Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Hiện tượng Tái Sanh
"Đống
xương tàn (của tất cả thể xác) của một người,
Xuyên qua các kiếp sống nầy trong một chu kỳ,
Có thể cao vọi như một ngọn núi
- Bậc cao minh nói như vậy."
-- Itivuttaka
---o0o---
Theo
triết học Phật Giáo (Vi Diệu Pháp, Abhidhamma), ba hiện tượng
có thể xuất hiện cho con người thấy trong giai đoạn hấp
hối là: Nghiệp (Kamma), Hiện Tượng Của Nghiệp (Kamma Nimita),
và Biểu Hiện Lâm Chung (Gati Nimitta).
Kamma (Nghiệp) là vài hành động
tốt hay xấu trong đời sống hoặc ngay trước phút lâm chung.
Nếu người hấp hối đã phạm một trong năm trọng tội (Garuka
Kamma, ngũ nghịch trọng tội: giết cha, giết mẹ, giết một
vị A La Hán, làm tổn thương Đức Phật và chia rẽ Tăng Chúng),
hoặc người ấy đã đắc một trong các tầng Thiền-na (Jhana),
thì chứng nghiệm hiện tượng Kamma trước khi chết. Những hành
động thiện hay bất thiện đặc biệt ấy có năng lực
thật mạnh, chen vào, áp đảo tất cả các hành động khác và
biểu hiện thật rõ rệt trước mắt người hấp hối.
Nếu không có Nghiệp nặng như vậy
thì có thể tiến trình tư tưởng cuối cùng của người ấy
đeo níu theo cái Nghiệp vừa tạo liền trước khi chết, gọi
là Asanna Kamma, hay Cận Tử Nghiệp. Cận Tử Nghiệp là hành
vi cuối cùng hay hành vi nào mà chập tư tưởng cuối cùng
nhớ đến, liền trước khi lâm chung.
Nếu không phải Cận Tử Nghiệp thì
có thể là Thường Nghiệp (Acinna Kamma), hành động tốt hay
xấu thường ngày, những việc ta thường làm hằng ngày, hay
những việc mà ta thưòng nhớ đến và ưa thích hơn hết.
Trong trường hợp nầy, nếu người hấp hối là một bác sĩ
thì thấy đang săn sóc bệnh nhân, một tỳ khưu thì thấy đang
thuyết pháp, một tên trộm thì thấy đang cạy cửa, khoét vách
v.v...
Nếu ba trường hợp trên không xảy
ra thì Nghiệp Tích Trữ (Katatta Kamma), xuất hiện. Nghiệp Tích
Trữ gồm tất cả những trường hợp không có kể trong ba
loại Nghiệp trên, những hành động, tốt hay xấu, không quan
trọng.
Hiện Tượng của Nghiệp - Kamma
Nimitta - là những biểu tượng xuất hiện trong tâm thức
của người hấp hối dưới hình thức sắc, thinh, hương,
vị, xúc hay pháp, tức là những hình sắc, âm thanh, mùi, vị
hay tư tưởng mạnh mẽ, quen thuộc, trong nếp sanh hoạt hằng
ngày, tốt hay xấu. Như người đồ tể thì thấy con dao hay
con thú chết, bác sĩ thì thấy bệnh nhân, người mộ đạo
thì thấy các món lễ vật v.v...
Biểu Hiện Lâm Chung - Gati Nimitta - là
vài dấu hiệu có liên quan đến cảnh giới mà người hấp
hối sắp được tái sanh vào. Do đó, mặt người sắp lâm
chung thường lộ vẽ vui sướng hoặc đau khổ. Khi triệu
chứng phát sanh, nếu là xấu thì ta có thể sửa chữa kịp
thời bằng cách giảng kinh hay nói pháp để tạo đối tượng
tốt đẹp trong tư tưởng người sắp chết. Những Biểu
Hiện Lâm Chung (Gati Nimitta) [1] thường là lửa, rừng, vùng sơn
cước, thai bào mẹ, thiên cung v.v...
Dầu sanh trong trường hợp bất đắc
kỳ tử, tiến trình tư tưởng của người sắp chết vẫn
diễn tiến và đối tượng của chập tư tưởng cuối cùng
ấy là một trong ba hiện tượng: Nghiệp, Hiện Tượng của
Nghiệp và Biểu Hiện Lâm Chung (Kamma, Kamma Nimitta, và Gati
Nimitta).
Thí dụ một người sắp lâm chung và
tái sanh vào cảnh người. Đối tượng của chập tư tưởng
cuối cùng là một vài hành động (nghiệp) tốt. Tiến trình
tư tưởng cuối cùng của người ấy diễn ra như sau: Luồng
Bhavanga ngưng rung động trong hai chập rồi diệt. Liền khi
ấy Ngũ Môn Hướng Tâm (manodvaravajjana) phát sanh rồi tắt.
Kế đến một giai đoạn tâm lý quan trọng, tiến trình Javana,
lúc bình thường phát sanh liên tiếp trong bảy chập, nhưng
trong tư tưởng cuối cùng của một kiếp sống thì chỉ phát
sanh trong năm chập liên tiếp. Tiến trình nầy không có năng
lực tái tạo mà chỉ có nhiệm vụ điều hòa kiếp sống
mới (abhinavakarana). Trong trường hợp của người sắp tái
sanh trở lại vào cảnh người, đối tượng của luồng
Javana cuối cùng là một nghiệp tốt, vậy là tâm thiện. Đăng
Ký Tâm (tadalambhana citta), có phận sự ghi nhận, có thể phát
sanh trong hai chập, mà cũng có thể không phát sanh. Đó là
chập tư tưởng tối hậu của kiếp sống hiện tại. Có người
lầm tưởng rằng Tử Tâm (cuti citta) tạo điều kiện để tái
sanh. Trong thực tế, Tử Tâm không có nhiệm vụ đặc biệt nào.
Chính tiến trình Javana tạo điều kiện cho sự tái sanh sắp
đến.
Cái chết thật sự đến lúc Tử Tâm
(cuti citta) chấm dứt. Kể từ đó tâm và vật thực (cittaja và
aharaja) không còn tạo năng lực vật chất nữa. Chỉ còn
một loại năng lực vật chất phát sanh do hơi nóng (utuja)
tiếp tục tồn tại đến khi cơ thể vật chất tan rã [2].
Lúc Tử Tâm vừa tắt thì Thức-tái-sanh
phát hiện cùng một lúc cũng phát sanh "mười-thành-phần
của thân", "mười-thành-phần của giống" nam hay
nữ, và "mười-thành-phần của ý căn" [3].
Như vậy, theo Phật Giáo, tánh chất
nam hay nữ đã được quyết định ngay lúc bà mẹ thọ thai và
do Nghiệp tạo điều kiện, chớ không phải là một sự hòa
hợp ngẫu nhiên của minh châu và tinh trùng.
Sự diệt tắt của tâm trong kiếp
vừa qua là cơ hội để cho một tâm mới phát sanh trong kiếp
sống kế. Tuy nhiên, không có cái gì vĩnh cửu, nguyên vẹn
đơn thuần, không biến đổi, được chuyển từ quá khứ
sang hiện tại. Cũng như bánh xe lăn tròn trên đường, mỗi
một lúc chỉ có một điểm của bánh xe chạm với đường.
Nói một cánh chính xác, chúng ta chỉ sống trong từng chập tư
tưởng. Ta chỉ sống trong hiện tại và hiện tại nhất định
phải trôi vào dĩ vãng.
Trong tiến trình luôn luôn biến đổi
của đời sống, trong một khoảnh khắc, mỗi chập tư tưởng,
sanh, trụ, rồi diệt, và trong khi diệt, chuyển tất cả năng
lực và cảm giác đã ghi nhận cho chập tư tưởng kế. Vậy
mỗi chập tư tưởng mới gồm những năng lực tiềm tàng
của chập trước và thêm vào đó chút gì khác. Đến lúc
chết, chập tư tưởng cuối cùng chấm dứt, để nhường
chổ cho chập tư tưởng kế phát sanh trong kiếp sống mới.
Vậy, cái thức mới gồm chứa tất cả những kinh nghiệm
trong quá khứ, vì tất cả những cảm giác trong quá khứ đều
được ghi nhận trong cái tâm biến đổi, và tất cả tiềm năng
đều được chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác, mặc dầu
phần vật chất tan rã. Vì lẽ ấy, đôi khi có người còn
nhớ được kiếp quá khứ của mình. Nếu trí nhớ chỉ thùy
thuộc khối não, tức nhiên không thể có người nhớ được
tiền kiếp của mình.
"Chúng sanh mới là sự biển
hiện của luồng nghiệp trong hiện tại, không giống hệt cũng
không đồng nhất với chúng sanh trước kế đó.
"Những thành phần (ngũ uẩn)
tạo nên chúng sanh ấy không giống hệt cũng không phải là
một với thành phần (ngũ uẩn) đã tạo nên chúng sanh trước.
Tuy nhiên, cũng không phải hoàn toàn là khác vì cả hai cùng
nằm chung trong một luồng nghiệp, mặc dầu biểu hiện dưới
hình thức mới, trong thế gian mà ngũ quan ta có thể thâu
nhận, và ta cho là có một chúng sanh mới."
Theo Phật Giáo, cái chết là sự
chấm dứt của đời sống tâm-vật-lý của cá nhân. Chết là
sự diệt tắt của: sinh lực (ayu) - tức đời sống tâm linh
và vật lý (jivitidriya), hơi nóng (usma) và thức (vinnana).
Chết không phải là sự tiêu diệt
hoàn toàn của một chúng sanh, mặc dầu kiếp sống chấm
dứt. Cái tiềm lực làm sống chúng sanh không bị tiêu diệt.
Cũng như ánh sáng đèn điện là
biểu hiện bề ngoài mà ta có thể thấy của luồng điện vô
hình, chúng ta là biểu hiện bề ngoài của luồng nghiệp vô
hình. Bóng đèn có thể vỡ và ánh sáng có thể tắt, nhưng
luồng điện vẫn tồn tại, và ánh sáng có thể phát hiện
trở lại nếu ta đặt vào đấy một bóng đèn khác. Cùng
thế ấy, sự tan rã của thể xác không làm xáo trộn luồng
nghiệp lực, và sự chấm dứt của thức hiện tại dẫn đến
sự phát sanh của công thức mới. Tuy nhiên, không có gì trường
tồn bất biến, như một thực thể đơn thuần, "chuyển"
từ hiện tại sang tương lai.
Trong trường hợp nêu trên, người
chết tái sanh trở lại vào cảnh người, chập tư tưởng
cuối cùng tất nhiên là một loại tâm thiện. Thức-tái-sanh
(patisandhi vinnana) là tâm thiện ấy phát sanh, tự nhiên
chuyển đến hạt minh châu và tinh trùng tương xứng trong
cảnh người và tắt, nhường cho những chập Bhavanga nối
tiếp.
Như thế, lúc chết, luồng nghiệp
lực vẫn luôn luôn trôi chảy, không có một điểm thời gian
gián đoạn. Ngay lúc chết những chập tư tưởng vẫn liện
tục kế tiếp như trong đời sống.
Hiện tượng tử-sanh, chết và tái
sanh, diễn ra tức khắc, dầu ở nơi nào, cũng như làn sóng
điện phát ra trong không gian được thâu nhận tức khắc vào
bộ máy thâu thanh. Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển từ
cái chết ngay đến tái sanh, không trãi qua một trạng thái
chuyển tiếp nào (antarabhava). Phật Giáo thuần túy không chủ
trương có linh hồn người chết tạm trú ở một nơi nào,
chờ đến khi tìm được một nơi thích hợp để đầu thai
[4].
Trong kinh Milinda Panha (Mi-lin-đa Vấn
Đạo), đức vua Milinda hỏi Đại Đức Nagasena:
"Kính bạch Đại Đức, nếu có
một người chết ở đây và tái sanh vào cảnh Trời Phạm
Thiên và một người khác cũng chết ở đây và tái sanh tại
Kashmir, người nào sanh ra trước?
- Tâu Đại Vương, cả hai cùng sanh
ra một lượt. Đại Vương sanh ở đâu?
- Kính bạch Đại Đức, trong một làng
nọ gọi là Kalasi.
- Làng Kalasi cánh đây bao xa?
- Bạch Đại Đức, lối 200 dặm.
- Tâu Đại Vương, Kashmir cách đây
bao xa?
- Bạch Đại Đức, lối 20 dặm.
- Bây giờ xin Đại Vương hãy nghĩ
đến làng Kalasa.
- Bạch Đại Đức tôi đã nghĩ xong.
- Và bây giờ Đại Vương xin hãy nghĩ
đến Kashmir.
- Bạch Đại Đức tôi đã nghĩ xong.
- Trong khi nghĩ đến hai nơi, nơi nào
tư tưởng của Đại Vương đến mau và nơi nào đến chậm?
- Bạch Đại Đức cả hai đều
bằng nhau.
- Vậy, tậu Đại Vương, cùng một
thế ấy, người chết ở đây và tái sanh vào cảnh Phạm Thiên
không chậm hơn người chết ở đây và tái sanh ở Kashmir.
- Kính bạch Đại Đức, Ngài ban thêm
cho con một thí dụ khác.
- Tâu Đại Vương, nếu hai con chim đang
bay trên trời và cả hai cùng đáp một lúc. Một con đáp trên
ngọn cậy cao. Còn con kia thì đáp trên ngọn cây thấp. Tâu
Đại Vương nghĩ thế nào, cái bóng của con nào rọi xuống
đất trước?
- Cả hai cái bóng đều rọi xuống cùng
lúc. Không có cái nào rọi trước cái nào rọi sau. [5]"
---o0o---
Vấn đề có thể được nêu lên:
"Tìm đâu luôn luôn có minh châu và tinh trùng sẵn sàng để
tiếp nhận thức-tái-sanh?"
Theo Phật Giáo, số chúng sanh vô cùng
tận, vô hạn định, và nơi trú ngụ của chúng sanh cũng
vậy. Bào thai cũng không phải là nơi duy nhất cho sự tái
sanh.
Quả địa cầu chỉ là một điểm
nhỏ, so với vũ trụ bao la, không phải là cảnh giới duy
nhất có thể trú ngụ. Và con người cũng không phải là chúng
sanh duy nhất. [6]
Vậy, tin rằng luôn luôn có một nơi
thích ứng để tiếp nhận thức tái sanh cũng không có gì quá
đáng. Nếu ta tung lên trời một hòn gạch, hòn gạch sẽ rơi
trở xuống, và luôn luôn có một điểm nào trên mặt đất
sẵn sàng tiếp nhận hòn gạch.
Chú thích:
[1] Quyển "The Tibetan Book of the
Dead" của tác giả Dr W.T. Evans-Wents, có trình bầy đầy
đủ chi tiết
[2] Theo Phật Giáo năng lực vật
chất do bốn yếu tố tạo nên:
a) Kamma (nghiệp), là hành
động thiện hay bất thiện trong quá khứ.
b) Utu, là sự biến đổi vật chất hay Tejo, nguyên tố lửa,
có đặc tánh nóng hay lạnh, trong Tứ Đại.
c) Citta, gồm tâm vương và tâm sở.
d) Ahara, sức dinh dưỡng trong thực vật.
[3] Xem Chương 25
[4] Dr Evans-Wents viết rằng theo kinh sách
Tây Tạng, có một trạng thái chuyển kiếp từ khi chết đến
lúc đầu thai. Linh hồn người chết phải ở trạng thái ấy
trong 1, 2, 3, 4, 5, 6 hay 7 tuần lễ, cho đến 49 ngày ("The
Tibetan Book of the Dead", trang XLII - XLIII, 58, 160, 165). Quan
niệm như vậy trái với giáo lý của Đức Phật (Xem "A
Manual of Abhidhamma).
[5] "Milinda's Questions", phần
1, tr. 127-128.
[6] Trên dãy ngân hà có lối một
triệu hành tinh trên ấy có sự sống -- "The Nature of the
Universe", Fred Hoyle, tr. 87-89.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com