Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa
(Sk: Praktimoksa; Pàli: Patimokkha).
Về ý nghĩa, lý do thành
lập Giới bổn, nội dung tổng quát của Giới bổn, và tính
chất về nền tảng của Giới bổn đã được bàn đến
ở tiết VIII (Giới học). Ở đây cũng không trình bày chi
tiết từng giới điều mà chỉ lược qua một số nét chính.
Giới bổn của
Tỷ-kheo, cho đến nay, gồm có hai trăm năm mươi giới và
chia thành bảy tụ: Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa; Bất định;
Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề; Ba-la-đề-đề-xá-ni; Chúng học và
Diệt tránh.
Về Ba-la-di, có
bốn pháp; dâm, trộm, sát sinh và nói dối. Phạm một trong
bốn giới này thì vị Tỷ-kheo đánh mất bản chất của người
Tỷ-kheo, không còn được chấp nhận ở trong hàng ngũ
Tỷ-kheo.
Về Tăng-già-bà-thi-sa,
có mười ba pháp (không liệt kê ở đây). Phạm một trong mười
ba giới này, vị Tỷ-kheo có thể làm pháp sám hối, nhưng
phải biệt trú trong một thời gian, không được sinh hoạt
chung với chúng Tăng (thời gian biệt trú kéo dài bằng
thời gian từ khi phạm cho đến khi phát lồ). Sau thời gian
biệt trú thì được cư trú chung với chúng Tăng trong sáu
ngày đêm, tỏ ra ân hận việc mình đã phạm để chúng Tăng
hoan hỷ. Sau đó phải đảnh lễ thỉnh cầu cho đủ số hai
mươi đại Tăng (thanh tịnh) để làm lễ sám hối xuất
tội.
Về pháp Bất định
có hai. Khi phạm hai pháp bất định này thì phải chờ chúng
Tăng xét xử chính xác là vị Tỷ-kheo ấy thực sự phạm
tội nào, với sự y theo lời xác nhận tội của một vị
nữ cư sĩ thành tín. Nếu là tội Tăng-già-bà-thi-sa thì
xử trị như trên, nếu là Ba-dật-đề thì sẽ xử lý theo
như phần dưới đây.
Về Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề,
có ba mươi pháp. Pháp này còn được gọi là xả đọa, có
nghĩa là nếu không xả các y bát, vật dụng thừa cho chúng
Tăng thì phạm. Sau khi phạm, phải xả xong mới sám hối.
Nếu không thực hành như thế thì có thể đọa địa
ngục.
Về Ba-dật-đề,
có chín mươi pháp. Nếu phạm thì chỉ cần sám hối trước
chúng Tăng.
Về pháp Chúng học,
có một trăm pháp. Ðây là những điều nặng về cung cách,
oai nghi của vị Tỷ-kheo. Chỉ là những khinh pháp.
Về Diệt tránh,
có bảy pháp. Ðây là bảy phương pháp để dập tắt các
vụ tranh chấp trong chúng Tăng.
Về giới bổn
Tỷ-kheo-ni, có điểm khác với Giới bổn của Tỷ-kheo.
Chẳng hạn, Ba-la-di của Tỷ-kheo chỉ có bốn, nhưng
Tỷ-kheo-ni nhiều hơn, có đến tám giới; Tăng-già-bà-thi-sa
có đến mười bảy giới; về hai loại Ba-dật-đề của
Tỷ-kheo chỉ có một trăm hai mươi giới, của Tỷ-kheo-ni có
đến hai trăm lẻ tám giới; về Ba-la-đề-đề-xá-ni của
Tỷ-kheo chỉ có bốn giới, của Tỷ-kheo-ni có đến tám
giới; riêng về Ðột-kiết-la của Tỷ-kheo có tất cả
một trăm lẻ chín giới, thì Tỷ-kheo-ni chỉ có một trăm
lẻ bảy giới (bớt hai giới bất định). Do đó Giới bổn
của Tỷ-kheo-ni lên đến ba trăm năm mươi giới.
Về giới bổn
Tỷ-kheo, Tăng Chi Bộ Kinh I, tr. 267 (bản dịch của Hòa thượng
Minh Châu, 1980) ghi rõ bản giới bổn của chư Tăng tụng đọc
mỗi nửa tháng một lần chỉ gồm có một trăm năm mươi
học giới mà không liệt kê danh sách các học giới ấy. Có
lẽ không có một trăm chúng học là những pháp được thêm
về sau. Ví dụ, điển hình pháp chúng học từ số sáu mươi
đến tám mươi lăm là đề cập liên hệ đến tháp Phật.
Lúc Phật còn tại thế thì chưa có tháp, vì thế chúng ta
biết rằng các giới ấy được thiết lập về sau.
Về Giới bổn
Tỷ-kheo-ni, trường hợp các pháp chúng học cũng tương
tự. Dựa theo kinh tạng, có thể xác định rằng ngay thời
Thế Tôn tại thế, đã thiết lập hai bản Giới bổn Tăng
và Ni khác nhau. Trong đề mục Ni giáo giới (Tăng Chi III-A,
tr. 252-253; bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, 1981),
ghi rõ: "... Ðối với vị giáo giới, hai Giới bổn Pàtimokkha
được khéo trao truyền lại một cách rộng rãi...".
Bên cạnh Giới bổn này,
Tỷ-kheo-ni còn lãnh thọ thêm "Bát kỉnh pháp", trọn
đời cung kính, tôn trọng, không được vượt qua. Nội dung
của tám điều cần tôn kính ấy là:
1. Dù cho thọ đại
giới một trăm năm, một Tỷ-kheo-ni đối với vị
Tỷ-kheo thọ giới trong một ngày, cũng phải đảnh lễ,
đứng dậy, chắp tay, xử sự đúng pháp.
2. Tỷ-kheo-ni không có
thể an cư tại chỗ không có Tỷ-kheo.
3. Nửa tháng một
lần, Tỷ-kheo-ni cần phải thỉnh chúng Tỷ-kheo đến để
thuyết giới.
4. Sau khi an cư mùa mưa
xong, Tỷ-kheo-ni cần làm lễ "Tự tứ" trước hai Tăng chúng.
5. Tỷ-kheo-ni phạm
trọng tội phải làm pháp ý hỷ cho đến nửa tháng.
6. Sau thời gian hành
các pháp Sa-di-ni hai năm, phải xin thọ cụ túc giới trước
hai Tăng chúng.
7. Không vì bất cứ
lý do gì, Tỷ-kheo-ni có thể chỉ trích một Tỷ-kheo.
8. Chỉ có sự giáo
giới phê bình giữa các Tỷ-kheo về các Tỷ-kheo-ni, mà không
có sự giáo giới phê bình giữa các Tỷ-kheo-ni về các
Tỷ-kheo (Tăng Chi III-A, tr. 250).
Thế Tôn đã giải thích
lý do tại sao Ngài ban hành "Bát kỉnh Pháp" này rằng:
"Này A-nan, ví như
một người vì nghĩ đến tương lai, xây dựng bờ đê cho
một hồ nước lớn để nước không thể chảy qua; cũng
vậy này A-nan, vì nghĩ đến tương lai, Ta mới ban hành "Bát
kỉnh pháp" này cho các Tỷ-kheo-ni cho đến trọn đời,
không được vượt qua" (Tăng Chi III-A, tr. 252).
Thế Tôn cũng đã nói
cho Tôn giả A-nan biết rằng nếu Tăng-già không có mặt Ni
chúng thì Phạm hạnh sẽ tồn tại lâu dài, diệu pháp sẽ
tồn tại đến một ngàn năm. Nhưng, nếu có Ni chúng thì
Phạm hạnh sẽ không được tồn tại lâu dài, nay diệu pháp
sẽ tồn tại năm trăm năm (Theo Tăng Chi III-A, tr. 251).
Giải thích về lý do
diệu pháp bị rút ngắn thời gian tồn tại, Thế Tôn đã ví
một gia đình có nhiều phụ nữ và ít đàn ông thì dễ
bị đạo tặc đánh trộm. Trường hợp Giáo hội Tăng-già
xuất hiện Ni chúng thì cũng như thế.
Vì các lý do đó mà
Thế Tôn ban hành "Bát kỉnh pháp", chứ không phải vì lý
do phân biệt nam, nữ, kỳ thị phái tính.
Nhưng về mặt trí
tuệ và giải thoát, thì Thế Tôn xác nhận trong Chánh pháp
do Thế Tôn giảng dạy, nữ giới xuất gia vẫn chứng đắc
bốn quả vị Sa-môn (từ Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán quả)
như chư Tăng (Tăng Chi III-A, tr. 249).
Tại đây, chúng ta
hiểu được ý nghĩa Thế Tôn thành lập Giới bổn không
ngoài những lý do đã được trình bày ở Tiết VIII. Căn
bản nhất mà nói, đấy là vì lòng từ bi thương tưởng
cuộc đời, muốn cho diệu pháp được tồn tại lâu dài.
Những điều kiện
của một vị Trì luật lý tưởng và Giáo giới lý tưởng.
Một vị Tỷ-kheo hay
Tỷ-kheo-ni là vị Trì luật lý tưởng nếu vị ấy có hội
đủ các điều kiện sau:
- "Biết vi phạm,
biết không vi phạm; biết phạm nhẹ, nặng; có giới luật,
sống chế ngự với sự chế ngự của Giới bổn; đầy đủ
oai nghi chánh hạnh, biết sợ hãi trong những lỗi nhỏ
nhặt; chấp nhận và học tập trong các học pháp; có được
dễ dàng tăng thượng pháp và hiện tại lạc trú; do đoạn
trừ lậu hoặc, tự mình ngay trong hiện tại với thắng trí
chứng đạt, chứng nhập vô lậu tâm giải thoát, tuệ
giải thoát". (Tăng Chi III-A, tr. 138).
- "... (tương tự như
trên...; thêm vào: cả hai Giới bổn được khéo truyền
lại một cách rộng rãi...)" (Sđd., tr. 138).
Một vị giáo giới đúng
nghĩa là vị Tỷ-kheo có các điều kiện sau:
"... Vị Tỷ-kheo có
giới đức, sống chế ngự với sự chế ngự của Giới
bổn, đủ oai nghi chánh hạnh... Nghe nhiều, hiểu nhiều...,
nghĩa, lý, văn cụ túc..., khéo thể nhập chánh kiến; thông
rõ hai Giới bổn; giọng nói dễ nghe; lời tao nhã; giải thích
nghĩa, lý xác minh, có khả năng thuyết giảng..., được
phần lớn các Tỷ-kheo-ni ái mộ... được hai mươi tuổi an
cư hay hơn hai mươi tuổi an cư." (Theo Tăng Chi III-A, tr.
253).
Một Chúng Tỷ-Kheo Hưng
Thịnh Và Một Chúng Tỷ-Kheo Thối Ðọa.
Một chúng Tỷ-kheo hưng
thịnh khi nào chúng Tỷ-kheo ấy thể hiện được bảy điều:
1. Chúng Tỷ-kheo thường
hay tụ họp, và tụ họp đông đảo.
2. Tụ họp trong
niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm
việc Tăng trong niệm đoàn kết.
3. Không ban hành
những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ các
luật lệ đã được ban hành, sống đúng các học giới.
4. Chúng Tỷ-kheo tôn
trọng, đảnh lễ, cúng dường các vị Tỷ-kheo Thượng
toạ.
5. Chúng Tỷ-kheo không
bị chi phối bởi các tham ái.
6. Chúng Tỷ-kheo thích
sống chỗ nhàn tịnh.
7. An trú chánh niệm
khiến các bạn đồng tu cảm mến. (Sđd., tr. 28).
Có thể có bảy điều
khác để một chúng Tỷ-kheo hưng thịnh:
1. Không ưa thích làm
thế sự, không hoan hỷ làm thế sự.
2. Không ưa thích
phiếm luận.
3. Không ưa thích
ngủ nghỉ.
4. Không ưa thích
quần tụ.
5. Không có các dục
vọng, không bị chi phối bởi các dục.
6. Không kết bạn
với các dục vọng, không thân thích với các dục.
7. Không dừng lại
nửa chừng giữa quả vị thấp kém và những quả vị thù
thắng. (Sđd., tr. 29-30)
Có thể có bảy điều
khác để một chúng Tỷ-kheo hưng thịnh:
1. Có tín tâm.
2. Có tàm.
3. Có quý.
4. Có nghe nhiều.
5. Có tinh tấn.
6. Có chánh niệm.
7. Có trí tuệ. (Sđd.,
tr. 30).
Có thể có bảy điều
khác khiến chúng Tỷ-kheo hưng thịnh:
1. Tu tập vô thường
tưởng.
2. Tu tập vô ngã tưởng.
3. Tu tập bất tịnh
tưởng.
4. Tu tập nguy hại tưởng.
5. Tu tập đoạn
diệt tưởng.
6. Tu tập tan rã tưởng.
7. Tu tập diệt tưởng.
(Sđd., tr. 31).
Một chúng Tỷ-kheo tu
tập Thất giác chi cũng sẽ đi đến hưng thịnh (Sđd., tr.
31).
Ngược lại các điều
trên thì chúng Tỷ-kheo đi đến suy tàn.
Có rất nhiều pháp
Thế Tôn dạy, nếu thực hành, chúng Tỷ-kheo sẽ cường
thịnh. Hầu như các pháp tu của Ba mươi bảy phẩm trợ đạo
và Giới bổn nếu được giữ gìn tu tập thì mỗi Tỷ-kheo
sẽ rời xa các bất thiện tâm, sẽ hoàn bị các thiện tâm
và làm cho Tăng chúng hưng thịnh. Pháp là một trong những
chỗ y chỉ vững chắc có tính truyền thống. Sau đây là
những chỗ nương tựa căn bản của chư vị Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo-ni mà Thế Tôn dạy:
"Lành thay, lành thay, này
Sàriputta! Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống
nương tựa Ðạo sư, có thể từ bỏ bất thiện, tu tập
thiện. Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa Pháp... Chúng Tăng... học pháp... Ðịnh ... Không phóng
dật... Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương
tựa, tiếp đón thân tình, có thể từ bỏ bất thiện, tu
tập thiện". (Sđd., tr. 120).
Thành Phần Chư Tăng
Và Giáo Phẩm.
Giáo Pháp của Thế Tôn
dành cho những ai muốn tu. Ðiều này được lập lại
nhiều lần trong các kinh và nói lên rằng con người ở
mọi giai cấp, trình độ, tuổi tác, đều có thể xuất gia
tu hành; không có một sự phân biệt, kỳ thị nào xảy ra
trong Giáo hội Tăng-già dưới sự lãnh đạo của Thế Tôn.
Các Hoàng thân, vua chúa
đều được chấp nhận vào hàng ngũ Tăng-già như trường
hợp bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề, vương phi Da-du-đà-la, các hoàng
thân A-nan, A-nậu-lâu-đà, Bạt-đề, Ðề-bà-đạt-đa... các
cung nữ, các quan...; như trường hợp hoàng hậu Khemà (vợ
vua Tần-bà-sa-la). Tất cả đều chứng quả vị A-la-hán.
Các thứ dân thì có
rất nhiều, điển hình là Tôn giả Ưu-ba-ly, vốn là thợ
hớt tóc của các Hoàng thân, đã đắc A-la-hán quả và đã
chủ trì Luật tạng của Giáo hội; Tôn ni Pàtacarà (người
không khố) điên cuồng vì đau khổ, sau khi đến với Thế
Tôn và Tăng chúng, đã đắc A-la-hán quả, trở thành một
vị thuyết pháp giỏi có tác dụng lớn, độ được hơn năm
trăm tôn Ni khác đắc A-la-hán.
Các kỹ nữ như Vimalà
và Ambapalì (xem Trưởng Lão Ni Kệ) đều được Thế Tôn
cho xuất gia và đều chứng đắc quả vị tối thượng.
Kẻ đã một thời làm
tướng cướp như trường hợp Tôn giả Angulimalà (Vô Não)
- hay người đeo vòng hoa kết bằng các ngón tay - cũng được
Thế Tôn tế độ và đã trở thành một A-la-hán không bao lâu
sau.
Già như Subbadha, một
tu sĩ ngoại đạo, cũng được Thế Tôn tế độ sau cùng trước
ngày Ngài thị tịch. Nhiều ngoại đạo sư khác đã được
Thế Tôn chấp nhận cho xuất gia ngay từ sau ngày ngài thành
Ðạo.
Riêng về hàng ngoại
đạo, thông lệ trước khi chính thức xuất gia phải trải
qua một thời gian bốn tháng sống biệt chúng. Tuy nhiên,
Thế Tôn linh động giải quyết theo từng trường hợp có
thể cho nhập đạo liền tại chỗ. Tất cả đều chứng đắc
Vô lậu quả.
Các vị có gia đình
rồi vẫn được chấp nhận cho xuất gia, như trường hợp
ông Visakha, bà Dhammadinna và nhiều trường hợp khác nói lên
ở Trưởng Lão Tăng Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ. Tôn giả
ấy đều chứng đắc A-la-hán.
Các trẻ em cũng được
cho vào hàng ngũ Tăng-già, như trường hợp thị giả của Tôn
giả Anurudha, thị giả của Tôn giả Xá-lợi-phất, v.v... thường
thì ít tuổi, họ là những Sa-di tập sự; nhưng không hẳn
thế, nếu các Sa-di chứng đắc A-la-hán, Thế Tôn đặc
miễn tuổi cho thọ Cụ túc giới liền, như trường hợp
thị giả của Tôn giả Xá-lợi-phất.
Tập thể Tăng-già là
một tập thể mở rộng, được thành lập và sinh hoạt trên
căn bản tinh thần bình đẳng, dân chủ và không kỳ thị màu
da, giai cấp hay phái tính. Ðây là tập thể cấp tiến
nhất và ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại.
Tại hàng ngũ Tăng-già,
tất cả được đối xử bình đẳng về mọi mặt; giới
luật, học pháp, tu tập giải thoát và các quyền lợi vật
chất (ăn, mặc, ở và thuốc men).
Về sự phân biệt
thứ tự, có tính cách biểu hiện sự hiểu biết và tôn kính
thì có hai điểm:
- Ðiểm thứ nhất, căn
cứ vào tuổi an cư kiết hạ để phân biệt chỗ ngồi trước
sau, khi nghe đọc Giới bổn.
- Ðiểm thứ hai, căn
cứ vào quả vị chứng đắc. Ðiểm phân biệt này mới là
yếu tố quyết định chỗ ngồi sai biệt giữa Tăng chúng.
Ðáng tôn kính là những ai đã chứng đắc sâu xa các
quả vị giải thoát, dù còn trẻ tuổi.
Chỉ có hai danh xưng để
phân biệt giữa các vị Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni trong Tăng chúng:
danh xưng "Tôn giả" (Bhante) dành cho các bậc Trưởng
lão đã chứng đắc giải thoát; khi một vị Tỷ-kheo ít
tuổi đạo thưa chuyện với một Tỷ-kheo lâu năm (thường
thì đều có chứng đắc) thì luôn luôn bạch "Thưa Tôn
giả". Ngược lại, vị Tỷ-kheo trưởng lão gọi Tỷ-kheo
nhỏ tuổi bằng "Thưa Hiền giả". Các Tỷ-kheo
đồng hàng nhỏ tuổi thì gọi nhau bằng "Hiền giả";
các vị Trưởng lão chỉ xưng hô với nhau bằng từ "Tôn
giả". Ngoài sự phân biệt căn bản trên, chư Tăng,
Ni thường gọi là vị Ðại Trưởng lão đáng tôn kính
nhất trong Giáo hội bằng "Ðại Trưởng lão"
hay "Ðại Tôn giả" (Thera: Trưởng lão, Mahàthera:
Ðại Trưởng lão).
Từ xưng hô "Hiền
giả" có thể được xem tương đương từ "Ðại đức"
ngày nay; từ "Tôn giả" thì tương đương với "Thượng
tọa"; từ "Ðại Trưởng lão" thì tương đương với "Hòa
thượng".
Hình thức tổ chức và
xưng hô như thế của Tăng-già, đã nói lên một cái nhìn
giá trị đặc biệt, nổi bật nét rất là nhân bản và
rất là trí tuệ.
Nếp sống của chư
Tăng.
Gọi là Tỷ-kheo đối
với những vị nào xuất gia có tuổi đời từ hai mươi
tuổi trở lên và được thọ Cụ túc giới (Ni thì phải có
hai mươi hai tuổi đời), các vị dưới hai mươi tuổi thì
phải hành đạo trong một thời gian cho đến tuổi hai mươi.
Trong thời gian này, các vị này chỉ thọ Sa-di giới (cho Tăng)
và Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na giới (cho Ni). Các vị Sa-di thường
y chỉ, nương tựa vào các bậc Trưởng lão hay Thượng
tọa, hoặc làm thị giả riêng cho quý vị Trưởng lão, Thượng
tọa, và chịu trực tiếp sự hướng dẫn, giáo dục của
quý vị này. Trong trường hợp chứng đắc A-la-hán quả, dù
chỉ dưới mười tuổi, các Sa-di được Thế Tôn cho thọ
Cụ túc giới và tuyên bố giữa Tăng chúng để chư Tăng
biết mà cung kính đối xử.
Các vị Tỷ-kheo mới
thọ giới Cụ túc hay mới nhập đạo, thường chịu sự hướng
dẫn, giáo dục trực tiếp của hai Tôn giả Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên, đặc biệt là Tôn giả Xá-lợi-phất. Thế
Tôn dạy Tôn giả Xá-lợi-phất hướng dẫn chư Tăng cho đến
quả vị Tu-đà-hoàn, và Tôn giả Mục-kiền-liên hướng
dẫn từ quả vị Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán.
Tất cả chư Tăng trong
đoàn thể Giáo hội sinh hoạt giữ cùng chung một Giới
bổn, mỗi nửa tháng đọc tụng một lần vào ngày 15 và 30
Âm lịch (theo lịch Tàu). Trong những năm đầu, Thế Tôn thân
hành tụng Giới bổn cho đến khi trong Chúng có người
phạm trọng giới. Ðây là truyền thống của chư Thế Tôn.
Từ khi có Tỷ-kheo phạm trọng giới, Thế Tôn giao lại
việc tụng đọc Giới bổn cho Tôn giả Ưu-ba-ly. Tôn giả
Ưu-ba-ly thường phụ trách việc tụng đọc Giới bổn từ
đó cho đến mãi về sau. (Xem Tăng Chi III-A, tr. 135).
Hằng năm, chư Tăng, Ni
an cư vào mùa mưa. Tất cả trở về sống chung trong các
tịnh xá lớn và các trú xứ nhỏ hơn. Trong thời gian này,
chư Tăng không đi khất thực, đã có thiện nam, tín nữ, đến
tại trú xứ "để bát" và lo tứ sự cúng dường.
Cứ đến ngày Bồ-tát (Uposatha), tụng đọc Giới bổn, thì
tất cả đều quy tụ về quanh Thế Tôn. Chư Ni thì có đại
diện đến xin lãnh giới ở chư Tăng và trở về trú xứ
riêng của Ni để tụng đọc Giới bổn Ni.
Vào ngày Tự tứ, ngày
kết thúc của mỗi mùa an cư, Thế Tôn và chư Tăng làm lễ
Tự tứ. Lễ này được cử hành rất trang nghiêm, nhưng
rất đơn giản, được tổ chức ngay giữa trời, hay trong
một khu rừng.
Trong ba tháng an cư mùa
mưa, chư Tăng chuyên học hỏi Phật pháp và hành trì Thiền
định dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn và chư vị Trưởng
lão.
Ngoài ba tháng an cư, chư
Tăng đi vào một sinh hoạt mới, được mở rộng. Chư Tăng
được tung ra khắp các phương hướng, đi đến các trú
xứ khác nhau, trong các quốc độ, vừa khất thực để độ
nhật, vừa thuyết pháp độ sinh, và vừa nỗ lực tinh cần
tiếp tục hành Thiền để đoạn trừ các lậu hoặc.
Thông thường, chư Tăng
ở các trú xứ chung quanh Thế Tôn thì có một số sinh
hoạt nhất định trong mỗi ngày. Sáng thì đi khất thực
khắp các nẻo đường, thứ tự từng nhà, không phân
biệt; khất thực xong, các vị trở về trú xứ riêng hay đến
dưới gốc cây trong các khu rừng để độ ngọ (ăn trưa).
Sau bữa ăn, các vị rửa bát, xếp gọn các y, ngơi nghỉ
trong chốc lát, liền lại đến một gốc cây hay căn nhà
trống, ngồi kiết-già lưng thẳng, để niệm trước mặt và
hành Tứ niệm xứ hay niệm hơi thở vào, hơi thở ra.
Vào xế chiều (sau khi
chỉ tịnh, chư Tăng hoàn toàn không ngủ trưa), Thế Tôn hay
Tôn giả Xá-lợi-phất thuyết pháp. Thỉnh thoảng có các
thời pháp do các Tôn giả khác phụ trách. Thời gian có
thể kéo dài. Sau thời pháp, chư Tăng nghỉ ngơi bằng cách
đi bách bộ, luôn luôn giữ mình trong phương châm "Nói năng
như Chánh pháp và im lặng như Chánh pháp". Ðiều này có
nghĩa là hoặc bàn luận Phật pháp (nói năng), hoặc ngồi
Thiền định (im lặng).
Suốt năm canh của
một đêm, chư Tăng ngồi Thiền và đi bách bộ vào canh
một; ngủ nghỉ canh hai; ngồi Thiền và bách bộ vào canh
ba; ngủ nghỉ canh tư; và lại ngồi Thiền và bách bộ ở
canh năm. Chư Tỷ-kheo luôn luôn giữ mình trong nếp sinh
hoạt đều đặn. Mọi việc tương hệ, sinh hoạt nhỏ khác
thì căn cứ vào Giới bổn để xử lý.
Phần y phục, chỗ
nghỉ (sàng tọa) và thuốc men thì đã có cư sĩ Cấp Cô Ðộc,
nữ cư sĩ Lộc Mẫu (Visakhà) cùng với các thiện nam, tín
nữ khác lo.
Thường ngày, vẫn thường
có các thí chủ, trai chủ đến cung thỉnh Thế Tôn và chư
Tăng đi thọ trai. Chư Tỷ-kheo được phép thọ biệt
thỉnh, nghĩa là được mời dùng cơm riêng ở các tư gia.
Sau mỗi bữa cơm trưa cúng dường, Thế Tôn hay một đại Tôn
giả thường ban một thời pháp ngắn như là một thời kinh
tùy hỷ và chúc lành.
Thế Tôn cũng đi khất
thực và cũng thọ trai theo thể thức biệt thỉnh, tùy theo
nguyện vọng của các thí chủ, trai chủ.
Việc nhận lời thọ
trai không phân biệt sang hèn, có uy quyền hay không của các
trai chủ: trai chủ nào thỉnh trước thì được Thế Tôn
nhận lời trước, như trường hợp một kỹ nữ, cô gái vườn
xoài, thỉnh được Thế Tôn và Tăng chúng, trong khi các hoàng
tử đến muộn hơn nên không được Thế Tôn nhận lời
thọ trai trong cùng ngày. Sau lời tác bạch cầu thỉnh thọ
trai của trai chủ, Thế Tôn thường yên lặng nhận lời,
nếu chưa có người thỉnh trước. Ðây là thái độ có tính
truyền thống của chư Thế Tôn: yên lặng là tỏ sự đồng
ý.
Trong chín tháng sau mùa
mưa, chư Tăng được phép độc cư Thiền định trong các
khu rừng.
Việc nói Pháp của chư
Tôn giả hoàn toàn thuần túy giáo lý giải thoát, và được
trình bày một cách rất xác thực, cụ thể, minh bạch và
đúng pháp. Chư Tăng không được phép biểu dương các
Thần túc thông (các phép mầu), Thiên nhĩ thông hay Tha tâm
thông. Chư Tăng vận dụng thân giáo và khẩu giáo. Phần ý
giáo chính là công việc giảng dạy và học tập thường
kỳ của chư Tăng và cư sĩ. Thế Tôn luôn luôn nhấn mạnh
đến Giáo hóa thần thông. Ngài nhàm chán và ghê tởm các
pháp thuật, thần thông.
Chuyện kể, một lần
ngoại đạo sư biểu diễn thần thông đi lướt nổi trên
mặt sông Hằng, từ bờ này qua bờ kia, và thách thức Thế
Tôn làm như vậy. Thế Tôn ôn tồn hỏi ngoại đạo sư do
tu tập bao lâu mà được kết quả thần thông ấy. Ngoại
đạo sư ấy đáp là ba mươi năm. Thế Tôn mỉm cười nói:
"Ta chỉ cần có ba xu là qua được bên kia sông Hằng" (nghĩa
là đi đò).
Câu chuyện nói lên rõ
thái độ sống rất thực, rất tự nhiên và rất người
của Thế Tôn, vừa nó rõ thái độ coi nhẹ các thần thông
của Thế Tôn.
Thế Tôn xây dựng
việc tu tập và việc nói Pháp của chư Tăng trên căn bản
Giới bổn, Thiền định và Trí tuệ, tuyệt đối không đi
ra ngoài các sinh hoạt đó. Về các nghi thức tế lễ, Thế
Tôn dạy giới đàn tế lễ tốt là cúng hoa trái; tốt hơn
nữa là bố thí; tốt hơn nữa là trì giới; tốt hơn nữa
là hành Thiền định; và tốt hơn nữa là hành Trí tuệ để
đoạn trừ các lậu hoặc. Thế Tôn hoàn toàn không khích
lệ chư Tăng sống dựa vào mong cầu, cầu nguyện hay vọng
ngoại mà chỉ có chú tâm tỉnh giác, chánh niệm tu tập.
Mỗi lần, Thế Tôn hỏi một số Tỷ-kheo đang theo Thế Tôn
đi dọc bờ sông Hằng rằng: "Nếu có một đám dầu nổi
trên mặt nước, và có các lễ sư thông thạo trong việc cúng
lễ cầu nguyện ngồi ở trên bờ, các lễ sư cầu nguyện
cho đám dầu chìm xuống, có được không?" - "Bạch Thế Tôn,
không", chư Tăng đáp. "Nếu có một viên đá chìm xuống lòng
sông, các lễ sư ấy cầu nguyện cho viên đá nổi lên được
không?" - "Bạch Thế Tôn, không", chư Tăng đáp. Thế Tôn
dạy: "Ðúng vậy", và tiếp tục cuộc hành trình.
Câu chuyện này nói lên
rõ ràng không phải là việc tế lễ đoạn trừ các
nghiệp, các lậu hoặc; mà là việc tu tập để đoạn trừ
các nghiệp, các lậu hoặc.
Trên mọi nẻo đường
khất thực và hoằng hóa, Thế Tôn và chư Tăng luôn luôn đi
chân không và đi bộ với bình bát trên tay. Giản dị chỉ
có thế, chư vị không dùng xe cộ và các thần thông. Hình
ảnh nổi bật nhất là cho đến khi nghe Thế Tôn vừa nhập
diệt ở Kusinàra, bấy giờ Tôn giả Mahà Kassapa (Ðại
Ca-diếp) đang trên đường về từ Pàva đến Kusinàra, Tôn
giả tiếp tục đi bộ về, tuyệt đối tôn trọng hành trì
lời dạy của Thế Tôn, không sử dụng thần thông ngay cả
thời điểm tối quan trọng này.
Hẳn nhiên, Thế Tôn
vẫn rất tế nhị và rất kín đáo, dùng thần thông xuất
hiện trước các Hội chúng để giáo hóa. Bấy giờ Thế Tôn
dùng thần thông để đóng vai trò hệt một người trong
hội chúng, nhưng tuyệt nhiên nội dung giáo hóa vẫn là
Giới, Ðịnh, Tuệ qua thân giáo và khẩu giáo.
Lịch sử ghi lại,
chỉ có Tôn giả Mục-kiền-liên là có dùng thần thông, thi
thố để hàng phục một số các ngoại đạo sư manh động
và kiêu mạn. Trường hợp này Thế Tôn có quở trách. Tuy
vậy, chúng ta cũng nhận ra được bối cảnh truyền đạo,
hành đạo quá khó khăn và phức tạp thời đó đòi hỏi
sự có mặt của Tôn giả Mục-kiền-liên với sự sử
dụng các đại thần thông của Tôn giả.
Cho đến đây, chúng ta
thấy nếp sống của chư Tăng thật là giản dị, rất gần
gũi với thiên nhiên; cho đến cuối đời vẫn nhẹ nhàng và
giản dị.
Ðiển hình là chính
Thế Tôn, là bậc Thiên Nhân Sư, vô thượng ở đời, Ngài
vẫn dung dị trong tấm y vàng; có những lúc chỉ mặc y
phấn tảo, đi chân không, dùng tấm lót ngồi (tọa cụ) đan
bằng cỏ khô; có những lúc Ngài trú mưa qua một đêm trong
chái nhà lá của thợ làm đồ gốm một mình. Ngài sinh ra dưới
cội cây, xuất gia tu tập dưới cội cây, thành đạo dưới
cội cây và nhập Niết-bàn cũng dưới cội cây, chỉ đơn
giản nằm nghiêng trên chiếc võng dây treo giữa hai cây tàla.
Cuộc sống ấy dung dị nhưng thơ mộng biết bao! Ðẹp đẽ
biết bao! Xúc cảm biết bao! Chính những hình ảnh, những nét
vẻ dung dị đó là những hào quang tối thượng và kỳ
diệu nhất để cho đời chiêm ngưỡng. Ôi! Thật là tuyệt
diệu! Ðấy là suối nguồn cảm hứng cho những bức danh
họa, cho những vần thơ kỳ ảo, cho những bản nhạc
tuyệt vời và là cho cuộc đời những ý sống dạt dào.
Xúc cảm về nếp
sống đó của chư Tăng, đời sau đã có sáng tác bốn câu
kệ mô tả:
"Nhứt bát thiên gia
phạn,
Cô thân vạn lý du.
Kỳ vị sanh tử sự,
Thuyết pháp độ xuân thu".
Tạm dịch:
"Một bát cơm ngàn
nhà,
Một thân vạn dặm xa,
Chỉ vì chuyện sanh tử,
Nói Pháp độ người qua".
Trong tập "Thiền Ðạo
Tu Tập", bản dịch của Như Hạnh, đã thi hóa bốn câu
kệ trên như sau:
"Một bát cơm ngàn
nhà,
Thân chơi muôn dặm xa,
Mắt xanh xem trần thế,
Mây trắng hỏi đường qua".
"Cô thân" trong bài
kệ không nên hiểu là chỉ một mình theo nghĩa thông thường,
mà phải hiểu là một mình theo nghĩa Thế Tôn dạy ở Tương
Ưng Bộ Kinh III, tr. 11-12, rằng: "Thế nào là kẻ du hành
một mình?" - "Ðấy là người ly hoàn toàn tham ái và
chấp thủ". Nếu còn tham ái, chấp thủ thì gọi là du hành
hai mình hay du hành có gia đình.
(Xin xem tiếp đoạn
kế)
-oOo-
Bài trước
|
Mục lục | Ðoạn
kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục