.
Phật Học Khái
Luận
Thích Chơn Thiện
Chương Một - Phật Bảo
Tiết II
Ðức Phật trong Nam Tạng và
Bắc Tạng
--- o0o ---
Nam và Bắc Tạng có một số điểm
nhìn khác nhau về Thế Tôn. Chính điểm nhìn khác nhau này mở lối
cho sự phát triển của Phật giáo về sau và làm phong phú thêm kho tàng
văn học Phật giáo.
Nguyên thủy, Thượng tọa bộ và Ðại chúng bộ ghi
nhận rằng, Thế Tôn và các Thánh đệ tử A-la-hán đều giải thoát
khỏi sanh tử, nhưng vẫn có một số điểm phân biệt giữa Ngài và cách
Thánh đệ tử ấy. Ngài là Giáo chủ duy nhất, là một Thế Tôn duy nhất
trong hiện kiếp, còn các đệ tử của Ngài chỉ có thể chứng
A-la-hán, thực hiện con đường giải thoát. Nguyên thủy và Thượng tọa
bộ ghi sự biểu hiện của Thế Tôn như một nhân vật lịch sử, rất
người. Kiếp này là kiếp sau cùng Ngài thành Phật với sự nổ lực khám
phá của riêng Ngài. Ngài sống một cuộc sống rất gần gũi con người và đầy
tình người, ngoại trừ lòng từ bi vô hạn và trí tuệ ngời sáng vô biên
của Ngài.
Hình ảnh Thế Tôn trong Nikàya và Agama là hình ảnh
của một khất sĩ đi chân không trong suốt bốn mươi lăm năm giáo hóa, rất
dung dị. Có lần Ngài đi hoằng hóa một mình và trú mưa một đêm trong chòi
lá của người thợ làm đồ gốm. Tại đây, Ngài đã chuyện trò thân mật
với một thanh niên cũng vào trú mưa, du sĩ Pukkusati, đã nói pháp, khích
lệ giúp chàng chứng đắc quả Bất Lai ngay tại chỗ (Trung bộ Kinh III,
Kinh Giới Phân Biệt).
Một lần khác, ngài cũng lâm bệnh nặng như các
đệ tử của Ngai. Bấy giờ Ngài yêu cầu Tôn giả Cunda nói lại pháp Thất
Giác Chi cho Ngài nghe, pháp hỷ sanh khởi và Ngài lành bệnh ngay (Tăng
Chi Bộ Kinh IV và Tương Ưng IV).
Những lúc không có thị giả theo, Ngài tự mình nhặt lá
khô làm thảo tọa đề ngồi. Lúc trọng tuổi, có nhiều khi nhức
mỏi thân thể, Ngài ngưng nói giữa thời thuyết pháp và nhờ Tôn giả
Xá-lợi-phất nói tiếp. Ðoạn, Ngài ngã lưng xuống nghỉ tại chỗ
Có nhiều lần Ngài ngồi trong tư thế nhập định
uy nghi đến nỗi vua trời Ðế Thích không dám đến yết
kiến Ngài để thọ Pháp. Nhưng chính lúc bấy giờ, một thanh niên
Càn-thác-bà đã ôm đàn tỳ bà ngồi gảy tại một gốc cây gần Ngài và hát
lên tiếng hát của tình yêu. Ngài đã bật cười, trò chuyện với thanh
niên và hỏi chàng do đâu mà chàng có những lời lẽ nối kết được tình
yêu và chân lý (Trường Bộ Kinh III, Phẩm Ðế Thích Sơ Vấn).
Ngài đã tự mình đi đến nói chuyện với những
nông dân và chí hướng sống tốt đẹp cho họ.
Ngài không chỉ giảng dạy giáo lý giải thoát mà
còn rất quan tâm đến đời sống gia đình, xã hội của các cư sĩ và hạnh
phúc tương đối của họ. Ngài đã dạy thanh niên Singalà về sáu mối
tương hệ xã hội: tương hệ giữa cha mẹ và con cái, thầy và trò, vợ
và chồng, chủ và thợ (người giúp việc), cá nhân với bà con láng
giềng, tu sĩ và cư sĩ (Trường Bộ Kinh 31).
Ngài đã dạy cư sĩ Koliya Dìghajànu (Tăng Chi Bộ Kinh,
tập IV), người muốn sống với vợ con, trang điểm và tiền của, thế
nào để sống có hạnh phúc gia đình, bằng những lời lẽ rất là thực tiễn
như là phải giỏi nghề, siêng năng, giỏi điều hành công việc,
biết chi thu hợp lý, biết đầu tư, điều hòa sức khoẻ và tâm
lý, làm bạn với người thiện. Về hạnh phúc tương lai, Ngài dạy
về Tín, Thí, Giới và Tuệ.
Ngài cũng dạy vua chúa, cấp lãnh đạo về biện
pháp cải thiện kinh tế xã hội, bảy điều kiện làm cho một xã
hội cường thịnh và mười pháp để trở thành một nhà lãnh đạo nhân dân
tốt (Tăng Chi IV, Chương 7 và 10 Pháp). Ngài đã tự thân ba lần cản ngăn một
cuộc chiến xảy ra giữa hai dân tộc Sakyas và Koliyas (Tăng Chi IV, Chương
Bảy Pháp).
Ngài đã giáo dục đem lại lợi ích vì hạnh phúc của
chư Thiên và loài người. Ngài luôn luôn trung thành với "Giáo hóa thần
thông" (bằng thân giáo và khẩu giáo) và tránh vận dụng đến
"Thần túc thông" hay "Tha tâm thông".
Chỉ có Tiểu Bộ Kinh đề cập đến những
trường hợp Ngài sử dụng đến thần thông và nói đến các tiền
thân Bồ Tát của Ngài. Có lẽ đây là cái mầm của Bồ-tát đạo trong Bắc
tạng về sau.
Thái độ giáo lý thực tiễn và đầy tính Người,
một lần khác, được biểu hiện qua một mẫu chuyện kể ở Nikàya
và Agama, rất phổ biến trong giới Phật tử: Một lần, một tu sĩ ngoại đạo
biểu diễn thần thông đi nổi trên mặt nước và thách Thế Tôn làm như
thế. Thế Tôn ôn tồn hỏi: "Ông tu luyện bao lâu mới có thể
vượt qua sông với thần thông ấy" -"Mất ba mươi năm", Tu sĩ
ngoại đạo trả lời. -"Ta chỉ mất có ba xu đi đò là qua được bên kia
bờ," Thế Tôn nói.
Ở Ðại chúng bộ, hình ảnh của Thế Tôn lại
được Thánh hóa, siêu nhân hóa từ khi nhập thai cho đến khi thị tịch.
Ngài đã là vị Phật ở cung trời Ðâu-suất, còn tất cả nhữn gì xảy ra ở
trần thế chỉ là "thị hiện". Vì vậy mà mọi chuyện ở
Ngài đều mang nghĩa tuyệt đối, thanh tịnh, vô lậu. Cho đến những
lời nói thông thường của Ngài cũng là những lời Pháp có diệu lực
khiến các cảnh giới khác nhau đều có thể nghe và hiểu được
theo cách của mình. Ðiều này, Kimura Taiken có bàn đến cuốn "Ðại
Thừa Tư Tưởng Luận" (Bản dịch của Thượng tọa Thích Quảng Ðộ, Tu
thư Vạn Hạnh, 1969, Sài gòn). Như thế, Ðức Thế Tôn trong Nguyên Thủy
và Thượng tọa bộ được trình bày như là "ứng thân", trong Ðại
chúng bộ được trình bày như là vừa "Pháp thân" vừa "Báo
thân".
Bắc tạng, như ở Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v... Ðức
Thế Tôn xuất hiện giữa vùng hào quang kỳ diệu, giữa thần thông
biến hóa vô cùng.
Bắc tạng không cho rằng chỉ có một đức Thế Tôn
trong hiện kiếp, mà bằng nỗ lực của riêng mình, mọi đệ tử
của Ngài có thể thành Phật trong hiện tại. Ðức Phật không phải mới
thành Phật, mà đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước, lâu xa lắm.
Ở trên đời này, Ngài chỉ thị hiện Ðản sanh và Niết-bàn. Ngài
không chỉ thuyết pháp ở vùng Trung Ấn, mà còn thuyết Pháp ở các
cung trời, cõi Phật. Thính chúng của Ngài gồm cả mười phương chư Bồ-tát.
Dù hình ảnh Thế Tôn xuất hiện khác nhau dưới
ngòi bút của các nhà Bắc truyền và Nam truyền, điểm gặp gỡ quan
trọng nhất giữa các bộ phái Phật giáo và giữa các thời kỳ phát
triển Phật giáo là: Thế Tôn ra đời chỉ vì hạnh phúc cho chư
Thiên, loài Nguời và mọi loài chúng sanh, chỉ dạy con đường ra khỏi sanh
tử, khổ đau, cứu cánh Niết bàn, giải thoát. Ngài thuyết pháp
giáo hóa ở đời trong bốn mươi lăm năm và giảng dạy những giáo lý
nền tảng: Duyên khởi, Vô ngã, Tứ đế, Bát Thánh đạo, Ngũ uẩn, Nhân
quả và giáo lý của Ngài luôn được xây dựng trên Giới, Ðịnh, và
Tuệ./.
-oOo-
Bài trước
|
Mục lục |
Bài kế
--- o0o ---
Trình bày : Nhị
Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục