.
THỰC
TẠI HIỆN TIỀN
Viên Minh
--- o0o ---
[05]
NGŨ UẨN
Nếu không ai hỏi gì nữa chúng ta bắt
đầu nói đến ngũ uẩn. Ngũ uẩn là gì?
Ngũ uẩn chính là tiến trình phức tạp chồng chất của xúc, thọ, tưởng, tư.
Nó cũng qua một sự vận hành tương tự như những vận hành mà chúng ta
đã bàn ở trên.
Xúc |
→ |
Thọ |
→ |
Tưởng |
→ |
Tư |
↓ |
|
↓ |
|
↓ |
|
↓ |
Sắc uẩn |
|
Thọ uẩn |
|
Tưởng uẩn |
|
Hành uẩn |
Xúc (= căn + trần +
thức) chính là sắc trong ngũ uẩn xin lưu ý cho
điều đó. Thường thường người ta hiểu sắc là
nội sắc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ngoại sắc; sắc, thinh, hương, vị,
xúc. Có người còn tệ hơn nữa, hiểu sắc là đối
tượng của mắt. Nhưng chữ sắc dùng trong ngũ uẩn không phải là các
loại sắc trên. Sắc trong ngũ uẩn là một sự tập khởi do sự vận hành tương
tác giữa căn, trần, thức mà có, chứ
không phải một dữ kiện hoặc một thực thể có sẵn. Sắc này không mang tính
vật chất cố định mà mang tính duyên
khởi của một nhóm tâm-sinh-vật-lý.
Khi có động dụng tương
giao tương tác (xúc) giữa 3 yếu tố trên thì sắc uẩn tập
khởi, nếu không động dụng thì sắc uẩn
không tập khởi, chứ không phải sắc uẩn luôn luôn có mặt. Như vậy trong sắc
uẩn vẫn có sắc căn và sắc trần nhưng
đó là
điều kiện cần chứ không đủ để hình thành sắc uẩn. Ví dụ có mắt, có
sắc nhưng nếu không có tác động hỗ tương thì
không khởi sắc uẩn. Đây là
điều cực kỳ quan trọng. Cho nên, xin
quý vị ghi nhớ cho điều này. Mọi người
ngồi đây, có căn, có trần mà sắc uẩn
có thể không khởi lên. Xưa nay người ta hay nghĩ rằng (các Chú giải
cũng vậy) sắc uẩn là cái thân xác thịt mình
đây. Không phải vậy, không phải mình
sinh ra là đã có cái ngũ uẩn cố
định sẵn trong này. Chỉ khi nào nó tác
động lên, hiện hành cái tiến trình
này: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn - thì ngũ uẩn mới có
mặt.
Chữ sắc này - sắc uẩn - mà Suzuki trong thiền
luận dịch là form thì không đúng. Ngay cả cái
sắc là đối tượng của mắt mà
dịch là form cũng đã không
đúng rồi. Vì sao vậy? Vì form chỉ nói
lên được mặt hình tướng chứ chưa nói
đến màu sắc, ánh sáng, chất liệu
v.v... Vậy không thể dịch form được. "Sắc
uẩn" không thể nào dịch ra tiếng Anh
được. Cứ để nó là Rūpa-khandha vậy thôi.
Cả căn, trần, thức hợp lại với nhau thì
mới gọi là sắc uẩn. Đặc biệt trong sắc uẩn hàm
chỉ luôn cả cái xúc của ý và pháp.
Cũng đừng nói "thân
ngũ uẩn" trừ phi ám chỉ bản ngã. Nói thân này gồm có tứ
đại hay thân tứ đại là
đúng hơn vì trong sắc uẩn này, tứ
đại chỉ là một phần thôi. Tứ
đại tạo nên một số căn.
Tứ đại tạo nên một số trần. Nhưng đến
thức là hết tứ đại rồi phải không? Vậy
mà thức có dự phần vào sắc uẩn. Sắc uẩn là một diễn biến, một
động dụng sinh khởi do tác duyên của căn
- trần - thức xin nhắc lại như vậy.
Bây giờ, mình có thể phá sắc uẩn
được không?
Khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, v.v... mình trả
mắt, tai về cho căn, sắc, thanh về cho trần,
và nhãn thức, nhĩ thức về cho thức, không cho dính líu gì với nhau.
Trả không phải mắt đừng nhìn sắc, tai
đừng nghe âm thanh... mà trả bằng tuệ
quán Vipassanā Ñāna,
để tham ưu không xen vào can thiệp. Khi ấy, sắc uẩn sẽ không thể
phát sanh, nghĩa là mình phá được sắc uẩn. Có
đúng không? Có được không? Có ai phản bác chuyện này không? Nó rất
vi tế. Vì sao mà mình phải phân tích cho kỹ, nói cho rõ ràng như vậy? Nếu
không thấy cái sắc uẩn ấy thì mình không thể phá nó
được. Mình tu mà mình cứ diệt sắc căn
trần, nghĩa là trừ bỏ căn thân và
trần cảnh này cho mau giải thoát, vậy là sai lầm rồi. Mình có hóa giải thì
hóa giải sắc uẩn thôi chứ, phải không?
Phải biết rõ rằng sắc uẩn chỉ là sự tương duyên tương
tác của căn, trần và thức, nghĩa là
tác dụng, tác động của cả 18 giới (6
căn, 6 trần, 6 thức) thì sắc uẩn
mới không được chứ.
Bây giờ đến thọ uẩn. Thọ
thì quý vị biết rồi. Do sự tác dụng của sắc uẩn nên mới có khởi lên
tác dụng của thọ uẩn. Thọ uẩn cũng vậy, là sự tập khởi của các thọ một
cách phức tạp, chồng chéo, rối ren. Do duyên xúc của sắc uẩn mà có thọ
uẩn. Vì vậy mình có thể chấm dứt thọ uẩn
được.
Ví dụ như khi mình có khổ thọ, lạc thọ hoặc xả thọ,
nhưng tâm mình hoàn toàn không thủ không xả, hay "nhất niệm bất sanh"
thì lúc đó khổ, lạc, xả có cũng như không. Vì
tuy có thọ nhưng hoàn toàn không có chồng chéo rối ren, không thành thọ
uẩn. Như vậy, trên thế giới khách quan, thọ chỉ do duyên khởi mà thôi nên
ta có thể phá nó bằng cách không cho nó biến thành uẩn.
Tưởng uẩn cũng vậy. Có khi ta nhìn một vật, nghe một âm
thanh nhưng ta không thấy không nghe gì cả. Có khi nào quý vị thấy như vậy
không? Nhất là khi ta hoàn toàn sáng suốt, tỉnh thức trong ánh sáng của
tuệ quán (Vipassanā ñāna)
thì tưởng tuy có mà mất tác dụng biến thành uẩn. Như vậy ta có thể phá
được tưởng uẩn.
Còn hành uẩn chính là do tư chủ
động điều hành, tập hợp các tâm sở
khác để tạo tác. Lại do sự tập hợp của sắc,
thọ, tưởng làm duyên trước, nên hành chính là "tập hợp tạo tác"
cũng gọi là hữu vi. Hữu vi là Sankhāra. Từ
động từ Sankharoti (sam + kr) có nghĩa là tập hợp lại, sửa
soạn, tạo tác (sam: hợp chung lại). Vậy sankhāra
là tác dụng điều hợp tạo tác (nghiệp).
Nhưng khi tư nhường quyền
điều hợp cho trí tuệ (paññā)
thì hành uẩn bị hóa giải, nghĩa là hành không còn tạo thành uẩn, lúc
đó sankhāra biến thành Asankhāra.
Tức là vô vi.
Thức uẩn đóng một vai trò
đa năng:
Thức: |
- Trong sắc uẩn giữ vai trò của lục thức.
- Trong thọ uẩn giữ vai trò của tiếp thụ cảm giác.
- Trong tưởng uẩn giữ vai trò của tiếp thọ, suy
đạc, xác định.
- Trong hành uẩn giữ vai trò của tốc hành tâm.
- Trong thức uẩn giữ vai trò của đồng
sở duyên. |
Đồng sở duyên (Tadālambana)
có tác dụng như A-Lại-Da Thức của Duy Thức Luận, nó ghi lại toàn bộ tiến
trình 4 uẩn trước, nhất là hành uẩn. Tốc hành tâm là sự tạo tác nhặm lẹ.
Có thức tác động lên
căn, trần thì sắc uẩn mới thành hoạt
dụng. Người chết mắt không thể thấy sắc.
Vì vậy sắc uẩn không phải chỉ là sinh lý (căn)
hay vật lý (trần) mà còn có sự cộng tác của tâm lý (thức)
nữa. Nhưng thức ở giai đoạn này chưa
phải là nhận thức.
Có thức tác động lên
thọ mới làm công tác cảm thọ được vì
vậy:
Thức ở đây chỉ đóng vai trò
tiếp thụ cảm giác. Nhưng nếu không có thức không thể có thọ, vì một xác
chết không thể nào có khổ, lạc được, phải
không?
Có thức tác động lên
tưởng thì mới có thể hình thành tưởng uẩn.
Thức trong tưởng chỉ đóng
vai trò tiếp thọ (hình tướng) suy đạc,
xác định, nếu không có 3 yếu tố này thì tưởng không thể nhận biết
được, giống như người hôn mê không
biết gì cả.
Có thức tác động lên
hành thì tư mới điều hợp đủ tâm sở để làm
công tác tốc hành tâm (javana). Thức ở
đây đóng vai trò như Mạt-na trong Duy Thức.
Cuối cùng thức đóng vai trò
đồng sở duyên
để ghi lại toàn bộ tiến trình ngũ uẩn.
Thức này chính là A-Lại-Da thức trong Duy Thức. Tóm lại:
Muốn thấy được tiến trình
này chúng ta phải quan sát sự thực diễn ra trong tâm. Khi tôi
đang nói, không phải quý vị chỉ nghe bằng tai
để ghi nhận mà thực sự phải coi lại tâm mình, kiểm tra lại tâm
mình. Vì trình bày nên phải dùng tới ngôn ngữ, nhất là các thuật ngữ kinh
điển làm cho chúng ta mệt.
Vậy xin lập lại, chúng ta phải thấy cái thực ấy ở nơi
đương xứ của tiến trình tâm - sinh -
vật lý ấy. Cái thực ấy mới là quan trọng, còn các thuật ngữ thì nói "huyên
thuyên chi địa" rứa thôi. Nghe
xong, thấy cái thực xong thì bỏ! Chớ đừng ôm
đồm nào là tiếng Anh, tiếng Phạn, chữ Hán... vô ích. Mình phải hóa
giải nó, vô hiệu hóa nó để mà thấy cái
thực.
Trở lại vấn đề, trong sắc,
thọ, tưởng, hành, thức, thì hành chính là do tư (trong xúc, thọ,
tưởng, tư và cũng chính là phi hữu ái, hữu ái và dục ái). Hành
được điều động bởi tư nên nội dung của
hành tùy thuộc vào tư.
Hành là cái khâu quan trọng nhất. Chính nó là thủ phạm
gây ra thiện ác đủ thứ. Nếu ta giải quyết
được hành là giải quyết được toàn
bộ, phá được toàn bộ.
Có câu kệ phá ngũ uẩn như sau:
"Dục sanh ư nhữ ý
Ý do tư tưởng sanh
Không tâm các tịnh tịnh
Phi sắc diệc phi hành".
Dục sanh nơi ý chính là hành (dục ái, hữu ái,
phi hữu ái).
Ý do tư tưởng sanh tức là tưởng. Không
tâm tức là trí tuệ soi chiếu không để
thức tàng trữ chủng tử. Các tịch tịnh tức là
chánh định làm cho các thọ yên ổn.
Phi sắc tức không để cho
sắc uẩn hình thành. Diệc phi hành tức phá
được vô minh, ái dục.
Như vậy là toàn bộ ngũ uẩn bị phá đổ: "ngũ
uẩn giai không". Điều này chúng ta
sẽ nói sau.
Ngũ uẩn chỉ là sự tập khởi của một tiến trình
tâm-sinh-vật lý. Trừ phi tiến trình được soi
sáng bởi trí tuệ đến bờ kia (paññā
paramitā), ngũ uẩn thường bị vô minh chi phối tà kiến phát
sinh, từ đó ngũ uẩn trở nên phức tạp
chồng chất, rối ren và cuối cùng bị chấp lầm là bản ngã.
Vậy bản ngã không có thực, nó chỉ là ngũ uẩn, và trong
ngũ uẩn chỉ có hành là tạo tác. Phá bản ngã thì phải thấy toàn bộ sự vận
hành của ngũ uẩn, nhất là hành uẩn. Phá bản ngã thì ngũ uẩn hết tạo tác,
chồng chất và rối ren, để trả nó về tình
trạng nguyên sơ xúc-thọ-tưởng-tư-tác ý.
Nếu tác ý là như lý (yoniso) và tư
được hướng dẫn bởi trí tuệ rốt ráo thì
bản ngã cùng với ngũ uẩn đều không.
Vậy ngũ uẩn có thể sinh khởi, có thể không. Ngũ uẩn có
thể sinh khởi ở người này khác, người kia khác. Ngũ uẩn có thể thiện có
thể ác v.v...
"Tâm như công họa sư
Họa chủng chủng ngũ ấm (uẩn)
Nhất thiết thế giới trung
Vô pháp nhi bất tạo".
Tâm như ông thợ vẽ
Vẽ các loại ngũ uẩn
Hết thảy trong thế giới
Không pháp nào không tạo.
Tâm đây chính là
thức có mặt trong 5 uẩn, nó chi phối 5 uẩn. Trong thế giới bản ngã này
không có pháp nào nó không tạo.
Kinh pháp cú có dạy: "Trong các pháp, tâm dẫn
đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả"
cho nên:
Thức (1) dẫn đầu, làm
chủ, tạo tác các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức (2).
Thức (2) ghi lại sự tạo tác trên, như bộ nhớ của máy
điện toán nhưng nó phức tạp hơn, để rồi mang
nội dung đã ghi nhận đó tạo tác ra ngũ
uẩn kế tiếp sắc, thọ, tưởng, hành, thức (3) .
Thức (3) lại ghi nhận, lại khởi lên v.v... và cứ thế
ngũ uẩn chồng chất, rối ren thành (4), (5), (6), .v.v...
Những ví dụ hôm trước, chuyện cái anh chàng ngày hôm
qua nó đánh mình gãy răng,
cho nên vừa thấy nó đập trên
vai mình một cái là mình đùng
đùng nổi giận. Vậy là sao? Là vì thức
khởi sinh đã chấp giữ kinh nghiệm của
thức quá khứ (hôm qua) cho nên thức hiện tại không còn khách quan, trung
thực được nữa. Cái đó gọi là do phi
như lý tác ý (ayoniso mannasikāra).
Cái sắc, thọ, tưởng, hành, thức ngày hôm qua chồng chất lên sắc, thọ,
tưởng, hành, thức hiện tại nên tác ý của nó sai lạc.
Nếu trái lại cũng anh chàng ấy xuất hiện mà tâm mình
trong sáng, không mảy may chấp giữ kinh nghiệm của ngày trước - mình nhìn
nó như nó bây giờ vậy thôi - tức là như lý tác ý (yoniso manasikāra).
Đó là thấy
đúng, cái thấy thực. Và không có vấn
đề gì cả, phải không? Cái mà chồng
chất cảm giác, tri giác, chồng chất kinh nghiệm quá khứ lên thực tại, gọi
là uẩn. Uẩn tức chồng chất rối rắm lớp này
đến lớp khác. Cái mà chúng ta đã
gọi là tri kiến lập tri, Thiền Tông gọi là "đầu
thượng trước đầu" (trên đầu
chồng lên một cái đầu), "tuyết
thượng gia sương" (thêm sương trên tuyết). Vậy tiến trình của
ngũ uẩn chính là tiến trình ghi lại kinh nghiệm, chúng ta cần nhận rõ
điều đó.
Kinh nghiệm của ngũ uẩn quá khứ chồng lên ngũ uẩn hiện
tại để tạo ra kinh nghiệm mới. Thật ra gọi là
mới, nhưng không còn mới nữa, trong đó đã
tiềm tàng kinh nghiệm cũ, có phải vậy không? Uẩn là vậy, uẩn là chồng
chất, rối ren, phức tạp.
Giả dụ, với anh chàng kia, mình gây nhau,
đánh nhau thêm một trận nữa, rồi ngày
mốt gặp lại, thức lại chồng thêm một lớp nữa,
đó là chưa kể tối về nằm ngủ, ý thức
làm việc, là đã tự chồng lên không
biết bao nhiêu lớp nữa rồi. Mình nhớ lại cái chuyện
đánh nhau, nghĩ tức giận thế này, thế
nọ, mình tạo tác thêm nữa. Tức là, trường hợp trước, ngũ uẩn có qua tai,
mắt, mũi, lưỡi, và thân. Trường hợp sau đêm
về nhớ lại, thì ngũ uẩn qua ý, pháp và ý thức. Vậy thì ngày hôm sau, không
chỉ ghi lại kinh nghiệm của ngày hôm trước, mà còn chồng chất cái hậm hực,
tức giận của đêm
đó hồi tưởng lại nữa. Dễ sợ chưa? Rõ
ràng là cả một đống, phải không? Một đống rối
rắm không thể gỡ nổi, nên chỉ mới thấy mặt hắn là muốn
đánh nhau rồi, có phải thế không?
Đấy mới chỉ chồng chất một chuyện đánh nhau. Còn
tất cả những thứ khác thì sao? Chồng chất những cái gì? Chồng chất tỵ
hiềm, ganh ghét, yêu thương, sợ hãi, hận thù, ngon ngọt, cay
đắng v.v... và v.v... Cho nên, ngũ uẩn
tuy có thể giai không một cách dễ dàng, thế mà, quý vị biết không, ở
đây trong mỗi chúng ta, ngũ uẩn đã trở
thành Tu-Di-Sơn rồi đó. Khiếp chưa? Phá không
nổi nữa. Có thiết bảng của Tôn Ngộ Không may ra, chớ phá không nổi nữa
rồi, phải không?
Có người hỏi:
- Có anh đó rất say mê
âm nhạc, anh mới mượn được một băng nhạc rất
hay, về mở nghe. Mới nghe được một lát, anh ta sực nhớ có một công việc
cần làm ngay, và anh đi làm.
Trong thời gian làm, anh vẫn nghe nhạc. Nhưng lát sau, công việc cuốn hút
anh ta, anh ta chú tâm vào công việc nên không nghe tiếng nhạc nữa. Như
vậy, rõ ràng âm thanh vẫn đến tai anh ta,
nhưng anh ta không ghi nhận được. Hoặc ví dụ con đang ngồi nghe giảng đây,
ban đầu con nghe tiếng tích tắc của đồng hồ, lát sau chẳng nghe tiếng tích
tắc của đồng hồ nữa. Như vậy, lúc đó bảo thức không có là
không đúng, vì vẫn còn làm việc. Còn
bảo thức có, thì sao lại không nghe
được?
- Đúng. Đúng! Câu hỏi rất
hay! Bởi vậy cho nên nhất tâm và mạng căn
lúc ấy mới thấy là quan trọng. Không có hai tâm sở nhất tâm và mạng
căn thì cái tâm
đó nó sẽ loạn lên hết chẳng còn chú
tâm được nữa.
Quý vị nhớ cho thế này, cái tâm nó rất vi tế. Một tiến
trình tâm kéo dài nhất là 17 sát-na thôi. Thời gian 17 sát-na là chừng
nào? Xin thưa, 17 sát-na không phải chưa tới một giây, mà chưa tới 1/1.000
giây! Nó rất nhanh. Do đó, từ tiến trình
sắc, thọ, tưởng, hành, thức này nó chuyển qua sắc, thọ, tưởng, hành, thức
khác rất nhanh.
"Tâm như công họa sư
Họa chủng chủng ngũ ấm"
"Chủng chủng" là các loại, rất nhiều loại. Có
rất nhiều loại ngũ uẩn khác nhau. Ví dụ mắt, sắc, thức tạo ra một tiến
trình ngũ uẩn khác. Các căn và trần
khác cũng vậy.
Một người đang coi ti vi,
con mắt mình và đối tượng của nó tạo
ra một tiến trình ngũ uẩn. Đồng thời
tai mình nghe nhạc đệm, vậy tai và
đối tượng của nó tạo ra một tiến trình
ngũ uẩn khác nữa.
Chúng ta có thấy gì ở trường hợp
đó không? Chúng ta vừa thấy hình vừa
nghe âm nhạc đệm một cách rõ ràng,
không có lẫn lộn nhau. Vì sao vậy? Vì tiến trình nào cũng nhất tâm cái
đó. Tiến trình ngũ uẩn từ tai và âm
thanh đồng nhất mà tiến trình ngũ uẩn
từ mắt và sắc vẫn đồng nhất. Cái đó rất vi
tế.
Kim Dung có một nhân vật tên Châu Bá Thông, ông có sáng
chế một môn võ là "Song thủ hỗ bác", nghĩa là hai tay cùng
đánh với nhau. Tay phải ra một thế võ
thì tay trái đánh một thế võ
để đấu lại. Vậy là sao? Ông ta
đã "phân tâm nhị dụng", tay
phải đánh một kiếm thế này,
đồng thời sử dụng tay trái đánh một kiếm thế
khác. Ông ta đã sử dụng hai tiến trình "một lần" mà vẫn nhất
tâm ! Người đánh đàn, người
đánh máy, và rất nhiều công việc
đòi hỏi phải sử dụng nhiều tiến trình
tâm-sinh-lý "một lần".
Đại khái, chúng ta phải biết là, có thể 2, 3
tiến trình tâm cùng xuất hiện một lần, nhưng trên thực tế là xen kẽ nhau
một cách trật tự trong cùng một khoảng thời gian chứ không phải trùng
phùng, nghĩa là hoán vị chứ không phải đồng
vị. Nhưng 17 sát-na quá nhanh đến nổi ta tưởng cùng một lần. Trong
một giây biết có bao nhiêu là tiến trình tâm sinh khởi. Ví dụ khi ta thấy
một người phụ nữ mà tưởng rằng là em gái của mình. Ở
đây, mắt thấy người phụ nữ là một tiến
trình ngũ uẩn, nhưng tưởng người em gái thì ý thức lại tạo ra một tiến
trình ngũ uẩn khác. Vừa thấy phụ nữ vừa tưởng người em gái tức là vừa có
tiến trình qua nhãn thức vừa có tiến trình qua ý thức. Có phải không?
Nhưng trong khi 2, 3 tiến trình ngũ uẩn xảy ra "cùng
lúc" mà ta chú ý vào một đối tượng nào
nhiều hơn thì tiến trình đó sẽ mạnh hơn, và
các tiến trình kia sẽ biến mất. Một tiến trình dài nhất là 17 sát-na,
nhưng nếu mạnh nó lập đi lập lại rất nhiều
lần trên một đối tượng, và do
đó các tiến trình kia không xen vào
được. Đó là lý do tại sao anh làm
việc, anh không còn nghe tiếng nhạc nữa.
Có người hỏi:
- Trong quá trình sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì sắc
không phải là một cái gì cụ thể, mà nó là kết quả của một tập hợp căn-trần-thức
như Sư đã giảng. Khi đã nhận
thức được như vậy, giả dụ bây giờ con nghĩ ra
một cách để phá ngũ uẩn, xin trình sư xem thử thế nào, có hợp lý
không?
- Vâng!
- Sắc tập hợp lại giữa 3 yếu tố căn-trần-thức,
thiếu 1 trong 3 yếu tố thì tập hợp ấy không hoạt
động được, không hiện hành
được. Như vậy thì bây giờ hành giả chỉ
cần làm thế nào phá đi 1 trong 3 yếu tố đó
thôi, hoặc là căn, hoặc là
trần, hoặc là thức. Chẳng hạn như thế này: nếu mắt mình không nhìn sắc,
mũi không ngửi mùi hương, hoặc lưỡi không nếm vị ngọt, thân mình không
tiếp xúc với những cảm giác cứng hoặc mềm, ý mình không nghĩ
đến một điều gì
đó v.v... Trong trường hợp này, lục
thức không phát khởi được, vì nó thiếu
yếu tố trần cảnh. Như vậy có nghĩa là không có sắc uẩn, vì nó không hội
đủ yếu tố để tạo sắc uẩn. Trong trường hợp
một người đang ngủ hoặc ngất xỉu chẳng hạn, họ có phá được ngũ uẩn hay
không? Thứ hai nữa, trong trường hợp mình tập trung ý mình lại, ví
dụ tập trung ý mình vào danh hiệu Phật thôi, thì mình có tạo
được ngũ uẩn tốt hay không? Vì khi ý
của mình niệm danh hiệu Phật Thích Ca chẳng hạn, nó sẽ tạo cho mình một
cái thức, mà nội dung cái thức đó là
toàn thiện ý. Như vậy có phải mình sẽ có ngũ uẩn mang tính chất thiện hay
không?
- Khoan cái đã, bây
giờ thế này, chúng ta có thể giải quyết từng khâu một.
Dù chúng ta niệm Phật, lúc
đó cũng có ngũ uẩn phát sinh. Vì khi khởi tâm niệm tức là
đã có ngũ uẩn. Nhưng trong trường hợp
đó mình sử dụng hành uẩn một cách tốt
đẹp. Giả dụ mình niệm
đến nhất tâm bất loạn, cận hành (sắp
định) hoặc an chỉ (định).
Tuy vậy mình vẫn tạo tác, nhưng tiến trình ngũ uẩn ấy là tiến trình tốt.
Anh nói đúng, hành uẩn có thể thiện
hoặc bất động kia mà.
Điều thứ hai, trong lúc mình ngủ, có thể tiến
trình ngũ uẩn ở cái dạng không khởi tác dụng chứ không phải là phá. Phá là
khi nào mình dùng trí tuệ soi chiếu ngay trong tự thân của nó mà mình
chiếu phá được nó, mới gọi là phá.
Không phải khi nó tĩnh lặng gọi là phá. Khi nó không khởi không gọi là
phá. Khi một tiến trình tâm không khởi thì nó lại về trạng thái bhavanga (hôm
khác chúng ta sẽ nói đến tiến trình
tâm chi tiết hơn để thấy rõ bhavanga
này). Trong bhavanga, ngũ uẩn không hiện hành mà nó lại tiềm ẩn dưới
dạng vô thức. Tức là ngũ uẩn cũng ngủ! Như vậy
đâu phải phá được ngũ uẩn.
Mình có thể phá được ngũ
uẩn hiện hành bằng trí tuệ soi chiếu, nhưng mầm mống của nó trong
vô thức vẫn chưa phá được, vì thức uẩn
đã tàng trữ mầm mống trông
đó rồi.
Phá ngũ uẩn bằng cách không nghe âm thanh, không ngửi
mùi hương v.v... thì có thể là tiến trình ngũ uẩn không khởi lên. Nhưng
phá là phá ngay khi nó khởi lên bằng tuệ quán (Vipassanā
ñāna) chứ không phải không
cho nó khởi lên. Phải phá ngũ uẩn hữu thức trước,
để thức uẩn không còn tàng trữ mầm
giống, do đó tập khí của thức uẩn trong vô
thức không còn hoạt động được nữa.
Như vậy mình chưa thật sự phá nó bằng trí tuệ trên hiện
hành và tận gốc của nó ở trong vô thức, thì
đương nhiên vẫn còn mầm mống dấy sinh ra tiến trình ngũ uẩn mới.
Tuy nhiên, mầm mống trông vô thức chỉ là khả năng
tiềm ẩn để chín mùi thành quả (dị thục) chứ không phải nhân
tạo tác. Ngay khi thức mới khởi lên ở đầu
tiến trình ngũ uẩn để tác động lên
căn trần, nó cũng chỉ là quả chứ không
phải nhân. Vì vậy xin lập lại là chỉ phá ngũ uẩn khi nó hiện hành thôi,
chứ không nên giữ nó lại trong vô thức bằng cách không cho nó khởi,
đó là trấn áp nó chứ không phải phá.
Phân tâm học gọi đó là ẩn ức (dồn
nén) chứ không phải hóa giải hay thăng
hoa. Vậy phá ngũ uẩn là phá nhân chứ không phá quả. Phá nhân thì
quả sẽ tự hóa giải.
Dù dùng thiền định để phá
ngũ uẩn cũng không được, vì chính thiền
định là một tiến trình ngũ uẩn. Như
vậy chỉ có thể làm cho ngũ uẩn tốt hơn chứ không phải là ngũ uẩn giai
không được. Điều này chúng ta sẽ nói
rõ hơn trong những buổi hội thảo sau.
Có người hỏi:
- Trong trường hợp mình quan niệm sắc không phải là một
tập hợp của căn-trần-thức thì làm sao?
Bởi vì con đọc trong sách của những bậc Luận
Sư nổi tiếng thời xưa cũng như thời nay, rằng sắc là một tập hợp
những điều kiện vật chất chẳng hạn, chứ không
phải là một tập hợp của căn-trần-thức.
Như vậy thì có đúng không? Hòn
đá có phải sắc không?
- Không. Sắc ấy là sắc khác. Sắc ấy là sắc trần rồi.
Hòn đá là sắc trần, hoặc cái thân này
là cũng sắc, sắc căn. Trong ngũ uẩn, không
phải không có sắc đó. Nói mắt - sắc tức là có sắc
đó rồi. Cái thấy của mắt thì nó là
nhãn thức nhưng con mắt là sắc căn rồi. Do
đó, bên này cũng có sắc (con mắt - tịnh sắc căn)
mà bên kia cũng có sắc (sắc trần đối tượng
của mắt). Nhưng ở đây mình
muốn nói thế này, nếu nội, ngoại sắc đó không
có thức tương tác thì chúng không thành sắc uẩn. Còn sắc thì vẫn cứ
có. Nếu quan niệm sắc uẩn chỉ là căn sắc và
trần sắc như anh ta nói, thì tại sao các vị A-La-Hán và chư Phật phá
được bản ngã, phá
được ngũ uẩn mà quý vị vẫn
đi lui, đi tới? Các vị sắc thân vẫn còn
như thường, thậm chí, tiến trình vẫn còn, nhưng khi ấy không phải là uẩn (chồng
chất). Uẩn đã
được phá rồi. Sắc, thọ, tưởng, hành,
thức vẫn còn, nhưng lưu ý chữ hành, lúc ấy không còn là hành tạo
tác nữa mà là vô vi hay duy tác.
Đồng thời thức cũng không
còn chứa nhóm chấp tàng nữa (trong Duy Thức gọi là Bạch tịnh thức).
Quý vị nhớ cho điều đó. Hành
của Phật và các vị A-La-Hán là Thánh Tuệ, là Niết Bàn.
Khi ấy nó đã thay cái cetanā
thành Ariya paññā hay bodhi
rồi. Hành đã thành Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa
rồi. Phật và các vị A-La-Hán lúc ấy vẫn có tiến trình:
sắc-thọ-tưởng-bát-nhã-Bạch tịnh thức. Tạm nói như vậy. Nhưng mà các vị
ấy hoàn toàn không bị rơi vào bản ngã, hoàn toàn không bị rơi vào tiến
trình tạo uẩn, tức là không có chồng chất, chấp tàng nữa.
Có người hỏi:
- Con đọc trong bộ Câu Xá
Luận của Thế Thân do Ngài Huyền Trang dịch, thì nói sắc là nội sắc
và ngoại sắc. Nội sắc tức là căn thân của mình.
Rồi con đọc luôn bộ Abhidammatthasangaha của
Ngài Nārada dịch qua bản tiếng Anh. Ngài
dịch chữ sắc là matter. Chữ matter đó không
có nghĩa là một tập hợp giữa căn, trần
và thức, mà nó có nghĩa cụ thể như nội sắc và ngoại sắc. Như vậy,
con thấy giữa hai định nghĩa, từ nguồn Hán
tạng cũng như từ nguồn Pàlïi được
chuyển sang tiếng Anh thì đều như vậy.
Còn định nghĩa chiều nay con tiếp thu
được do Sư nói là...
- Một quá trình vận động,
tác dụng tâm-sinh-vật lý?
- Vâng, nó rất mới lạ, ý con muốn nói là rất khác
thường. Trong suốt quá trình học Phật, con không tìm thấy bất cứ một tài
liệu nào nói về sắc như vậy!
- Vâng, trước hết xin nói thế này, chúng ta cứ trình
bày sự thật chứ không y cứ theo kinh sách, đó
là điều thứ nhất. Điều thứ hai, chữ
sắc mà Ngài Nārada và các sách
định nghĩa là sắc trong danh sắc. Sắc
trong danh sắc dịch là matter thì tạm được, còn
sắc trong ngũ uẩn không dịch là Matter được,
phải hiểu là có 4 loại sắc như sau:
1) Sắc: chỉ đối tượng của
mắt gọi là sắc trần gồm hình tướng, màu sắc và chất liệu.
2) Sắc:
* Theo Vi Diệu Pháp, có 28 sắc pháp:
4 đại chủng (địa,
thủy, hỏa, phong).
5 tịnh sắc căn (mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân).
4 hành cảnh sắc (sắc, thanh, hương, vị).
2 bản tánh sắc (nữ tánh, nam tánh)
1 tâm sở y sắc.
1 mạng sắc.
1 thực sắc.
1 giới hạn sắc (không giới).
2 biểu sắc (thân biểu, ngữ biểu).
3 biến hóa sắc (nhẹ, mềm, thích ứng).
4 tướng sắc (sanh, trụ, dị, diệt).
* Theo Duy Thức có 11 sắc pháp: 5 căn
(nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) và 6 trần, (sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp).
3) Sắc: dùng trong danh sắc. Sắc này gồm mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và sắc, thanh, hương, vị, xúc cùng với ½ pháp và ý sở y căn.
Còn ý và ½ pháp thuộc về danh.
Nếu nói theo 18 giới thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
sở y căn và sắc, thanh, hương, vị,
xúc, ½ pháp thuộc sắc. Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thực,
thân thức, ý thức và ½ pháp thuộc danh.
4) Sắc trong ngũ uẩn gồm có:
- Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý sở y căn
- Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần
- Nhãn thức, nhĩ thức,... ý thức |
→ tương tác mà tập khởi sắc uẩn |
Mỗi chữ sắc có một ý nghĩa khác nhau, phải lưu ý như
vậy.
Chính vì lầm lẫn các nghĩa của sắc này mà nhiều vị
giảng kinh Bát Nhã cứ nói sắc là sắc thân hay sắc trần, trong lúc
đó sắc uẩn hàm chỉ cả một tiến trình
vận hành, có tác động mới khởi sanh được. Tôi
nói điều ấy hoàn toàn không chủ quan, vì "sắc thân"
làm sao có "thọ" được?
Nếu chỉ có sắc căn và
sắc trần mà thành uẩn thì không lẽ người chết hay người hôn mê căn
trần cũng tương tác được sao? Nếu như mắt không có cái thấy (nhãn
thức), tai không có cái nghe (nhĩ thức) v.v... thì mắt tai
vô hồn có thể động dụng được sao? Vậy phải có
thức cùng tác động thì mới phát
sanh tiến trình, không có thức tác động không
phát sanh tiến trình ngũ uẩn được.
Chữ sắc trong sắc uẩn mang tính chất một tâm sở hơn là
một sắc thuần túy, nó tương đương với tâm sở
xúc. Nhưng chúng ta biết rằng không bao giờ có tâm sở mà không có
tâm và ngược lại. Vì tâm sở và tâm cùng sinh, cùng diệt cùng căn
và cùng đối tượng.
Cho dù mắt, tai, v.v... là sắc thuần túy
đi nữa mà không có tâm (thức)
thì như mắt tai của người chết làm sao thấy nghe
được? Đó là mình muốn chứng minh chứ
thật ra không phải trong Tam tạng Pāli không
có nói sắc gồm cả thức. Trong kinh Đại Tứ
Niệm Xứ, Dīghanikāya Đức Phật dạy: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý,
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt
thức, thân thức và ý thức là sắc thân ái (piya rūpam),
sắc khả ái (sāta rūpam), chính
ở tại sắc thân này tham ái phát sanh, tham ái trừ diệt. Anh cứ xem lại
bài kinh đó đi để kiểm chứng.
Có người hỏi:
- "Sắc tức thị không"... sắc không trong kinh
Bát Nhã có phải là sắc uẩn này không?
- Đúng vậy, chính nó là
sắc uẩn trong ngũ uẩn đấy. Lần sau chúng ta
sẽ đào sâu thêm vấn đề này.
Phải thấy cho rõ vấn đề mới được. Bây giờ còn
15 phút nữa, xin mời quý vị thảo luận với nhau.
Đề nghị là nếu có nghi thì cứ hỏi. Nếu
tôi "bí" thì tôi bảo tôi "bí" chứ không có vấn
đề gì
đâu.
Có người hỏi:
- Sư giảng rằng, thức nó xuyên qua sắc, qua thọ, qua
tưởng, qua hành rồi qua thức. Cái thức này lại xuyên qua sắc trở lại... và
cứ như thế tiếp tục... vậy thì cho con được
hỏi, không biết có đúng không, là có phải thức ấy tìm về tự tánh
không?
- Không, không phải. Thức này khi bị nhiễm vô minh ái
dục là thức tầm bậy thì có, thức này là thức ô nhiễm. Thức sinh (patisandhi)
và thức tử (cuti) chứ không phải tìm về tự tánh
đâu. Tuy nhiên
đã hết vô minh ái dục thì thức này
thanh tịnh vô nhiễm và biến thành trí như Duy Thức nói cũng
đúng.
- Con hỏi để khỏi bị lầm.
- Phải, phải! Như vậy lại càng chứng tỏ rằng mình phải
nói thêm vấn đề này cho tới nơi tới
chốn. Vì sao vậy? Vì trong việc tu hành tôi có nói thế này "chân bất
lập" là đừng lập cái chơn, vì lập
cái chơn (dù dưới nhãn hiệu tự tánh hay
đại ngã) là mình đã chủ
quan rồi. Hễ mình lập ra cái chơn gì thì đều
là giả cả. Đừng có nói rằng tôi tu
theo lý tưởng này là cao siêu lắm! Dù cho cao siêu mấy thì cũng do
dục vọng mình lập ra đó thôi. Phải không? Mình
lập ra cái cõi giới cho mình thật ra chỉ tô vẽ cho cái bản ngã mà thôi,
chứ không phải là phá trừ bản ngã. Làm cho phong phú bản ngã chính là
ngoại đạo. Phật đạo và ngoại
đạo khác nhau ở chỗ đó. Ngoại đạo tu để hoàn
thiện bản ngã. Phật giáo tu là dẹp bản ngã. Nghe nói vậy có nhiều người sợ
lắm. Tu mà dẹp hết bản ngã, vậy thì còn cái gì? Nhưng chính khi mình phá
được bản ngã thì lại có tất cả. Còn
khi mình toan vun bồi cho cái bản ngã thì mình
đã tự giam mình trong cái lồng chật
hẹp rồi, phải không? Đã bản ngã thì
tất nhiên phải luân hồi sinh tử trong tam giới.
Chúng ta đừng đề ra nhiều
lý tưởng tốt đẹp cao siêu, đừng ham
đắc cái này cái kia cho nhiều. Cái đó
là mình tự hại mình.
Có người hỏi:
- Ở đây đề cập đến tiến trình
của ngũ uẩn, nó thường hiện hành trên bình diện hữu thức. Nhưng có một số
trường hợp hầu như nó nằm trong vô thức mà nó vẫn hiện hành. Ví như một
người đang "mộng du". Vậy thì
đối với người "mộng du", tiến
trình ngũ uẩn của họ thế nào? Phải chăng ở
đây có Thượng Đế hay ai điều khiển?
- Không phải đâu. Mộng du
là một cái bệnh. Chúng ta có thể giải thích theo khoa học, hoặc
phân tâm học cũng được chứ chẳng cần đến Phật
giáo.
Con người mình đang sinh
hoạt bình thường đây là do
đại não
điều khiển. Đại não ghi nhận, điều
động toàn bộ hệ thống thần kinh. Nhưng khi mình nằm ngủ thì tiểu
não làm việc. Tiểu não có làm việc trong lúc chúng ta ngủ chứ không phải
không biết gì cả đâu. Khi ngủ mình
tưởng là không ghi nhận được gì cả vì
ý thức không làm việc. Nhưng không phải vậy. Trong Duy Thức có nói
đến một loại ý thức gọi là "mộng
trung ý thức". Khi chúng ta đang nói
chuyện đây thì ý thức hiện hành. Nhưng khi chúng ta ngủ thì cũng có
một loại ý thức khác làm việc mà Duy Thức gọi là "mộng trung ý thức",
cái biết trong chiêm bao hay trong giấc ngủ. Cái biết này có thể
được ý thức trở lại vào ban ngày,
chứng tỏ nó có ghi lại tiến trình. Nghĩa là có một tiến trình ngũ uẩn
trong chiêm bao.
Tuy nhiên trong trường hợp bị chấn thương vỏ sọ não,
chấn thương tâm lý hoặc tiểu não và hệ thần kinh bị trục trặc (bệnh)
gì đó thì bệnh nhân có thể nói mớ,
hoặc nặng hơn thì mộng du. Mộng du là một dạng bệnh tâm thần, tiếng Anh
gọi là Somnambulism. Đặc biệt những việc làm
trong cơn mộng du ban đêm không
được ý thức nhớ lại ban ngày. Vì vậy
mộng du và chiêm bao không giống nhau, và xảy ra trong giai
đoạn khác nhau của giấc ngủ. Khi một người bị
chấn thương võ não hoặc tinh thần bị dồn nén căng
thẳng, xung đột, bức xúc, v.v... thì dần dần
đưa đến suy nhược thần kinh và rơi vào
tình trạng mộng du. Trong mộng du không có "mộng trung ý thức" mà
hoàn toàn tác động từ vô thức, khi vô thức
chứa nhóm sự căng thẳng, xung đột.
Trong cả hai trường hợp bị chấn thương võ não hoặc chấn
thương tâm lý, thì hành động của người bệnh
không đủ yếu tố để hình thành tiến trình ngũ uẩn một cách
đầy đủ.
Nếu người ngủ ngon có ngũ uẩn "ngủ", và người
nằm mơ có "ngũ uẩn trong mộng", thì người mộng du có ngũ uẩn bệnh
hoạn, bất thường chỉ hình thành trong vô thức.
Có người hỏi:
- Vậy thì vô thức nó nằm ở
đâu, được giải thích như thế nào ở trong Vi Diệu Pháp hoặc Duy
Thức?
- Theo Duy Thức thì nó ở trong A-lại-da-thức. Còn theo
Vi Diệu Pháp thì nó ở trong Bhavanga, nơi mà thức ghi nhận lại tiến
trình rồi ký gởi vào.
- Xin hỏi nếu ở trong vô thức và tiềm thức thì nó không
thể tư tác. Ở đây, người mộng du họ leo trèo
lên bờ tường, lên nóc nhà... họ làm những việc mà dường như là phải có
những tư tác rất mạnh, có một sự tác động của
tâm rất mạnh mẽ. Như vậy có mâu thuẫn không?
- Người mộng du không chủ
động, nhưng vẫn có động lực thúc đẩy. Ở đây tôi sẽ nói một chuyện khác
nhưng nó lại liên quan đến vấn đề này,
và quý vị sẽ hiểu.
Chuyện thôi miên. Thôi miên hoặc bị "điển
nhập". Thôi miên thì thường thường người ta khống chế "tổng
đài" não của bệnh nhân, nghĩa là
dùng sức mạnh của ý thức để kiềm chế trung
khu thần kinh. Đầu tiên bắt bệnh nhân ngủ, ngủ là
đại não nghỉ ngơi, họ bèn dùng sức
mạnh ý thức để kiềm chế tiểu não. "Nhập
điển" cũng vậy, họ kiềm chế tổng
hành dinh của vô thức - tức là tiểu não để
điều khiển. Người mà đã bị thôi
miên hoặc "nhập điển"
điều khiển thì không tự biết gì hết.
Cũng có trường hợp người bị thôi miên hoặc người nhập
điển có biết nhưng lại là không chủ
động được. Trường hợp mộng du tạm coi là
một trường hợp "tự thôi miên" người mộng du là người bệnh, có một
trục trặc gì đó ở hệ thần kinh, khi vô thức
dấy lên điều động họ, điều khiển họ mà
ý thức họ không biết, thế thôi.
Có ai hỏi gì nữa không? Thảo luận về chiều sâu nội tâm
vui quá phải không? Thường thường mình hay sống bên ngoài nhiều quá, ít
khi quan tâm đến cái tâm của mình. Bây
giờ, lâu lâu đi thăm viếng cái tâm mình
một cái thì thấy có những cái khám phá lạ lùng
đáng ngạc nhiên, phải không?
--- o0o ---
[ Mục
Lục ] [
1 ] [
2]
[ 3
] [
4 ] [
5
] [ 6
] [
7 ] [
8 ]
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 1-10-2004
|
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục