Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Đức Phật và Thân Quyến (I)
"Phục
vụ thân bằng quyến thuộc là một phước báu" -- Hạnh
Phúc Kinh [1]
---o0o---
Vua Tịnh Phạn Muốn Gặp Đức Phật.
Hay
tin Đức Phật đang ngự tại thành Rajagaha (Vương Xá) và đang
truyền bá Giáo Pháp, Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) càng nóng lòng
muốn gặp người con trí tuệ. Chín lần liên tiếp, đức vua
truyền lệnh cho chín vị sứ thần đến triệu thỉnh Đức
Phật về Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ). Trái ngược với lòng ước
mong chờ đợi của vua, khi gặp được Đức Phật, tất cả
chín vị sứ thần đều lấy làm thỏa thích, ở lại nghe Pháp,
xin xuất gia, và đắc Quả A La Hán. Khi đã đắc Quả A La Hán
các Ngài không còn thiết tha đến việc trần gian nên không
nghĩ đến sứ mạng là thỉnh Đức Phật về. Đức vua lấy
làm thất vọng. Sau cùng, Ngài truyền lệnh cho người tôi
trung thần, Kaludayi, vốn là bạn thân của Đức Phật lúc còn
là Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), đi thỉnh Đức Phật.
Kaludayi phụng mạng nhưng xin một điều là cho phép ông xuất
gia theo Phật.
Như các vị sứ thần trước,
Kaludayi cũng được diễm phúc nghe Đức Phật thuyết giảng
Giáo Pháp, đắc Quả A La Hán và xin xuất gia. Nhưng khác với
các vị kia là ông không quên sứ mạng. Ông thiết tha khẩn
cầu Đức Phật về thăm phụ hoàng, nay đã già yếu. Lúc
ấy nhằm mùa khô ráo, có thể đi đó đây dễ dàng, Đức
Phật lên đường trở về quê nhà với rất đông đệ tử.
Trên con đường dài từ Rajagaha (Vương Xá) đến Kapilavatthu
(Ca Tỳ La Vệ), Ngài chia từng chặng ngắn, vừa đi vừa
thuyết Pháp, hai tháng sau đã đến nơi.
Mọi việc đã được chuẩn bị để
Đức Phật ngự tại huê viên của Hoàng Thân Nigrodha, dòng
Sakya (Thích Ca). Khi Đức Phật đến nơi, các vị cao niên ngã
mạn dòng Thích Ca nghĩ rằng: "Vị đạo sĩ kia chẳng qua
là em, cháu của chúng ta, nên bảo các người trẻ tuổi chào
đón đạo sĩ, chúng ta sẽ ở phía sau, và ngồi yên một
chỗ, không đảnh lễ Đức Phật". Để khắc phục tánh
kiêu căng và cảm hóa các vị cao niên trong hoàng tộc, Đức
Phật bay lên giữa lừng trời và dùng thần thông, hóa phép
Yamaka Patihariya, "đôi thần thông lực", làm cho nước
và lửa cùng một lúc phát sanh ra từ lỗ chân lông [2].
Thấy oai lực thần thông của Đức
Phật, Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) đến đảnh lễ Ngài và nói
rằng đây là sự đảnh lễ lần thứ ba [3]
Tất cả các vị hoàng thân khác đều
noi gương đức vua, cung kính đảnh lễ Phật.
Khi mọi người đảnh lễ xong, Ngài
bay xuống và ngồi trên một ghế bành cao đã được dọn
sẵn. Tất cả hoàng thân quốc thích đều khiêm tốn ngồi
lại xung quanh, im lặng lắng nghe Đức Phật giảng.
Vừa lúc ấy, một trận mưa bất
ngờ rơi xuống, gây nên những lời bàn tán sôi nổi giữa các
vị hoàng thân về hiện tượng kỳ lạ ấy.
Kế đó, Đức Phật giảng kinh
Vessantara Jataka [4], dạy rằng trường hợp tương tợ đã
xảy ra trong một tiền kiếp, khi Ngài thuyết Pháp trước cử
tọa gồm họ hàng thân quyến. Tất cả đều lấy làm thỏa
thích.
Nhưng khi chia tay ra về, không ai
biết bổn phận là phải cung thỉnh Đức Phật và chư đệ
tử về trai tăng. Chính Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) cũng
không biết, vì nghĩ rằng, "Nếu Thái tử con ta không về
hoàng cung thì còn đi đâu?" nên Ngài trở về cung điện
truyền bày yến tiệc và đón chờ Đức Phật.
Đức
Phật Đi Trì Bình và Tế Độ Đức Vua Suddhodana
Vì không có lời thỉnh cầu riêng nên
Đức Phật chuẩn bị dắt đoàn đệ tử đi trì bình. Trước
khi đi, Đức Phật suy xét như sau: "Khi về đến quê nhà,
chư Phật trong quá khứ có đi ngay vào nhà thân bằng quyến
thuộc để độ thực hay cũng đi từ nhà này sang nhà khác".
Sau khi nhận thấy rằng các Ngài đi trì bình chứ không về
nhà, thì Đức Phật cũng làm theo, dẫn chư tăng đi theo đường
phố trong thành Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) khất thực.
Khi nghe Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà
La) thuật lại hành động thoáng qua hình như bất lịch sự
của Đức Phật, vua lấy làm bàng hoàng khó chịu, đi ra tìm
Ngài và sau khi đảnh lễ, nói:
"Này Thái Tử con, sao con nỡ làm
tổn thương thể thống hoàng tộc như vậy? Cha lấy làm
nhục nhã khi thấy con đi khất thực trong chính cái thành
phố mà thường ngày con chỉ đi bằng kiệu vàng. Tại sao con
nỡ làm nhục cha như vậy?"
Trước sự ngạc nhiên của vua cha,
Đức Phật trả lời:
"Tâu Đại Vương, Như Lai không
hề làm nhục Đại Vương! Như Lai chỉ hành động theo đúng
truyền thống của dòng dõi Như Lai"
- Nhưng này Thái Tử con! Có phải chăng
truyền thống trong dòng dõi hoàng tộc là nuôi mạng sống
bằng cách đi khất thực? Hoàng tộc chúng ta là dòng dõi
của vị chiến sĩ anh hùng Mahasammata chứ không phải chỉ là
hạng người tầm thường phải nhục nhã đi khất thực để
nuôi mạng.
- Tâu Đại Vương, hẳn không phải
truyền thống của hoàng tộc là khất thực độ mạng. Nhưng
đây là truyền thống của chư Phật. Hằng ngàn vị Phật
trong quá khứ vẫn đi trì bình khất thực.
Rồi, đứng luôn ngoài đường, Đức
Phật khuyên vua cha như sau:
"- Không dể duôi phóng dật, luôn
luôn giữ chánh niệm (khi đi trì bình, đứng trước cửa người
ta). Người trang nghiêm hạnh chánh hạnh ấy sẽ sống an vui
hạnh phúc ở thế gian này và trong những kiếp tương lai.
[5]"
Nghe đến đây Đức Vua Tịnh Phạn
chứng ngộ Chân Lý, đắc Quả Tu Đà Hườn . Vua liền đến
gần rước bát của Đức Phật và thỉng Ngài cùng chư đệ
tử về hoàng cung trai tăng. Sau khi độ thực xong, Đức Phật
lại giảng như sau:
"Hãy trang nghiêm hành chánh hạnh.
Không nên dể duôi phóng dật. Người trang nghiêm giữ chánh
hạnh ấy sẽ sống an vui hạnh phúc, trong thế gian này và
thế gian sắp đến. [6]"
Vua nghe xong, đắc Quả Tư Đà Hàm (Sakadagami,
Nhứt Lai), tầng nhì trong bốn tầng thánh và bà Pajapati Gotami
đắc Quả Tu Đà Hườn.
Về sau, có người thuật lại rằng
trước kia, khi thái tử tu khổ hạnh trong rừng, có lời đồn
đến tai vua rằng vì không chịu nổi lối sống ép xác khắc
khổ nên thái tử đã từ trần, nhưng vua nhất định không
tin. Đức Phật giảng cho vua đoạn kinh Dhammapala Jataka [7] (Trì
Pháp Túc Sanh Truyện), thuật lại rằng trong một tiền kiếp
cũng có lần vua từ chối không chịu tin rằng con của mình
chết, khi có người báo như vậy. Lúc ấy người ta chỉ đống
xương, bảo là xương của người con, nhưng vua không tin.
Lần này, khi nghe xong thời Pháp, vua đắc Quả A Na Hàm (Anagami,Bất
Lai), tầng thánh thứ ba.
Trong giờ phút hấp hối, vua lại
được nghe Đức Phật giảng Pháp lần cuối cùng và đắc
Quả A La Hán trước khi nhắm mắt. Sau khi hưởng quả phúc
trong bảy ngày, Đức Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) băng hà. Lúc
ấy Đức Phật khoảng bốn mươi tuổi.
Đức
Phật và Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La)
Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La), thường
được gọi là Rahulamata, hay Bimba, hay Bhaddakaccana, là con của
vua Suppabuddha, trị vì dân tộc Koliya, và Hoàng hậu Pamita, em
gái Vua Suddhodana [8]. Công Chúa Yasodhara (Da Du Đà La) đồng
tuổi với Thái Tử Siddhattha. Lúc bà lên mười sáu, Thái Tử
Siddhattha được vua Suppabuddha chọn làm phò mã sau một cuộc
biểu dương võ nghệ. Lúc bấy giờ đời sống của công chúa
thật vô cùng dồi dào phong phú và an vui hạnh phúc. Năm hai mươi
chín tuổi, chính trong ngày bà hạ sanh hoàng nam, người con
duy nhất tên Rahula (La Hầu La), vị Thái tử trầm tư mặc tưởng
và thông minh xuất chúng, ông chồng yêu quý của Bà, quyết
định từ bỏ thế gian để tìm lối thoát ra khỏi mọi khổ
đau của đời sống. Không một lời từ giã người vợ trẻ
đẹp và hiền lành đáng quý, Thái tử rời bỏ cung điện
trong đêm tối, để lại bà trọn vẹn trọng trách chăm nom và
giáo dục con thơ. Đến sáng, lúc bà đang trông chờ Thái tử
để đón mừng như thường lệ thì được tin Ngài đã ra đi.
Niềm sầu muộn của bà không sao kể xiết. Bà đã mất bảo
vật quý giá nhất trong đời. Cung vàng điện ngọc lúc bấy
giờ đối với bà chỉ là ngục thất tối tăm. Nguồn an ủi
độc nhất của bà là hoàng tử sơ sanh.
Lúc ấy có nhiều hoàng thân quý
tộc dòng dõi Kshatriya ngắm nghé đến hỏi, nhưng bà từ
chối tất cả và luôn luôn trung thành với ông chồng yêu quý.
Khi nghe chồng sống đời tu sĩ, bà cởi hết vòng vàng châu báu
và đắp y vàng. Trong khoảng thời gian sáu năm trường, lúc
Đạo Sĩ Gotama cố gắng chiến đấu để chứng ngộ Đạo
Quả Vô Thượng thì Công Chúa Yasodhara luôn luôn theo dõi mọi
hành động và cũng sống giống như vậy.
Khi Đức Phật trở về quê nhà ở
Kapilavatthu và khi Đức Vua Suddhodana thỉnh về cung điện trai
tăng thì tất cả mọi người đều ra đảnh lễ, nhưng công
chúa Yasodhara thì không. Bà nghĩ rằng: "Nếu vạn nhất ta
còn giữ được trong sạch một đức hạnh nào, thì chính Đức
Thế Tôn sẽ quang lâm đến đây. Chừng ấy ta sẽ đảnh lễ
Ngài".
Sau khi độ thực xong, Đức Phật
trao bát lại cho Đức Vua cầm, dắt theo hai vị đại đệ
tử, bước vô phòng công chúa, ngồi trên chỗ đã dọn sẵn
cho Ngài và dạy: "Hãy để công chúa tùy tiện đảnh lễ
Như Lai theo ý thích. Không nên nói gì."
Lúc nghe Đức Phật về, công chúa
truyền lệnh cho tất cả thị nữ đều mặc y phục màu vàng.
Khi Đức Phật vào phòng và ngồi yên nơi, công chúa nhẹ nhàng
bước đến, dụm hai chân lại, quỳ xuống, khấu đầu trên
chân Ngài và đảnh lễ theo ý bà, rồi cung kính ngồi lại
một bên. Lúc ấy Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) mở lời tán dương
đức hạnh của bà và ngợi khen lòng trung thành trong sạch
của bà như sau:
"Bạch Đức Thế Tôn, khi công chúa
nghe tin Ngài đắp y vàng thì nàng cũng đắp y vàng; khi được
biết Ngài chỉ độ thực một lần trong ngày, nàng cũng làm
như vậy; khi được biết Ngài không nằm giường cao, nàng cũng
nằm dưới thấp; khi được biết Ngài từ bỏ không dùng tràng
hoa và dầu thơm, nàng cũng từ bỏ những vật ấy; khi các hoàng
thân quý tộc cậy người đến mai mối, nàng không màng nhìn
đến người nào. Công chúa quả thật tiết hạnh vẹn toàn."
- "Không phải chỉ trong kiếp
sống cuối cùng của Như Lai mà trong tiền kiếp, nàng đã
bảo vệ, kỉnh mộ và trung thành với Như Lai."
Đức Phật tiếp lời vua Tịnh Phạn
và, để an ủi bà trước khi Ngài rời cung điện, thuật câu
chuyện Candakinnara Jataka, nhắc lại mối liên hệ giữa Ngài và
công chúa trong những kiếp quá khứ [9].
Về sau, khi Đức vua Suddhodana băng hà,
Hoàng Hậu Pajapati Gotami xuất gia Tỳ khưu ni (Bhikkhuni), Công
Chúa Yasodhara cũng xuất gia và đắc Quả A La Hán.
Trong hàng tín nữ, bà Yasodhara đứng
đầu những vị đã chứng đắc đại thần thông (Maha Abhinna)
[10] và nhập diệt lúc bảy mươi tám tuổi.
Tên bà không được nhắc đến trong
kinh Therigatha nhưng những câu kệ đáng chú ý của bà có ghi
trong kinh Apadana [11]
Đức
Phật và Rahula (La Hầu La)
Rahula (La Hầu La) là con duy nhất
của Thái Tử Siddhattha và Công Chúa Yasodhara. Ngài sanh ra đúng
nhằm ngày mà Thái Tử Siddhattha quyết định thoát ly thế
tục. Tin mừng Công chúa hạ sanh hoàng nam đến trong lúc Thái
tử đang trầm tư chiêm nghiệm trong ngự uyển. Trái với lệ
thường khi người ta có được đứa con đầu lòng, thái tử
không quá đỗi vui mừng. Ngài than: "Rahu jato, bandhanam
jatam!", "Một 'Rahu' đã ra đời, lại thêm một trói
buộc!" Do đó đức vua cha đặt tên cháu nội là Rahula
[12].
Rahula trưởng thành trong cảnh không
cha, được mẹ và ông nội nuôi dưỡng. Lúc Đức Phật trở
về Kapilavatthu lần đầu tiên, Rahula lên bảy. Vào ngày thứ
bảy sau khi Đức Phật lưu lại quê nhà, Công chúa Yasodhara
mặc áo chỉnh tề cho con và chỉ Đức Phật, bảo con:
"Này con, nhìn xem kìa, vị sa môn
đắp y vàng, trông như một vị Phạm Thiên giữa đám hai
vạn tu sĩ! Ngài là cha của con và Ngài là một kho tàng vô giá,
vô cùng vĩ đại. Từ ngày Ngài xuất gia, chúng ta chưa được
gặp. Hãy chạy đến và xin Ngài trao lại cho con phần gia
sản của con. Con nói như thế này: "Kính thưa cha, con là
hoàng tử. Sau khi lên ngôi, con sẽ là một vị vua cai trị
cả vương quốc. Hiện giờ con đang cần gia sản. Kính xin cha
trao cho con, vì tài sản của cha tức là của con."
Cậu bé ngây thơ Rahula (La Hầu La) làm
theo lời mẹ dạy, đến gần Đức Phật và, một cách vô cùng
kính mến, bạch:
"Bạch Sa Môn, chỉ cái bóng của
Ngài cũng làm cho con hết sức mát mẻ an vui."
Khi độ ngọ xong, Đức Phật rời hoàng
cung. Rahula theo chân Ngài và bạch: "Xin Ngài trao gia tài
cho con". Và nói thêm nhiều chuyện nữa, nhưng không ai ngăn
cản. Đức Phật cũng không cấm đi theo. Khi về đến ngự
uyển là nơi Ngài lưu trú, Đức Phật nghĩ:
"Nó muốn gia tài của cha, nhưng
tài sản trong thế gian quả thật đầy phiền não. Như Lai
sẽ ban cho nó gia tài cao thượng gồm bảy phần mà Như Lai đã
thâu đạt dưới cội bồ đề. Như Lai sẽ giúp cho nó trở
thành sở hữu chủ của một gia tài siêu thế."
Đức Phật gọi Ngài Sariputta (Xá
Lợi Phất), dạy làm lễ xuất gia cho Rahula (La Hầu La).
Lúc ấy lên bảy, Rahula thọ lễ
xuất gia.
Khi nghe tin người cháu nội thân yêu
xuất gia thì vua Suddhodana vô cùng sầu muộn. Ngài ngự giá đến
gặp Đức Phật và từ tốn xin Phật từ rày về sau không
ban truyền lễ xuất gia cho ai mà chưa được cha mẹ cho phép.
Vua nói: "Khi Đức Thế Tôn lìa bỏ thế gian ra đi, Trẫm
vô cùng đau xót. Rồi đến Nanda, và nay lại có trường hợp
Rahula. Tình thương của người cha mất con quả thật cũng dường
như bị ai cắt da, xẻ thịt, cắt gân, cắt luôn cả xương,
cả tủy. Xin Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh nguyện này,
sẽ không ban hành lễ xuất gia cho một người con nào mà chưa
được cha mẹ cho phép." [13]
Đức Phật sẵn sàng chấp thuận
lời thỉnh cầu và ban hành thành luật.
Thật rất khó tưởng tượng một
cậu bé có thể sống đời cao thượng theo bậc xuất gia. Nhưng
Sa-di Rahula (La Hầu La) vừa thông minh vừa đặc biệt biết vâng
lời và tôn trọng giới luật lại rất chuyên cần tu học.
Kinh sách ghi rằng, mỗi sáng Sa di dậy thật sớm, ra ngoài
bốc lên tay một nắm cát, tung ra và nguyện: "Mong rằng
ngày hôm nay ta học được nhiều như bao nhiêu cát đây!"
Một trong những bài kinh đầu tiên mà
Rahula được nghe giảng là Ambalatthika Rahulovada Sutta, nhấn
mạnh tầm quan trọng của hạnh chân thật.
Ngày kia, thấy Đức Phật từ xa đến,
Sa-di Rahula dọn dẹp chỗ ngồi và để sẵn nước cho Đức
Phật rửa chân. Khi rửa xong, Đức Phật chừa lại một ít nước
trong thau và hỏi:
"Rahula, con thấy còn lại một chút
nước trong thau không?"
-- Bạch Đức Thế Tôn, dạ con thấy.
-- Cùng thế ấy, Rahula, đời Sa-di
quả thật không có nghĩa lý gì nếu còn nói dối mà không
biết hổ thẹn.
Rồi Đức Phật tát hết nước trong
thau ra và dạy:
"Đời Sa-di quả thật như bỏ đi,
nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn."
Rồi Đức Phật lật úp cái thau
xuống và dạy:
"Đời Sa-di quả thật bị đảo
lộn, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn."
Cuối cùng Đức Phật lật trở lên
và để ngay ngắn cái thau và dạy:
"Đời Sa-di quả thật trống không
và vô vị, nếu còn nói dối mà không biết hổ thẹn."
"Với người nói dối mà không
biết hổ thẹn, Như Lai tuyên bố, không có điều tội lỗi
xấu xa nào mà người ấy có thể không làm. Do đó, Rahula,
con phải cố gắng lập tâm quyết định: - Dầu trong lúc chơi
đùa, tôi cũng không nói dối."
Nhấn mạnh tầm quan trọng của hãnh
chân thật bằng những thí dụ dễ hiểu, Đức Phật giải thích
cho Sa-di Rahula giá trị của sự suy luận và đức hạnh căn
bản, với hình ảnh thông thường, trẻ con cũng có thể lãnh
hội:
"- Rahula, cái gương để làm gì?"
"- Bạch Đức Thế Tôn, để
phản chiếu lại hình ảnh."
"- Cùng thế đó, Rahula, trước
khi hành động con phải dò xét, suy gẫm tận tường. Trước
khi nói phải dò xét, suy gẫm. Trước khi nghĩ gì phải dò xét
và suy gẫm tận tường.
"Bất luận điều gì con muốn làm
(bằng thân), phải suy gẫm thế này: 'Bây giờ, chính điều này
mà ta muốn thực hiện bằng thân, hành động này có hại cho
ta, hay có hại cho kẻ khác, hoặc có hại cho ta và cho kẻ khác'.
Vậy thì hành động này là bất thiện, hành động này đem
lại phiền não và đau khổ. Hành động như vậy, con phải tránh,
không nên làm.
"Nếu đàng khác, khi suy luận,
con nhận định rằng: 'Bây giờ chính hành động này mà ta
muốn thực hiện bằng thân, sẽ không có hại cho ta, không có
hại cho ai khác, cũng không có hại cho ta và cho kẻ khác.'Như
vậy, đó là hành động thiện, sẽ đem lại an vui và hạnh
phúc. Hành động như thế con phải làm."
Và Đức Phật dạy Sa-di Rahula (La
Hầu La) phải dùng trí suy luận trong lúc, và sau khi, làm điều
gì.
"Trong khi đang làm điều chi
bằng thân, con phải suy gẫm: 'Bây giờ hoạt động này mà ta
đang làm bằng thân, có hại cho ta không? Hoặc có hại cho
kẻ khác không? Hoặc có hại cho ta và kẻ khác không?'
"Nếu khi suy luận, con nhận định
rằng: 'Bây giờ hành động này mà ta đang làm bằng thân, có
hại cho chính ta, có hại cho kẻ khác, hoặc có hại cho ta và
cho kẻ khác.' Như vậy, đó là hành động bất thiện, sẽ đem
lại phiền não và đau khổ. Con phải ngưng ngay, không tiếp
tục hành động ấy nữa.
"Nếu, khi suy luận, con nhận định
rằng: 'Bây giờ hành động này mà ta đang làm bằng thân, không
có hại cho chính ta, không có hại cho kẻ khác, cũng không có
hại cho ta và cho kẻ khác.' Như vậy, đó là hành động
thiện, sẽ đem lại an vui và hạnh phúc. Hành động như thế,
con phải lặp đi lặp lại nhiều lần."
Và Đức Phật thêm:
"Nếu, khi suy luận, con nhận định
rằng: 'Bây giờ, hành động này mà ta đã làm là bất thiện.'
Con phải sám hối, phải nói với vị thầy tế độ hay với
bậc thiện trí thức, hoặc với các đạo hữu trong Giáo
Hội. Đã sám hối, con phải chừa trong tương lai, không nên tái
phạm."
Những lời khuyên dạy về hành động
thiện, bất thiện, bằng khẩu và ý cũng giống như vậy.
Đức Phật giảng giải dong dài
rằng muốn giữ tâm trong sạch, điều chánh yếu là phải luôn
luôn suy luận, và Ngài kết thúc bài Pháp như sau :
"Như thế ấy con phải cố gắng
luyện tập, luôn luôn suy gẫm tận tường để giữ trong
sạch mọi hành động bằng thân, khẩu, ý."
Trong bộ Samyutta Nikaya (Tạp A Hàm)
[14], có một chương đặc biệt ghi lại những lời Đức
Phật dạy Sa-di Rahula về đặc tướng vô thường của vạn
pháp.
Vì Đại Đức Rahula xuất gia lúc
tuổi còn nhỏ nên Đức Phật năng chăm lo khuyên bảo và
dẫn dắt Ngài trên con đường chân chính.
Kinh Sutta Nipata ghi chép rằng Đức
Phật thường lặp đi nhắc lại Sa-di Rahula bài kệ sau đây
[15]:
"Hãy
từ bỏ dục lạc của ngũ trần - vừa êm dịu vừa đầy
sức quyến rũ. Với Niềm Tin vững chắc, hãy từ bỏ gia đình
để làm người chấm dứt mọi đau khổ.
Hãy
tìm chỗ ở nơi xa xôi, ẩn dật, thanh vắng và an tĩnh.
Hãy
tri túc trong sự độ thực.
Không
luyến ái y, bát, những vật dụng cần thiết và chỗ ở.
Không
nên trở lại thế gian này.
Hãy
nghiêm trì giới luật và thu thúc lục căn.
Hãy
thận trọng canh phòng nhục dục ngũ trần và hãy nhàm chán
thế gian.
Hãy
tránh xa những hào nhoáng bề ngoài của sự vật. Hãy trau
dồi tâm nhất điểm và tĩnh lặng trong sạch. Hãy phát
triển những gì không nuôi dưỡng lớp mặt bề ngoài. Hãy
loại trừ tánh ngã mạn ngủ ngầm trong tâm. Khi tận diệt ngã
mạn như vậy, con sẽ đi xuyên qua cuộc sống trong thanh bình
an lạc tuyệt đối."
Đến năm lên mười tám, nhân dịp
một tư tưởng luyến ái phát sanh có liên quan đến thân hình
đẹp đẽ của mình, Sa-di Rahula (La Hầu La) lại được nghe
một bài Pháp thâm diệu về sự phát triển tinh thần. Ngày
nọ thầy Sa-di theo Đức Phật trì bình. Phong độ oai nghiêm
quý trọng của hai vị tu sĩ xem tựa hồ như thớt ngự tượng
dõng dạc cùng đi với tượng con quý phái, như thiên nga của
đức vua dắt con lội trên mặt hồ trong cung điện, như hổ
chúa oai phong và hùm con lẫm liệt. Cả hai Ngài đều có thân
hình đẹp đẽ, cả hai đều thuộc dòng mã thượng và vương
tôn, cả hai đều từ ngai vàng cất bước ra đi. Trong lúc chiêm
ngưỡng dung nhan Đức Thế Tôn, Sa-di Rahula (La Hầu La) nghĩ
rằng: "Ta cũng đẹp đẽ như Đức Thế Tôn, cha ta. Thân
hình của Đức Phật vô cùng đẹp đẽ và thân hình ta cũng
vậy. [16]"
Đức Phật đọc ngay tư tưởng bất
thiện ấy. đang đi, Ngài dừng chân, quay lại dạy như sau:
"Bất luận hình dáng đẹp đẽ
hay xấu xa, hay thế nào đi nữa, cũng phải được quan sát như
vầy: Cái này không phải của ta (N'etam mama); cái này không
phải là ta (N'eso'ham' asami); cái này không phải là linh hồn
của ta (Na me so atta) [17]"
Thầy Rahula cung kính bạch với Đức
Phật có phải ta chỉ nên xem hình thể như thế ấy không. Đức
Phật dạy rằng ta phải xem tất cả năm uẩn (khandha) [18] như
thế ấy.
Sau khi nghe lời giáo huấn của Đức
Thế Tôn, Thầy Rahula xin phép không đi theo vào làng trì bình
như mọi hôm. Thầy dừng lại dưới cội cây, ngồi tréo chân
theo lối kiết già, thẳng mình và chú tâm hành thiền.
Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), thầy
tế độ của Sa-di Rahula (La Hầu La), lúc ấy không biết người
đệ tử đang hành thiền về một đề mục mà Đức Phật
vừa dạy, thấy thầy Rahula ngồi kiết già dưới cội cây thì
khuyên nên chú tâm về pháp niệm hơi thở (Anapana Sati).
Sa-di Rahula lấy làm phân vân khó xử
bởi vì Đức Phật dạy một đề mục và vị thầy tế độ
lại dạy một đề mục hành thiền khác.
Thầy liền hành theo lời vị thầy
tế độ, niệm hơi thở rồi sau đó, đến bạch với Đức
Phật xin được giải thích về điểm này. Đức Phật dẫn
giải lời Ngài đã khuyên dạy về đề mục sắc uẩn và các
uẩn khác, rồi Ngài vắn tắt đề cập đến một vài đề
mục hành thiền khác với công hiệu của mỗi đề mục như
tạm thời chế ngự tâm bất thiện nào v.v... Sau cùng Ngài
giải thích về pháp niệm hơi thở-vào, thở-ra (Anapana Sati).
Làm đúng theo lời dạy của Đức
Phật, Sa Di Rahula gia công chăm chú hành thiền và không bao lâu,
khi nghe kinh Cula Rahulovada Sutta [19], đắc Quả A La Hán.
Mười bốn năm sau khi Đức Phật Thành
Đạo, Sa Di Rahula thọ cụ túc giới, xuất gia tỳ khưu. Ngài
viên tịch trước Đức Phật và Đức Xá Lợi Phất. Đại Đức
Rahula nổi tiếng là người rất tôn trọng kỷ luật. Những
vần thơ trong kinh Theragatha, phiên dịch sau đây, được xem là
của Ngài:
"Ta
được diễm phúc hai lần thọ hưởng phước báu và được
bạn hữu gọi là 'La Hầu La hữu phước', vì là cả hai --
con của Đức Phật và người đã Chứng Ngộ Chân Lý.
Thật
vậy! (Ta) không còn trở lại nữa (trên thế gian).
A La
Hán, ta xứng đáng nhận lãnh lòng tôn kính cúng dường của
nhân loại.
Chúng
sanh bị nhục dục ngũ trần làm mù quáng.
Những
khát vọng của cơ thể vật chất bao trùm lên chúng sanh như
một màng lưới kín mít.
Chúng
sanh bị bao phủ trong tham ái, không khác nào cá nằm trong
rọ.
Nhưng
nay ta đã xoay lưng, không còn nghe tiếng gọi của ngũ trần.
Đã
cắt đứt và phá vỡ mọi thằng thúc,
Đã
tận diệt tham ái, bứng tận gốc rễ.
Giờ
đây ta mát mẻ, thanh bình, an lạc.
Bao
nhiêu lửa đã bị dập tắt." [20]
Chú thích:
[1] Mangala Sutta, Kinh Hạnh Phúc. Xem
Phụ Bản I.
[2] Yamaka Patihariya, thường được
gọi "đôi phép thần thông", là hai phép lạ phát sanh
cùng một lúc. Đây là thần thông mà chỉ một vị Phật
mới có. Do phép này, nước và lửa phun ra cùng một lỗ chân
lông. Bản chú giải Patisambhida-magga ghi rằng lửa và nước có
nghĩa là tia sáng đỏ và tia sáng xanh.
[3] Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) đảnh
lễ lần thứ nhất khi thấy hoàng tử lúc mới sanh, gác chân
lên đầu tóc Đạo Sĩ Asita. Lần thứ nhì trong lễ đi cày,
khi thấy Thái tử ngồi hành thiền.
[4] Xem Jataka, Túc Sanh Truyện, Tập
VI, trang 479, số 547; Dhammapadatthakatha, Tập III, trang 163-164. Câu
chuyện lý thú này, dài nhất trong bản chú giải Túc Sanh
Truyện, cho thấy đức độ quảng đại khoan hồng của Đức
Phật thật là vô hạn.
[5] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 168.
[6] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 169.
[7] Túc Sanh Truyện, số 447
[8] Xem bảng gia phả, cuối Chương 1
[9] Bản chú giải bộ Anguttara Nikaya,
Tăng Nhứt A Hàm, ghi: "Một vị Phật chỉ có bốn đệ
tử đắc đại thần thông (Maha Abhinna). Những đệ tử khác
chỉ có thể nhớ được đến 100.000 Kalpa (châu kỳ), không
thể hơn. Nhưng vị đắc đại thần thông có thể nhớ lại
vô số kỷ nguyên. Trong thời Đức Phật chỉ có bốn vị đắc
đại thần thông là hai vị đại đệ tử, vị Trưởng lão
Bakkula và Đức Bhadda Kaccana, tức bà Yasodhara (Da Du Đà La).
Chỉ có bốn vị ấy."
[10] Trang 584-590. Nơi đây, bà thuật
lại mối liên hệ giữa bà và Bồ Tát khi Ngài gặp Đức
Phật Dipamkara và phát nguyện trở thành Phật.
[11] Đúng ngữ nguyên "La"là
bị cột lại hay bị nắm lấy; và "Rahu" là dây trói
buộc.
[12] Xem Buddhist Legends, phần I, trang
219.
[13] Majjhima Nikaya, Trung A-hàm, 61
[14] Samyutta Nikaya, phần 2 trang 244-253
và Kindred Sayings, phần 2 trang 164-168.
[15] Sutta Nipata, Rahula Sutta. Chalmers'
"Buddha's Teachings", trang 81
[16] Majjhima Nikaya, Trung A-hàm, số 62.
[17] Xem Anattalakkhana Sutta, Kinh Vô Ngã
Tướng, bài Pháp thứ nhì, chương 6, trang 117-119.
[18] Cái được gọi là chúng sanh
gồm năm uẩn. Ngoài năm uẩn ấy không có chúng sanh. nếu
bỏ năm uẩn ra sẽ không còn gì tồn tại. Không có linh hồn
hay bản ngã trong một uẩn riêng lẻ, không có linh hồn trong
năm uẩn hợp lại, mà linh hồn cũng không có ngoài năm uẩn
ấy.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com