PHẬT GIÁO
VÀ THẾ GIỚI NGÀY NAY
Có
vài người nghĩ rằng đạo Phật quá cao siêu huyền bí, không thể
thực hành được bởi những người nam, nữ thông thường trong thế
giới chúng ta hằng ngày, và nếu muốn trở thành một Phật tử chân
chính thì người ta cần phải từ bỏ cuộc đời này để rút lui vào
một tu viện hay đến một nơi nào yên tĩnh.
Ðấy là một quan niệm sai lạc đáng
buồn do sự thiếu hiểu biết về giáo lý Phật. Người ta thường đi
đến những kết luận sai lầm và vội vã, sau khi tình cờ nghe hay
đọc một cái gì về Phật giáo do một tác giả không hiểu
thấu vấn đề, đưa ra một quan niệm thiên lệch và chủ quan về Phật
giáo. Giáo lý Phật không phải chỉ cốt dành cho Tăng lữ trong tu
viện, mà còn cho những nam nữ cư sĩ sống trong gia đình. Bát
chánh đạo, một lối sống theo Phật giáo, là dành cho tất cả không
phân biệt.
Không phải mọi người trên thế giới
đều có thể đi tu hoặc ẩn dật trong hang động hay rừng núi. Ðạo
Phật dù cao cả trong sáng đến đâu, cũng sẽ vô dụng đối với nhân
loại nếu đại chúng không thể thực hành được trong đời sống hằng
ngày. Nhưng nếu hiểu đúng tinh thần Phật giáo (chứ không
phải chỉ hiểu danh từ), chắc chắn ta có thể thực hành lời Phật
dạy trong khi vẫn sống đời thường.
Có một số người thấy dễ dàng tu
theo Phật nếu được ở một nơi xa xôi hẻo lánh tách biệt với xã
hội. Cũng có người lại thấy sự ẩn dật đó làm cho họ chán ngán
buồn bã cả thể chất lẫn tâm thần, do vậy nếp sống ấy không giúp
ích gì cho sự phát triển đời sống tri thức và tâm linh họ.
Sự ẩn dật chân chính không có nghĩa
là thân xác phải xa lánh hẳn thế gian. Tôn giả Xá-lợi-phất
(Sariputta) đệ tử chính của Phật, nói rằng một người có thể
sống trong rừng chuyên tu khổ hạnh mà tâm vẫn đầy những tư tưởng
nhiễm ô bất tịnh, trong khi một người khác có thể sống trong
làng mạc hay thị thành, không thực hành ép xác, mà tâm lại trong
sạch không cấu uế. Trong hai người ấy, tôn giả Xá lợi phất bảo,
người sống đời trong sạch giữa làng mạc thị thành nhất định là
cao cả hơn người sống ở rừng nhiều[1].
Quan niệm thông thường cho rằng
muốn theo giáo lý Phật người ta phải lánh đời, là một quan niệm
sai lầm. Trong văn học Phật giáo, có rất nhiều chỗ nói đến những
người nam nữ sống đời gia đình bình thường mà vẫn thực hành một
cách hiệu quả những gì Phật dạy, và thực chứng Niết-bàn. Du sĩ
Vacchagotta (mà ta đã gặp trong chương về Vô ngã), một hôm hỏi
Phật có nam nữ đệ tử nào của Ngài sống đời sống gia đình, mà
được kết quả nhờ theo giáo lý Ngài, đạt những trạng thái tâm
linh cao siêu không. Phật trả lời không phải chỉ có một hai
người, một trăm, năm trăm, mà còn nhiều hơn thế nữa, những người
nam và nữ cư sĩ sống đời gia đình đã theo giáo lý Ngài một cách
hiệu quả và đạt được những trạng thái tâm linh cao siêu
[2].
Ðối với một số người, có thể là
điều thoải mái êm dịu khi sống đời ẩn dật trong một nơi yên
tĩnh, xa hẳn ồn ào phiền tạp. Nhưng chắc chắn thật là can đảm,
đáng ca ngợi hơn, những ai thực hành Phật giáo mà vẫn
sống giữa đồng loại, giúp đỡ họ và làm lợi ích cho họ. Có lẽ
trong vài trường hợp sẽ có ích cho một người nếu sống ẩn dật một
thời gian để trau dồi tâm ý và tính tình - như tập luyện trước
về đạo đức tri thức và tâm linh - để về sau có đủ khả năng giúp
đỡ đồng loại. Nhưng nếu một con người sống suốt đời trong cô độc
chỉ nghĩ đến hạnh phúc và "cứu rỗi" cho riêng mình, không quan
tâm đến đồng loại, thì điều này chắc chắn không phù hợp với giáo
lý Phật vốn căn bản trên tình thương, từ bi và sự giúp đỡ kẻ
khác.
Bây giờ ta có thể hỏi: "Nếu một
người có thể theo Phật giáo trong khi sống đời sống cư sĩ thế
tục, thì Phật lập đoàn thể Tăng-già (Sangha) làm gì?" Ðoàn thể
Tăng-già này tạo cơ hội cho những ai muốn hiến đời mình không
những cho sự phát triển tri thức và tâm linh của riêng mình, mà
còn để giúp ích kẻ khác. Một cư sĩ có gia đình khó mà hiến trọn
đời mình phụng sự đồng loại, trong khi một vị Tăng, vì không có
nhiệm vụ gia đình hay một ràng buộc nào của thế tục, có thể hiến
trọn đời mình "vì lợi ích cho nhiều người, vì an lạc hạnh phúc
của nhiều người" theo lời khuyên của Phật. Chính vì thế mà trong
quá trình lịch sử, tu viện Phật giáo không những là một trung
tâm đào luyện tâm linh, mà còn là một trung tâm học thuật và văn
hóa.
Những tu sĩ Phật giáo sống đời cộng
đồng trong tu viện nằm giữa các đô thị hay trong làng mạc. Trong
tất cả các xứ Phật giáo, Tăng lữ tuân giữ nếp sống độc thân phạm
hạnh ngoại trừ vài tông phái ở Nhật Bản và Tây Tạng cho phép tu
sĩ được cưới vợ - nhưng đây là một tục lệ rõ ràng được du nhập
rất lâu về sau. Tu sĩ Phật giáo không được có tài sản riêng trừ
một số tối thiểu vật dụng cần thiết, song họ có quyền sử dụng
tài sản chung do thí chủ cúng cho đoàn thể Tăng già. Bởi thế có
nhiều tu viện, nhất là những tu viện xưa nổi tiếng, sở hữu đất
đai để duy trì đời sống Tăng lữ trong tự viện. Những tu sĩ và tu
viện Phật giáo được công chúng cúng dường; họ được cung cấp
những vật dụng cần thiết. Trong quá khứ, Tăng lữ thường sống
bằng hạnh khất thực, xin ăn từng nhà. Do những thay đổi trong
nền kinh tế hiện nay, tập tục ấy dần biến mất, mặc dù vẫn còn
hàng ngàn người tiếp tục tuân giữ pháp khất thực, nhất là tại
các xứ theo Nam tông như Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Cam Bốt,
vân vân. Những tu sĩ sống ở thành thị hay làng mạc có hai nhiệm
vụ: thứ nhất là để một phần thì giờ tu thiền và học tập để tiến
bộ về trí thức và tâm linh; thứ hai là dạy dỗ những trẻ đến chùa
xin học, săn sóc nhu cầu tín ngưỡng của cư sĩ thế tục, bảo trì
tự viện, giảng kinh cho đại chúng vào những dịp lễ, giáo giới
những cá nhân và đoàn nhóm, điều khiển các lễ lạc tôn giáo, tổ
chức những hội đoàn làm công tác an sinh xã hội, vv. Cũng có
những tu sĩ sống ở rừng tách biệt hẳn toàn thể xã hội, dành trọn
đời cho sự độc cư thiền định[3].
Kinh Thiện sanh[4]
chứng tỏ đức Phật coi trọng cuộc đời cư sĩ, gia đình và
những mối tương giao xã hội của họ như thế nào.
Một thanh niên tên Sigàla vâng theo
lời trăn trối của cha, thường lễ bái sáu phương - đông, tây,
bắc, nam, trên, dưới. Phật bảo anh ta rằng trong Thánh giới luật
(ariyassavinaye) của giáo lý Ngài, sáu phương ấy có nghĩa
khác. Theo luật Ngài, phương đông là cha mẹ; phương nam là thầy;
phương tây là vợ con; phương bắc là bạn bè quyến thuộc, láng
giềng; phương dưới là tôi tớ, người làm công và thợ thuyền;
phương trên là những tu sĩ, Sa môn Bà la môn. Phật dạy nên lễ
bái sáu phương ấy. Ở đây chữ lễ bái (namasseyya) rất ý
nghĩa, vì người ta chỉ lễ bái một cái gì thiêng liêng, khả kính,
khả sùng. Ðạo Phật xem sáu nhóm gia đình và xã hội trên đây là
thiêng liêng, đáng sùng mộ kính trọng và lễ bái. Nhưng lễ bái
cách nào? Phật dạy người ta có thể lễ bái bằng cách làm tròn bổn
phận của mình đối với những người ấy. Những bổn phận ấy được
Phật giảng rõ trong bài thuyết pháp cho Thiện Sanh.
- Thứ nhất: cha mẹ là thiêng
liêng đối với con cái. Phật dạy: "Cha mẹ là Thượng đế"
(Brahmàti màtàpitaro). Danh từ thượng đế (Brahma, Phạm
thiên) chỉ khái niệm cao cả thiêng liêng nhất trong tư tưởng
Ấn giáo, trong đó Phật đã bao gồm cha mẹ. Bởi thế ngày nay trong
những gia đình theo Phật thuần thành, con cái thực sự "lễ bái"
cha mẹ hằng ngày sáng và tối. Họ phải làm một vài bổn phận đối
với song thân theo luật của Phật: Phải săn sóc cha mẹ khi già,
phải làm bất cứ cái gì cần làm cho cha mẹ, phải giữ danh dự gia
đình và tiếp nối truyền thống gia đình, phải bảo vệ tài sản cha
mẹ để lại, và làm tang lễ sau khi cha mẹ chết. Ðối lại, cha mẹ
cũng có một số bổn phận đối với con cái: họ phải giữ con cái
tránh xa những đường tà, phải khuyên chúng làm những việc thiện
và lợi ích, phải giáo dục chúng đầy đủ, phải cưới gả chúng vào
những gia đình tử tế, và phải chia tài sản cho công bằng.
- Thứ hai: liên hệ giữa thầy và
trò. Người học trò phải kính trọng vâng lời thầy, phải lo
cho thầy nếu thầy có điều chi cần thiết, phải học hành chăm chỉ.
Và thầy đối lại, phải huấn luyện học trò một cách thích đáng,
phải dạy kỹ lưỡng, phải giới thiệu bạn bè cho nó, và phải cố
kiếm sự bảo đảm việc làm cho nó sau khi học xong.
- Thứ ba: liên hệ giữa chồng và
vợ. Tình yêu giữa chồng vợ được xem hầu như tôn giáo hay
thiêng liêng; gọi là "đời sống gia đình thiêng liêng" (sadàrabrahmacariya).
Ở đây cũng thế, ý nghĩa của từ ngữ brahma, Phạm thiên cần
được lưu tâm: Ðạo Phật dành cho mối liên hệ này sự kính trọng
cao cả nhất. Vợ chồng phải trung thành, kính trọng và tận tụy
với nhau, và họ có vài bổn phận đối với nhau. Chồng phải luôn
luôn tôn trọng vợ, không được thiếu sự kính nể đối với vợ, phải
bảo đảm đời sống và tiện nghi cho vợ, và phải làm vợ vui lòng
bằng cách tặng nàng áo và đồ trang sức (sự kiện đức Phật không
quên nhắc đến cả những món quà một người chồng nên tặng vợ, đủ
chứng tỏ tình người thắm thiết của Ngài, thiện cảm tế nhị của
Ngài đối với tình cảm con người.) Ðối lại, người vợ phải coi sóc
việc nhà, phải làm vui lòng khách khứa, bạn bè, thân thuộc và
những người làm công, phải yêu thương, trung thành với chồng,
phải gìn giữ tiền của chồng kiếm được, phải khôn khéo và có nghị
lực trong mọi công việc.
- Thứ tư: liên hệ giữa bạn bè,
bà con, láng giềng: họ phải tử tế nhân từ với nhau, phải nói
lời hòa nhã dễ nghe, phải làm lợi ích cho nhau, phải hòa hiếu
với nhau đừng gây gỗ, phải giúp nhau khi cần, và đừng bỏ nhau
trong khi hoạn nạn.
- Thứ năm: liên hệ giữa chủ và
tớ: chủ nhà có nhiều bổn phận đối với tôi tớ hay người làm
công: phải giao công việc tùy theo khả năng và sức lực, phải trả
lương thích đáng, phải cung cấp thuốc men, thỉnh thoảng phải cho
quà tặng. Ðối lại người giúp việc hay làm công phải chuyên cần
không được biếng nhác, phải lương thiện, vâng lời và đừng lường
gạt chủ, phải siêng năng trong công việc làm.
- Thứ sáu: liên hệ giữa tu sĩ
với người thế tục: với niềm yêu thương kính trọng, người thế
tục phải coi sóc những nhu cầu vật chất của sa môn, Bà la môn;
với tâm bi mẫn, tu sĩ phải ban bố kiến thức và hiểu biết cho
người thế tục, và dẫn dắt họ theo đường chánh, xa đường tà.
Như vậy ta thấy theo đức Phật, đời
sống thế tục với những liên hệ gia đình xã hội cũng được bao gồm
trong "Thánh giới luật", và cũng nằm trong khuôn khổ lối sống
Phật giáo.
Bởi thế trong Tương ưng bộ kinh,
Samyuttanikàya, một trong những kinh Pàli xưa nhất, Ðế thích
(Sakka), vua của những vị trời (Devas) tuyên bố
rằng không những ông sùng kính các tu sĩ sống đời thánh thiện
đức hạnh mà còn kính trọng những cư sĩ thế tục (ưu bà tắc,
upàsaka) làm những việc công đức, có đức hạnh và duy trì gia
đình của họ một cách đúng pháp
[5].
Nếu muốn trở thành một Phật tử
người ta không cần gì phải qua một lễ dẫn nhập (hay rửa tội).
Nhưng muốn trở thành Tỳ kheo, một phần tử của đoàn thể Tăng già,
người ta phải qua một thời gian dài tuân giữ ký luật và học đạo.
Một người nếu hiểu giáo lý Phật, tin chắc đây là chính đạo, và
nếu nỗ lực tuân theo giáo lý ấy, thì họ thành một Phật tử.
Nhưng theo truyền thống ngàn xưa
trong các xứ Phật giáo, một người được xem là Phật tử nếu quay
về nương tựa Phật, Pháp (giáo lý) và Tăng (đoàn thể Tăng già)-
gọi là Tam bảo, ba ngôi báu- và bắt đầu tuân giữ Ngũ giới
(Pancasila), những bổn phận tinh thần tối thiểu của một Phật
tử tại gia: 1. không sát sinh (giết hại sinh mạng), 2.
khôngtrộmcắp. 3. không tà dâm (ngoại tình), 4. không nói dối, 5.
không uống những chất làm say sưa. Người phật tử quỳ gối chắp
tay trước một tượng phật hay bảo tháp (stùpa dàgàba), lặp
lại công thức quy y thường bằng tiếng pàli, theo lời một tu sĩ.
Tại các lễ lớn, thường cả hội chúng tụng những lời này theo một
vị Tăng.
Không có một lễ tục bề ngoài nào
một Phật tử bắt buộc phải làm. Ðạo Phật là một lối sống, và điều
cốt yếu là tuân giữ Bát chánh đạo. Dĩ nhiên trong tất cả các xứ
Phật giáo đều có những lễ tục rất đẹp và đơn giản vào
những ngày lễ Phật. Trong tu viện thường có một bảo tháp (stùpa,
dàgàba), là một lễ đài có hình vòm cung trong có xá lợi
Phật, cây Bồ đề, tượng Phật (patimàghara). Bảo tháp, cây
Bồ đề, tượng phật, ba vật ấy đều được thờ cúng. Phật tử thường
đi chùa vào các ngày rằm trăng tròn, ngày mồng một, mồng tám,
hăm ba âm lịch. Họ tụng ba quy y và năm giới, quỳ trước một
trong ba vật thờ kể trên. Rồi họ thắp đèn dâng hoa và đốt hương,
tụng những bài kệ ca ngợi công đức của Phật, Pháp, Tăng. Không
nên xem đấy cũng như sự cầu nguyện trong các tôn giáo hữu thần.
Ðấy chỉ là một cách chiêm ngưỡng, tưởng nhớ vị đạo sư đã chỉ dạy
Con Ðường. Rồi họ nghe giảng pháp.
Vào những ngày rằm,mồng một, hàng
ngàn phật tử tuân giữ Bố tát hay Bát quan trai giới
(uposathasìla, atthangasìla):
1. Không sát sinh;
2. Không trộm cắp;
3. Không hành dâm
[6];
4. Không nói dối;
5. Không uống rượu;
6. Không ăn sau ngọ;
7. Không nằm ngồi giường cao đẹp;
8. Không múa, hát, chơi đùa, dùng tràng hoa và hương thơm.
Thông thường, Phật tử thọ Bát quan
trai ở suốt ngày đêm tại chùa để hành thiền, nghe pháp, tụng
kinh và thảo luận về Pháp.
Cuộc lễ Phật giáo lớn nhất trong
năm là lễ Vesak vào rằm tháng tư âm lịch, để mừng ngày Phật đản
sinh, giác ngộ và Bát niết-bàn. Vào ngày ấy, mọi nhà, chùa,
đường phố được trang hoàng bằng hoa, đèn và những lá cờ Phật
giáo sáu màu. Hàng ngàn nam phụ lão ấu đến chùa; hàng trăm quán
ăn miễn phí được mở ra do những hội đoàn phật tử để phục vụ
khách hành hương. Ngày ấy một tinh thần từ bi, thương yêu, hòa
điệu, thanh bình và hoan hỉ tràn ngập khắp nhân gian.
Trong Phật giáo không có lễ rửa
tội; nhưng khi một đứa trẻ được sinh ra, cha mẹ nó đưa đến chùa
để làm chuyến xuất hành đầu tiên, đặt hài nhi dưới chân tượng
Phật, để chư Tăng tụng kinh cầu phúc cho nó. Ngay cả trước khi
đứa bé ra đời, người ta cũng thỉnh chư Tăng đến nhà để cầu an
cho sản phụ, bà mẹ tương lai.
Chư Tăng không làm lễ cho các đám
cưới. Hôn lễ tại các nhà phật tử là một lễ thuộc dân sự, chỉ
liên hệ đến xã hội; nhưng người ta cho nó một tính tôn giáo bằng
cách đưa vào đấy những yếu tố Phật giáo, tỉ như cho một nhóm
thanh niên hay thiếu nữ tụng những bài kệ chúc lành. Chính những
tu sĩ thì không bao giờ dự đám cưới, nhất là ở các xứ theo Nam
tông. Nhưng người ta có thể thỉnh Tăng về nhà cúng dường bố thí
(dàna) một hoặc hai ngày trước hay sau lễ cưới; vào dịp ấy một
tu sĩ nói một pháp thoại khuyên cặp vợ chồng mới sống một đời
hạnh phúc hòa thuận theo lời Phật dạy.
Ngược lại, tu sĩ phật giáo thường
làm lễ cho các đám tang, và thuyết một bài pháp để ủy lạo tang
gia.
Khi một Phật tử bị bệnh, rất thường
khi người ta mời chư Tăng đến tụng kinh cầu an gọi là paritta
hay Pirit (có nghĩa là che chở, gia hộ). Lễ tục này rất
phổ thông đối với phật tử. Trong hầu hết các chùa, thỉnh thoảng
người ta lại cử hành lễ này xem như lễ cầu an chung cho tất cả;
cuộc lễ có thể kéo dài suốt ngày đêm không nghỉ, trong một hai
ngày hoặc cả tuần lễ hay lâu hơn.
Những sự lễ bái cổ truyền này, mặc
dù không thiết yếu, vẫn có giá trị ở chỗ thỏa mãn những cảm xúc
và nhu cầu tôn giáo nơi những người chưa phát triển về tinh thần
và tâm linh, giúp họ dần bước theo chánh đạo[7].
Những người nghĩ rằng Phật giáo
chỉ quan tâm đến những lý tưởng cao siêu, tư tưởng triết lý
và đạo đức siêu phàm, không kể gì đến phúc lợi xã hội và kinh tế
của con người, là sai lầm. Ðức Phật rất quan tâm đến hạnh phúc
của con người. Ðối với Ngài, không thể có hạnh phúc nếu không
sống một đời trong sạch, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và
tâm linh. Nhưng Ngài biết rằng sống một đời như vậy rất khó
trong những điều kiện xã hội và vật chất không thuận lợi.
Phật giáo không xem hạnh
phúc vật chất tự nó là cứu cánh: nó chỉ là một phương tiện để
đạt đến một cứu cánh cao quý hơn. Nhưng đấy là một phương tiện
rất cần thiết để hoàn thành một mục đích cao hơn cho hạnh phúc
nhân loại. Bởi thế Phật giáo công nhận vài điều kiện vật
chất tối thiểu là cần thiết để tu tập có kết quả - ngay cả đối
với một thầy tu thiền định trong một nơi cô tịch[8].
Ðức Phật không xét đời sống tách
biệt với bối cảnh kinh tế và xã hội. Ngài nhìn đời toàn diện,
trong tất cả mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị của
nó. Những lời dạy của Ngài về những vấn đề đạo đức, triết lý và
tâm linh đã được khá nhiều người biết đến. Nhưng người ta biết
rất ít về giáo lý của Ngài trong những vấn đề xã hội, kinh tế và
chính trị. Tuy vậy có rất nhiều bài giảng của Ngài bàn về những
vấn đề ấy rải rác khắp các bản kinh cổ xưa của Phật giáo. Ta hãy
lấy một vài thí dụ:
Kinh Chuyển luân sư tử hống
(Cakkavattisìhanàdasutta, Trường Bộ kinh 26) nói rõ rằng
sự nghèo khó (dàliddiya) là nguyên nhân của vô đạo và tội
ác như trộm cắp, tà vạy, bạo động, thù hằn, độc ác v.v.. Những
vị vua chúa ngày xưa, cũng như các chính phủ ngày nay, cố đàn áp
tội lỗi bằng hình phạt. Kinh Kùtadantasutta cùng thuộc bộ ấy
giải thích sự vô ích của hình phạt, nói rằng phương pháp ấy sẽ
không bao giờ thành công. Thay vì vậy, đức Phật đề nghị muốn
diệt tận gốc tội lỗi, cần phải cải thiện điều kiện kinh tế của
con người, cần phải cung cấp cho tá điền và nông phu hạt giống
và phương tiện trồng trọt, vốn phải được cung cấp cho những
thương gia và người buôn bán; lương hướng thích đáng phải được
trả cho những người làm công. Khi mọi người đều được cung cấp cơ
hội để kiếm được lợi tức đầy đủ họ sẽ bằng lòng, không sợ hãi lo
âu, và do đó xứ sở sẽ thanh bình, không có các tội lỗi
[9].
Bởi vậy đức Phật thường dạy những
cư sĩ tại gia tầm quan trọng của sự cải thiện hoàn cảnh kinh tế.
Ðiều này không có nghĩa Ngài tán đồng sự tích trữ tài sản với sự
tham lam ràng buộc, vì nó trái ngược với giáo lý Ngài, cũng
không phải Ngài tán đồng bất cứ phương tiện sinh nhai nào. Có
vài nghề thương mại như sản xuất và mua bán khí giới bị Ngài cấm
chỉ, xem như những phương tiện sinh nhai bất chánh như ta đã
thấy trước đây[10].
Một người tên Dìghajànu một hôm đến
viếng Phật và bảo: "Bạch Thế Tôn, chúng con là những người thế
tục tầm thường, sống đời gia đình, có vợ con. Xin đức Thế Tôn
chỉ dạy cho con vài lý thuyết để giúp chúng con được hạnh phúc
trong đời này và đời sau."
Ðức Phật dạy ông ta rằng có bốn
điều giúp cho hạnh phúc con người trong đời này:
- Thứ nhất là phải tài khéo, có
hiệu năng, hăng hái và có nghị lực trong bất cứ nghề nào mình
làm, và phải tinh xảo trong nghề nghiệp mình (utthànasampadà).
- Thứ hai là phải bảo vệ lợi tức
mình đã kiếm được một cách chân chánh, bằng mồ hôi trán
(àrakka-sampadà); nghĩa là bảo vệ tài sản cho khỏi bị trộm
cắp v.v.. (Tất cả mọi ý tưởng này cần được xét đến trong bối
cảnh thời ấy).
- Thứ ba là phải giao du với bạn
tốt (kalyànamitta) trung thành, có trí thức, đức hạnh,
phóng khoáng và thông minh, người sẽ giúp mình đi theo chánh
đạo, xa lánh đường tà.
- Thứ tư là phải tiêu dùng chừng
mực, tùy theo lợi tức, đừng tiêu quá nhiều cũng đừng quá ít,
nghĩa là không nên bo bo tích trữ tài sản, nhưng cũng không nên
phung phí - nói cách khác phải sống trong giới hạn những phương
tiện mình có (samajì vikatà).
Rồi Phật giảng bốn đức hạnh giúp
cho một người thế tục được hạnh phúc đời sau:
1. Tín (saddhà): phải tin
tưởng vào những giá trị đạo đức, tinh thần, và tâm linh.
2. Giới (sìla): phải chừa bỏ sát sinh, trộm cắp, tà dâm,
nói dối và uống rượu.
3. Thí (càga): phải thực hành lòng trắc ẩn, bố thí, không
bám víu, ôm giữ tài sản mình.
4. Tuệ (panna): phải mở mang trí tuệ dẫn đến sự diệt khổ,
chứng Niết-bàn[11].
Ðôi khi Phật còn đi vào những chi
tiết về cách để dành tiền bạc và tiêu dùng, chẳng hạn như khi
Ngài bảo thanh niên Sigàla rằng anh ta nên dùng 1/4 lợi tức vào
sự tiêu pha hàng ngày, 1/2 lợi tức để đầu tư vào việc kinh doanh
và để riêng 1/4 phòng khi nguy cấp[12].
Một hôm Phật bảo Cấp cô độc
(Anàthapindika), một thương gia danh tiếng, một trong những
đệ tử tại gia thuần thành nhất của Ngài, đã lập cho Ngài tu viện
Kỳ đà (Jetavana) hữu danh ở Xá vệ (Sàvatthi), rằng
một cư sĩ sống đời thường nhật, có bốn thứ hạnh phúc:
1. Thụ hưởng sự bảo đảm về kinh tế
hay tài sản đầy đủ, kiếm được bằng những phương tiện chính đáng
(sở hữu lạc, atthisukkha).
2. Tiêu dùng tài sản ấy một cách
rộng rãi cho chính mình, cho gia đình, bà con, bè bạn và trong
những việc công đức (thọ dụng lạc, ananasukkha).
3. Không có nợ nần (vô trái lạc,
anana-sukkha).
4. Sống một đời trong sạch, không
phạm những điều ác trong ý nghĩ, lời nói hay hành vi (vô tội
lạc, anmajjasukkha).
Ở đây ta phải chú ý rằng trong bốn
yếu tố đem lại hạnh phúc, có đến ba thuộc về kinh tế, và cuối
cùng Phật còn nhắc cho thương gia ấy biết rằng hạnh phúc về kinh
tế và vật chất thì "không đáng một phần mười sáu" của hạnh phúc
tâm hồn phát sinh từ một đời sống không lỗi lầm và lương thiện[13].
Qua những ví dụ kể trên, ta có thể
thấy rằng đức Phật xem sự thoải mái về kinh tế là cần thiết cho
hạnh phúc con người, nhưng Ngài không công nhận sự tiến bộ là
chân thật nếu nó chỉ thuần vật chất, không có một nền tảng đạo
đức và tâm linh. Trong khi khuyến khích sự tiến bộ vật chất,
Phật giáo luôn luôn nhấn mạnh sự phát triển đạo đức và
tâm linh để kiến tạo một xã hội hòa bình an lạc.
Ðức Phật cũng có những lời dạy minh
bạch như thế về chính trị, chiến tranh, hòa bình. Ðiều ai cũng
biết, tưởng không cần nhắc lại, là đạo Phật chủ xướng Bất bạo
động, Hòa bình như thông điệp của mình cho tất cả thế giới, và
không tán thành bất cứ một sự bạo động hay sát hại sinh mạng
nào. Theo Phật giáo không gì có thể gọi là "chiến tranh
chân chính", đó chỉ là một từ ngữ sai lầm được đúc ra và lưu
hành để biện minh cho hận thù, tàn ác, bạo động và chém giết. Ai
định ra cái gì là chân chánh hay không chân chánh? Người chiến
thắng, kẻ mạnh là "chánh", và kẻ chiến bại, yếu thế là "bất
chánh". Chiến tranh của chúng tôi thì luôn luôn chính
đáng, còn chiến tranh của các anh thì luôn luôn "bất
chánh". Phật giáo không chấp nhận lập trường ấy.
Ðức Phật không những đã dạy Bất bạo
động và Hòa bình, mà Ngài còn thân hành đi đến chiến trường để
can thiệp và ngăn cản chiến tranh, như trong trường hợp những
người dòng Thích ca (Sàkyas) và Câu lợi (Koliyas), sắp đánh nhau
vì vấn đề tranh chấp nước sông Rohini. Và những lời của Ngài đã
từng ngăn được vua A xà thế (Ajàtasattu) khỏi tấn công
Vương quốc Bạt kỳ (Vajjis).
Vào thời đức Phật, cũng như ngày
nay, có những nhà cai trị xứ sở một cách bất công. Dân chúng bị
đàn áp, bóc lột, đánh đập, tù đày, sưu cao thuế nặng, và chịu
những hình phạt dã man. Ðức Phật rất động lòng trước những sự vô
nhân đạo ấy. Kinh sớ Pháp cú Dhammapadatthakathà chép
rằng thuở ấy Phật rất chú tâm đến vấn đề một nền cai trị tốt
đẹp. Ta nên xét quan điểm của Ngài trong bối cảnh xã hội, kinh
tế và chính trị thời ấy. Ngài đã chứng minh rằng toàn thể một xứ
sở có thể trở thành đồi trụy, thối nát và bất hạnh nếu những
người cầm đầu việc cai trị - nghĩa là vua, các quan lại và những
nhân viên hành chánh - đều thối nát và bất công. Muốn cho dân
một nước được sung sướng, cần phải có một nền cai trị công bằng.
Một nền cai trị công bằng có thể được thực hiện bằng cách nào?
Ðức Phật đã nói rõ trong bài thuyết pháp của Ngài về "10 nhiệm
vụ của nhà vua" (Thập vương pháp, Dasaràjadhamma) như
được thuật trong Jàtaka (chuyện tiền thân)[14].
Dĩ nhiên danh từ "vua" (Ràja), ngày
xưa phải được thay thế bằng danh từ "chính phủ". "Mười nhiệm vụ
của nhà vua" có thể áp dụng cho tất cả những người trong chính
phủ ngày nay, như quốc trưởng, bộ trưởng, lãnh đạo chính trị,
nhân viên hành chánh và tư pháp v.v..
- Nhiệm vụ thứ nhất trong "10 nhiệm
vụ của nhà vua" là sự rộng rãi, bố thí, bác ái (dàna).
Người cai trị không được có một thèm khát và bám víu nào đối với
tài sản, tiền của, mà phải bố thí cho dân được no ấm.
- Thứ hai, một đạo đức tốt đẹp
(giới - sìla). Vua phải không bao giờ sát hại, lừa bịp và
bóc lột kẻ khác, tà dâm, nói lời sai quấy, và rượu chè. Nghĩa
là, ít nhất ông phải theo 5 giới của phật tử tại gia.
- Thứ ba, hy sinh tất cả vì hạnh
phúc của dân (biến xả, pariccàga), ông phải sẵn
sàng từ bỏ mọi tiện nghi cá nhân mình, tên tuổi danh vọng và
ngay cả sự sống của mình vì lợi ích của dân.
- Thứ tư, trực hạnh (ajjava).
Ông phải xa lìa sự sợ hãi và thiên vị khi thi hành nhiệm vụ,
phải thành thật trong ý định, và không được lừa bịp quần chúng.
- Thứ năm, khổ hạnh (tapa).
Ông phải sống một đời giản dị, không được xa hoa. Ông phải biết
chế ngự bản thân mình.
- Thứ sáu, nhu hòa (maddava).
Ông phải có một tính tình hòa nhã.
- Thứ bảy, không thù hận, ác độc
(vô sân - akkodha). Ông không được có tư thù với bất cứ ai.
- Thứ tám, bất hại (avihimsà) không
những có nghĩa là không được làm hại ai, mà còn có nghĩa ông
phải cố tạo hòa bình bằng cách tránh và ngăn ngừa chiến tranh,
hay mọi sự dính dáng đến bạo động và sát hại sinh mạng.
- Thứ chín, nhẫn nhục (khanti).
Ông phải có thể chịu đựng những khó khăn, khổ nhọc và những sự
nhục mạ mà không mất bình tĩnh.
- Thứ mười, không đối lập, không
ngăn cản (avirodha), nghĩa là ông không được đi ngược với
ý chí của toàn dân, không được cản bất cứ biện pháp nào đưa đến
sự lợi lộc cho toàn dân. Nói cách khác ông phải cai trị thuận
với ý chí của dân[15].
Nếu một nước được cai trị bởi một
người có những đức tính ấy, thì dĩ nhiên nước ấy phải rất hạnh
phúc. Nhưng đấy không phải là một điều không tưởng, vì trong quá
khứ đã có những ông vua như A dục vương (Asoka) của Ấn Ðộ đã
thiết lập các vương quốc căn cứ trên những lý tưởng đó.
Thế giới ngày nay luôn sống trong
sợ hãi, nghi ngờ và căng thẳng. Khoa học đã sản xuất những khí
giới có năng lực phá hoại kinh hoàng. Tạo ra những dụng cụ mới
của chết chóc, các cường quốc hăm dọa, thách thức nhau, khoe
khoang không hổ thẹn rằng mình có thể gây nhiều phá hoại tang
thương trong thế giới hơn cường quốc khác.
Họ đã đi quá xa trên con đường điên
rồ ấy đến nỗi ngày nay họ chỉ cần bước thêm một bước, kết quả sẽ
không là gì ngoài ra sự hủy diệt lẫn nhau và hủy diệt toàn thể
loài người.
Vì hoảng sợ trước một hoàn cảnh mà
chính họ đã tạo ra, con người muốn tìm một lối thoát, một giải
pháp nào đó. Nhưng không có giải pháp nào ngoài giải pháp đức
Phật đã đề xướng - thông điệp của Ngài về Bất bạo và Hòa bình,
về tình thương và từ bi, về khoan hồng và thông cảm, về chân lý
và trí tuệ, về sự tôn trọng đối với mọi sự sống, về sự dứt bỏ
ích kỷ, hận thù và bạo động.
Ðức Phật dạy: "Hận thù không bao
giờ dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt được
hận thù. Ðây là một sự thật muôn đời."[16]
"Người ta nên lấy từ bi thắng lướt
hận thù, lấy lòng tốt đối lại với sự xấu xa, lấy bác ái đối lại
lòng ích kỷ, và lấy sự chân thật đối lại xảo trá gian tà."[17]
Con người không thể nào có hạnh
phúc an vui khi còn khao khát ham muốn chinh phục và chế ngự
đồng loại. Phật dạy: "Kẻ chiến thắng nuôi hận thù, kẻ chiến bại
ngã gục trong đau khổ. Người nào từ khước cả thắng lẫn bại, sẽ
được hạnh phúc an vui."[18]
Chiến thắng duy nhất đem lại hòa
bình hạnh phúc là chiến thắng tự tâm. "Người ta có thể chinh
phục hàng triệu người trong trận chiến, nhưng chỉ có người nào
tự chinh phục được mình mới là người chiến thắng vinh quang
nhất."[19]
Bạn sẽ bảo rằng tất cả điều đó rất
đẹp, rất cao cả đáng quý, nhưng không thực tiễn. Thế thì có thực
tiễn khi thù ghét nhau chăng? Khi giết nhau chăng? Khi sống mãi
trong hãi hùng và nghi kỵ như thú dữ trong rừng chăng? Ðiều này
thực tiễn và tiện nghi hơn chăng? Có bao giờ ác độc được điều
phục bằng ác độc? Có bao giờ hận thù được dập tắt bởi hận thù?
Nhưng đã có những trường hợp, ít nhất những trường hợp cá nhân,
trong đó hận thù được thoa dịu bằng thương yêu và lòng tốt, ác
độc được chinh phục bằng thiện cảm. Bạn sẽ bảo điều này có thể
có thật, có thể thực hiện trong những trường hợp cá nhân, nhưng
nó không bao giờ thực hiện được trong những giao tiếp quốc gia
và quốc tế. Con người quả đã bị thôi miên, tâm lý bị rối ren mờ
ám và bị lừa dối bởi những từ ngữ dùng để tuyên truyền chính trị
như "quốc gia", "quốc tế", "tổ quốc". Tổ quốc là gì nếu không
phải là một đoàn thể rộng lớn gồm nhiều cá nhân? Một quốc gia
hay tổ quốc không hành động, chính cá nhân mới hành động. Cái gì
cá nhân nghĩ và làm chính là cái mà quốc gia nghĩ và làm. Cái gì
có thể áp dụng cho cá nhân cũng có thể áp dụng cho quốc gia, xứ
sở. Nếu trên bình diện cá nhân, hận thù có thể dập tắt hận thù,
thì trên bình diện quốc gia và quốc tế chắc chắn điều này cũng
có thể thực hiện. Ngay cả trong trường hợp một cá nhân riêng rẽ
muốn đối lại hận thù bằng yêu thương, người ta cũng cần phải có
một lòng can đảm siêu việt, một sự mạnh dạn, một lòng tin vô bờ
đối với sức mạnh tâm hồn. Có phải chăng ta còn cần nhiều cố gắng
hơn thế nữa trong trường hợp giao tiếp quốc tế? Nếu khi bảo rằng
"không thực tế" ý bạn muốn nói "không dễ dàng" thì là bạn nói
đúng. Nhất định nó không dễ dàng. Tuy nhiên ta cần cố thử. Bạn
sẽ bảo sự cố gắng ấy hơi mạo hiểm. Nhưng chắc chắn là nó không
mạo hiểm hơn sự thử một chiến tranh nguyên tử.
Thật là một an ủi cho chúng ta ngày
nay khi nghĩ rằng ít nhất trong lịch sử cũng đã có một vị vua
cai trị lỗi lạc, đã có can đảm, đức tin và kiến giải đủ để áp
dụng lời dạy này của Phật về bất bạo động, hòa bình và yêu
thương trong sự cai trị một đế quốc rộng lớn về cả nội bộ lẫn
ngoại giao - đó là A dục vương, vị hoàng đế Phật tử của xứ Ấn
(thế ký thứ III trước Tây lịch), "người con yêu quý của các thần
linh" như ông đã được mệnh danh.
Ban đầu ông theo gương vua cha
(Bindusàra) và ông nội (Chandragupta) muốn hoàn thành việc chinh
phục bán đảo Ấn; ông chiếm xứ Kalinga, sát nhập nó vào đế quốc
mình. Hàng nghìn người bị giết, bị thương, bị tra tấn và bắt làm
tù binh trong trận này. Nhưng về sau, khi trở thành một Phật tử,
ông hoàn toàn thay đổi nhờ giáo lý của Phật. Trong một tuyên
ngôn danh tiếng của ông khắc trên đá (Trụ đá XII, như ngày
nay thường gọi) còn có thể đọc được ngày nay, nói đến sự
chinh phục Kalinga, Hoàng đế A dục đã công khai bày tỏ sự "sám
hối" của ông và nói ông "vô cùng đau đớn khi nghĩ về sự tàn sát
ấy". Ông tuyên bố công khai rằng ông sẽ không bao giờ rút gươm
ra để làm một việc chinh phục nào nữa, nhưng ông "mong mỏi tất
cả mọi chúng sinh sống trong bất bạo sẽ tự chủ, tập luyện sự an
tĩnh và ôn hòa." Ðiều này dĩ nhiên Người con yêu chuộng của các
thần linh (A dục vương) xem là chiến thắng bằng chánh pháp
(dhammavijaya). Không những tự ông chối bỏ chiến tranh, mà
ông còn tỏ lòng mong muốn rằng "con ta và cháu ta đừng nghĩ về
cuộc chinh phục nào khác nữa xem như đáng làm... Chúng hãy chỉ
nghĩ đến một sự chinh phục duy nhất là chinh phục bằng Ðạo đức.
Ðiều ấy lợi ích cho cả đời này và đời sau".
Ðó là tấm gương độc nhất trong lịch
sử nhân loại về một người chiến thắng vinh quang đang ở tột đỉnh
của uy quyền, còn có sức mạnh để tiếp tục những cuộc chinh phục
đất đai, nhưng lại từ bỏ chiến tranh và bạo động mà trở về với
hòa bình, bất bạo.
Ðấy là một bài học cho thế giới
ngày nay. Vị hoàng đế cai trị một đế quốc rộng lớn đã công khai
quay lưng lại với chiến tranh, bạo động và đón nhận thông điệp
của bất bạo và hòa bình. Không có bằng chứng lịch sử nào nói
rằng có vua láng giềng nào đã lợi dụng sự sùng đạo của vua A dục
để tấn công ông về quân sự, hay có một cuộc nổi loạn nào trong
đế quốc ông lúc sinh thời. Trái lại hòa bình ngự trị khắp trên
lãnh thổ, và ngay cả những xứ bên ngoài vương quốc ông cũng
dường như đã chấp nhận sự lãnh đạo nhân từ của ông.
Thật điên rồ khi nói đến việc duy
trì hòa bình bằng cách làm quân bình các thế lực hay bằng sự hăm
dọa của vũ khí nguyên tử. Thế lực của binh bị chỉ có thể phát
sinh ra sợ hãi, chứ không phát sinh hòa bình. Trong sợ hãi không
thể nào có hòa bình lâu dài và thực sự. Từ sợ hãi chỉ có thể
sinh ra thù hận, ác độc, có thể bị đè nén một thời gian nhưng
sẵn sàng bùng dậy và trở nên hung bạo bất cứ lúc nào. Hòa bình
chân thật chỉ có thể ngự trị trong một không khí của lòng thương
(Mettà, tâm từ), sự thân thiện, không có sợ hãi nghi ngờ
và nguy hiểm.
Phật giáo nhằm mục đích kiến
tạo một xã hội ở đấy người ta từ bỏ sự tranh chấp thế lực rất
tai hại, ở đấy an tĩnh và hòa bình ngự trị, xa hẳn chiến thắng
và chiến bại, ở đấy sự áp bức người vô tội phải bị mạnh mẽ tố
cáo, ở đấy một người tự thắng mình được kính trọng hơn những
người chiến thắng hàng triệu bằng chiến tranh quân sự và kinh
tế, ở đấy hận thù được chinh phục bằng yêu thương và sự ác độc
bằng thiện cảm, ở đấy thù hận, ganh ghét, ác độc và tham lam
không nhiễm độc tâm trí con người, ở đấy từ bi là nguyên động
lực cho hành động, ở đấy tất cả, kể cả những sinh vật nhỏ bé
nhất, đều được đối xử với lòng yêu thương lân mẫn, ở đấy cuộc
sống bình an hòa điệu - trong thế giới đầy đủ về vật chất - được
hướng về mục đích cao quý nhất, sự thực chứng chân lý tối hậu,
Niết-bàn.
Sửa lại và bổ túc (theo bản
dịch Pháp ngữ năm 1978),
Phật đản 2542 (1998),
Tỳ kheo ni Trí Hải
Ghi chú:
[1]
M I (PTS), pp. 30-31.
[2]
Ibid, pp.490 ff.
[3]
Muốn biết thêm về đề tài này, nên xem tác phẩm bổ ích thú vị
của André Bareau nhan đề "Ðời sống và tổ chức các cộng đồng
Phật giáo ngày nay tại Tích Lan", Pondichéry, 1957.
[4]
Sigàla, Trường bộ, kinh 31.
[5]
S I (PTS), p.234
[6]
Ðể ý, trong năm giới, giới thứ ba chỉ cấm tà dâm hay ngoại
tình; còn trong tám giới, thì giới thứ ba cấm hẳn sự dâm dục
trong thời gian tu bát quan trai.
[7]
Xem chương XV và XVI, "History of Buddhism in Ceylon" của
Walpola Rahula (Colombo, 1956).
[8]
MA I, PTS, 290. Những tu sĩ thành phần của Tăng già, không
được có của riêng, nhưng có quyền xử dụng tài sản chung gọi là
Tăng kỳ vật - Sanghika.
[9]
D I (Colombo, 1929), p.101
[10]
Xem phần Bát chánh đạo - Chánh mạng, Chương Bốn.
[11]
A (Colombo, 1929), pp. 786 ff.
[12]
D III (Colombo, 1929), p. 115
[13]
A (Colombo, 1929), pp. 232-233
[14]
Jàtaka I, 260, 399; II 400; III, 274, 320; V, 119, 378.
[15]
Ở đây ta thấy điều thú vị là năm nguyên tắc, panchasìla
- năm giới - trong nền chính trị ngoại giao của Ấn Ðộ cũng
giống với những nguyên tắc mà vua A-dục, vị vua Phật giáo Ấn,
đã áp dụng cho nền hành chánh của triều đại ông vào thế kỷ ba
trước tây lịch. Từ ngữ pancasìla cũng là danh từ Phật
giáo.
[16]
Dhp., I, 5
[17]
Ibid., XVII, 3
[18]
Ibid., XV, 5
[19]
Ibid., VIII, 4