Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Phụ
Bản 4
Tam Bảo Kinh
(Ratana Sutta)
---o0o---
1. Bất
luận ai tụ hội nơi đây, hoặc chúng sanh trên địa cầu
hoặc chúng sanh ở cảnh Trời, ngưỡng mong tất cả đều an
lành hạnh phúc! Tất cả hãy chăm chú lắng nghe những lời này
[1].
2. Tất cả hãy chú tâm suy niệm; hãy
biểu lộ lòng từ ái đối với chúng sanh trong cảnh người;
ngày đêm hằng dâng cúng [2]. Hãy tận tình hộ trì những người
ấy.
3. Dù kho tàng quý giá nào trên đời
hay trong một cảnh giới khác, dù châu báu [3] trong những
cảnh Trời [4], không có gì sánh bằng Đức Thế Tôn.
Đúng vậy, Đức
Phật là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
4. Bậc Thiện Trí [5] dòng Sakya (Thích
Ca) đã viên mãn Chấm Dứt phiền não, Ly Dục và thành đạt
trạng thái Vô Sanh Bất Tử Vô Thượng. Không có gì sánh
bằng Giáo Pháp (Dhamma).
Đúng vậy, Giáo Pháp
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc.
5. Các bậc Thánh Nhân mà Đức Phật
Tối Thượng tán dương, được mô tả là "tâm an trụ không
gián đoạn" [6]. Không có gì như tâm an trụ ấy.
Đúng vậy, Giáo Pháp
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
6. Tám Vị Thánh ấy [7], hợp thành
bốn đôi, được bậc thiện trí tán dương; Các Ngài là
những bậc đáng được cúng dường, là đệ tử của Đấng
Thiện Thệ - vật dâng cúng đến các Ngài sẽ đem lại quả
phúc dồi dào.
Đúng vậy, Tăng Già
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
7. Với ý chí kiên trì vững chắc,
sống trọn vẹn trong Giáo Huấn của Đức Gotana, không ái
dục, các Ngài đã thành đạt những gì cần thành đạt [8] và
thể nhập quả vị Bất Tử, các Ngài an nhàn thọ hưởng
cảnh Thanh Bình An Lạc.
Đúng vậy, Tăng Già
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
8. Như trụ cột [9] chôn sâu trong lòng
đất không thể bị gió bốn phương lay chuyển, cùng thế
ấy, Như Lai tuyên ngôn, con người chánh trực đã chứng ngộ
Tứ Thánh Đế cũng như vậy.
Đúng vậy, Tăng Già
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
9. Những bậc đã thấu đạt rõ ràng
các Thánh Đế mà bậc Trí Tuệ thậm thâm đã giáo truyền,
dầu dể duôi phóng dật, vẫn không tái sanh đến lần thứ tám
[10].
Đúng vậy, Tăng Già
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
10. Người chứng ngộ Minh Sát [11],
ba điều kiện [12] nếu còn, sẽ được loại trừ , đó là -
thân kiến [13], hoài nghi [14], và giới cấm thủ. Không bao
giờ sa đọa vào bốn khổ cảnh [15] và không còn có thể vi
phạm sáu trọng nghiệp bất thiện [16].
Đúng vậy, Tăng Già
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
11. Bất luận hành động nào mình đã
làm bằng thân, khẩu hay ý, bậc Thánh Nhân không thể giấu;
bởi vì người đã thấy Con Đường không thể còn phạm
lỗi.
Đúng vậy, Tăng Già
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
12. Cũng dường như cây trong rừng
[17] đua nhau đâm chồi nở mọng trên ngọn [18] khi mùa hè
bắt đầu ấm nóng [19], Giáo Pháp Tối Thượng dẫn đến
Niết Bàn đã được giáo truyền vì Lợi Ích Tối Thượng cũng
cùng thế ấy.
Đúng vậy, Giáo Pháp
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
13. Đức Thế Tôn Vô Thượng, bậc
Toàn Giác, bậc Thánh Nhân đã ban bố, bậc đã Đem Đến và
Giáo Truyền Pháp Cao Siêu Tối Thượng.
Đúng vậy, Đức
Phật là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
14. Quá khứ đã chấm dứt, vị lai
không còn nữa, tâm không dính mắc trong một kiếp tái sanh
vị lai, tham ái không khởi sanh [20] - các bậc trí tuệ ấy siêu
thoát như ngọn đèn kia chợt tắt [21].
Đúng vậy, Tăng Già
là châu báu thù diệu.
Do sự thật này, ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
15. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù là
chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức
Thế Tôn, bậc được chư Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn
vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
16. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù là
chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức
Thế Tôn, bậc được chư Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn
vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc!
17. Chúng ta tụ hội nơi đây, dù là
chúng sanh ở địa cầu hay thiên giới, hãy đảnh lễ Đức
Thế Tôn, bậc được chư Thiên và nhân loại kỉnh mộ tôn
vinh. Ngưỡng mong được an lành hạnh phúc! [22]
---o0o---
Chú Giải Tam
Bảo Kinh:
[1] Bản Chú Giải mô tả trường
hợp Đức Thế Tôn giảng bài Kinh này như sau:
Vào một lúc nọ dân chúng trong thị
trấn Vesali trù phú cùng một lúc gặp phải ba thiên tai -
nạn chết đói, nạn bị ma quái phá rầy và nạn dịch hạch.
Trước tiên, vì mùa màng thất thoát, những người nghèo không
đủ ăn, phải chết đói. Xác chết nằm la liệt, mùi hôi thúi
thu hút cảnh âm bất thiện, và sau cùng bệnh dịch hạch
truyền nhiễm tai hại.
Trước những tai trời ách nước vô
cùng nguy hiểm này, trong lúc dân chúng đang xôn xao bấn loạn
thì bỗng nhiên họ nảy sanh ý nghĩ cung thỉnh Đức Phật, lúc
ấy đang lưu ngụ tại thành Rajagaha (Vương Xá) gần đó.
Hai vị quý tộc dòng Licchavi hướng
dẫn một phái đoàn hùng hậu liền lên đường sang Rajagaha
hầu Phật và thuật lại tình trạng đau thương vô cùng
tuyệt vọng của họ. Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh
cầu và cùng Đức Ananda và đông đảo chư Tăng rời Rajagaha
sang sông Ganges, đến Vesali.
Khi Đức Phật vừa đến thành Vesali
một trận mưa tầm tã ào xuống, quét sạch thành phố và
thanh lọc ô nhiễm trong không khí. Khi ấy Đức Phật giảng bài
Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) cho Ngài Ananda, rồi dạy Ngài cùng
với chư Tăng và đông đảo dân chúng vừa đi khắp thị
trấn vừa đọc tụng Kinh này. Ngài Ananda ôm theo bình bát
của chính Đức Phật, đựng nước trong đó, và rải nước
có đọc kinh cùng khắp. Bản Chú Giải ghi rằng khi chư Tăng
vừa đọc những chữ "yam kinci", thì các chúng sanh
bất thiện trong cõi âm hoảng sợ rút lui. Bệnh dịch hạch cũng
dần dần tan biến. Sau khi chư Tăng đọc kinh để bảo vệ dân
chúng trong thành phố xong thì trở về Hội Trường, có Đức
Phật chờ nơi đó.
Nhân cơ hội, Đức Phật giảng
giải bài Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) cho toàn thể đám đông.
[2] Bản Chú Giải ghi rằng người ta
vẽ hình chư Thiên, hoặc đục khắc trên gỗ, rồi làm
những bàn thờ nhỏ treo trên cây và hằng ngày đem lễ vật
đến cúng.
[3] Danh từ Ratana có nghĩa là trân châu
bảo ngọc quý giá. Nơi đây danh từ Ratana, bảo vật, hàm ý
là Tam Bảo: Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Già. Theo đúng
ngữ nguyên, danh từ "ratana" gồm ba âm - ra, ta và na.
"Ra" là thu hút, "ta" là vượt xuyên qua và
"na" là dẫn đến. Phật, Pháp, Tăng gọi chung là
Ratana, châu báu, bởi vì Tam Bảo có đức hạnh thu hút tâm
của bậc thiện trí; là phương tiện đưa chúng sanh vượt
qua đại dương của vòng luân hồi (Samsara); và dẫn đến các
cảnh Trời và Niết Bàn cho những ai tìm nương tựa nơi Tam
bảo.
[4] Danh từ cảnh Trời ở đây bao
gồm luôn cả những cảnh Phạm Thiên (Brahma) từ thấp nhất
đến cao nhất - Akanittha (Bản Chú Giải).
[5] Gọi như vậy vì Ngài đã hoàn toàn
tận diệt mọi ái dục (Bản Chú Giải).
[6] Magga (Đạo) được gọi là
Anantarika Samadhi, tâm định liên tục, không gián đoạn, bởi
vì Phala (Quả) theo sau tức khắc không có thời gian gián đoạn.
[7] Tám vị Thánh Nhân ấy là: (i)
Vị đã chứng đắc Sotapatti, Tu Đà Huờn Đạo, và (ii) Tu Đà
Huờn Quả; (iii) vị đã chứng đắc Sakadagami, Tư Đà Hàm Đạo,
và (iv) Tư Đà Hàm Quả; (v) vị đã chứng đắc Anagami, A Na Hàm
Đạo, và (vi) A Ha Hàm Quả, (vii) vị đã chứng đắc Arahant,
A La Hán Đạo, và (viii) A La Hán Quả.
Như vậy tính từng cá nhân thì có tám
vị, tính cặp thì có bốn đôi.
[8] Tức A La Hán Quả.
[9] Indakhila-Inda, có nghĩa Sakka, Vua
Trời Đế Thích. Danh từ Indakhila có nghĩa là trụ cột đã
được vững chắc chôn sâu trong lòng đất, vừa cao vừa
vững như trụ cột của Vua Trời Sakka.
Bản Chú Giải ghi rằng những
Indakhila (trụ cột) này được trồng bên trong thành phố để
làm đẹp, hoặc bên ngoài như một dấu hiệu bảo vệ. Thông
thường những trụ cột này, hình bát giác, được xây lên
bằng gạch hoặc bằng gỗ tốt. Phân nửa cây trụ được chôn
sâu dưới đất - do đó có thành ngữ: vững chắc như trụ
cột Indakhila.
l10] Người đã thành đạt tầng Thánh
đầu tiên (Sotapatti, Tu Đà Huờn) chỉ còn tái sanh nhiều
lắm là bảy lần.
[11] Tức lần đầu tiên nhoáng thấy
Niết Bàn.
[12] Trong mười Samyojana, thằng thúc
(kiết sử), tức mười dây trói buộc cột chặt chúng sanh vào
vòng luân hồi, ba thằng thúc đầu được loại trừ.
[13] Thân Kiến, Sakkayaditthi - sự tin
tưởng cho rằng thân này hiện hữu, tức quan niệm có một
linh hồn hay tự ngã thường còn. Đây là một trong ba "Mannana",
hay ý niệm, phát sanh liên quan đến thân. Hai ý niệm kia là
Tanha (ái dục) và Mana (ngã mạn) -- Bản Chú Giải. Buddhist
Psychology, trang 257.
[14] Lòng hoài nghi (i) Buddha, Đức
Phật; (ii) Dhamma, Giáo Pháp; (iii) Sangha, Tăng Già; (iv) Giới
Luật; (v) quá khứ,;(vi) vị lai; (vii) quá khứ và vị lại;
(viii) Paticca Samuppada, Định Luật Phát Sanh Tùy Thuộc. Xem
Buddhist Psychology, trang 260.
[15] Bốn khổ cảnh là: địa ngục (niraya),
cảnh thú, cảnh ngạ quỷ (Peta) và A-tu-la (Asura).
[16] Abhithanani, sáu trọng nghiệp
bất thiện là: (i) giết mẹ, (ii) giết cha, (iii) giết một
vị A La Hán, (iv) làm chảy máu Đức Phật (v) chia rẽ Tăng Già
và (vi) khư khư chấp thủ tà kiến (Niyata Miccha Ditthi).
[17] Vanappagumbe. Bản Chú Giải giải
thích rằng danh từ này do hai thành phần họp lại, Vane
pagumbo, chồi cây trong rừng. Nơi đây định sở cách
(locative) được dùng trong ý nghĩa của chỉ chủ cách
(nominative).
[18] Đây cũng vậy, định sở cách
được dùng trong ý nghĩa chỉ chủ cách.
[19] Cũng như vào lúc đầu mùa Hạ cây
cối đâm ở mọng xinh tươi sáng sủa, Giáo Pháp (Dhamma) với
nhiều lời dạy quý báu, được Đức Phật ban truyền rộng
rãi, cũng tươi sáng vinh quang cùng thế ấy.
[20] Một vị A La Hán không còn tái
sanh vì đã tạo nghiệp trong quá khứ. Những hành động của
các Ngài được gọi là Kiriya (hành) không tạo nghiệp vì đã
không còn mảy may ô nhiễm tham ái.
[21] Chỉ ngọn đèn được thắp lên
để cúng dường chư Thiên trong thành phố, ngay lúc ấy vừa
tắt.
[22] Khi Đức Bổn Sư chấm dứt
thời Pháp thoại và ban rải những tư tưởng an lành hạnh phúc
đến dân chúng thành Vesali, Vua Trời Sakka (Đế Thích) đọc
tụng ba câu kệ cuối cùng và bái từ Đức Phật, cùng với
đoàn tùy tùng ra về.
Bản Chú Giải ghi rằng Đức Thế Tôn
thuyết giảng bài Kinh này liên tiếp bảy ngày tại Vesali.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com