtlAd
và
những
lời
giáo
huấn
của
đức
Phật. Trang
21.
Khi
xem
xét
hai
hiện
tượng
Phật
giáo
và
Ấn
độ
giáo,
chúng
ta
nhận
thấy
có
một
số
yếu
tố
ít
nhiều
chịu
ảnh
hưởng
một
trong
hai
tín
ngưỡng
lớn
của
Ấn
độ
cổ
đại.
Trong
Phật
giáo,
phần
lớn
các
yếu
tố
quan
trọng
rõ
ràng
được
thừa
hưởng
từ
tôn
giáo
của
nền
vmtlAd,
trong
khi
một
phần
nhỏ
hơn
nhiều
được
rút
ra
từ
tôn
giáo
Ðông
Âu
Aryan.
Một
điều
không
nghi
ngờ
là
Phật
giáo
với
ảnh
hưởng
của
tôn
giáo
Ðông
Âu
có
sự
hiện
diện
của
thần
thánh
trong
kinh
Vệ
đà
tuy
vậy
vai
trò
của
chúng
không
đáng
kể. Ngược
lại,
nhiều
trường
phái
Ấn
độ
giáo
giữ
lại
phần
lớn
các
yếu
tố
văn
hoá
tôn
giáo
thừa
hưởng
từ
tín
ngưỡng
Ðông
Âu
và
một
phần
nhỏ
hơn
nhiều
từ
tôn
giáo
Thung
lũng
sông
Ấn.
Nhiều
trường
phái
Ấn
độ
giáo
vẫn
coi
trọng
đẳng
cấp
xã
hội,
quyền
lực
khải
huyền
dưới
hình
thức
của
kinh
Vệ
đà
và
tính
hiệu
quả
của
sự
tu
luyện
đức
tính
hy
sinh
(cho
gia
đình).
Mặc
dù
các
yếu
tố
Aryan
hiện
diện
một
cách
rõ
ràng
trong
Ấn
độ
giáo,
các
yếu
tố
quan
trọng
của
nền
văn
minh
thung
lũng
sông
Ấn
cũng
có
một
vị
trí
trong
nó,
như
lòng
dũng
cảm
thoát
ly
gia
đình,
thiền
quán,
sanh
tử,
nghiệp
báo
và
giải
thoát.
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002
Nguồn: www.quangduc.com