(Bát Chánh Ðạo)
Phạm Kim Khánh
Còn
ô
nhiễm
tâm
trí
thì
sao?
Các
bơn
nhơ
tinh
thần
mà,
kẻ
ít
người
nhiều,
chúng
ta
đã
mang
theo
đến
đây
từ
vô
lượng
kiếp
thì
thế
nào? Cách
đây
hơn
25
thế
kỷ
Ðức
Bổn
Sư
Thích
Ca
Mâu
Ni
đã
nhận
thấy
mối
hiểm
họa
vô
cùng
tai
hại
của
ô
nhiễm
tinh
thần
và
Ngài
cảnh
giác: "Không
có
lửa
nào
như
tham
ái,
không
có
ngục
tù
nào
như
sân
hận,
không
có
màn
lưới
nào
như
si
mê,
và
không
có
dòng
sông
nào
như
ái
dục."
(Kinh
Pháp
Cú,
câu
251) Lửa
trên
thế
gian
dầu
nóng
như
thế
nào,
ngục
tù
kềm
kẹp
của
thế
gian
dầu
khắc
nghiệt,
tàn
ác
đến
đâu,
những
màn
lưới
của
thế
gian
có
chặt
chẽ
tệ
hại
ra
sao,
cũng
chỉ
thiêu
dốt,
gây
đau
khổ
hay
trói
buộc
ta
suốt
trọn
một
kiếp
sống
là
cùng.
Nhưng
ô
nhiễm
tinh
thần
sẽ
đi
theo
chúng
ta
từ
kiếp
này
sang
kiếp
khác,
mãi
mãi,
triền
miên,
trong
vòng
luân
hồi,
nếu
chúng
ta
không
biết
chấm
dút.
Ái
dục
sẽ
lôi
cuốn
và
đẩy
mạnh
chúng
ta
vào
biển
khổ
trầm
luân. Sáng
suốt
nhận
định
rằng
bản
chất
của
đời
sống
l;à
đau
khổ
và
nguyên
nhân
của
đau
khổ
là
ái
dục.
Ðức
Phật
vạch
ra
một
lối
sống,
tự
bản
thân
khép
mình
vào
lối
sống
đạo
đức
ấy,
thành
đạt
mục
tiêu
cứu
cánh
một
cách
vẻ
vang
và
mở
lòng
từ
mẫn
khai
hóa
những
ai
có
tai
muốn
nghe,
có
tâm
trí
muốn
suy
tư
và
có
ý
chí
để
thực
hành.
Ðức
Phật
dạy: "Bây
giờ,
này
hỡi
chư
Tỳ
Khưu,
đây
là
chân
lý
về
Con
Ðường
dẫn
đến
diệt
khổ.
Ðó
là
Bát
Chánh
Ðạo:
Chánh
Kiến,
Chánh
Tư
Duy,
Chánh
Ngữ,
Chánh
Nghiệp,
Chánh
Mạng,
Chánh
Tinh
Tấn,
Chánh
Niệm,
Chánh
Ðịnh.
" Ðây
là
Con
Ðường
chia
làm
tám
chi
bao
gồm
tám
năng
lực
tinh
thần
hùng
mạnh
và
có
tính
cách
thiện.
Tám
chi
của
con
đường
phải
được
tập
trung
lại
để
đánh
đổ
một
năng
lực
bất
thiện,
ái
dục,
dai
dẳng
ngủ
ngầm
bên
trong
ta. Chánh
kiến
là
tri
kiến
chân
chánh,
hiểu
biết
đúng
đắn,
sự
vật
như
thế
nào
thì
hiểu
biết
đúng
như
vậy.
Hiểu
sâu
vào
bên
trong
thực
tướng
của
sự
vật
chớ
không
phải
hiểu
phớt
trên
bề
mặt.
Ðến
mức
cùng
tột,
Chánh
Kiến
là
thấu
triệt
thực
tướng
của
ngũ
uẩn,
tức
thấu
triệt
bản
chất
của
chính
mình.
Nói
theo
một
cách,
Chánh
Kiến
là
chứng
ngộ
Tứ
Diệu
Ðế.
Tuy
nhiên,
trước
khi
đạt
đến
từng
hiểu
biết
cao
siêu
ấy,
trong
ý
nghiã
thông
thường,
Chánh
Kiến
là
phân
biệt
chánh
tà,
biết
điều
nào
là
thiện
và
điều
nào
bất
thiện.
Muốn
thực
hành
Giáo
Pháp
mà
không
có
nền
tảng
Chánh
Kiến
vững
chắc
lắm
khi
phải
lầm
đường
lạc
nẻo,
thay
vì
hướng
về
mục
tiêu,
càng
tách
rời
ra. Chính
quan
kiến
hướng
dẫn
hành
động.
Sự
hiểu
biết
của
chúng
ta
luôn
luôn
nằm
phiá
sau
nỗ
lực
của
chúng
ta.
Nếu
hiểu
biết
sai
lầm,
tà
kiến
sẽ
dẫn
dắt
đến
những
hành
động
lầm
lạc
có
tác
dụng
tạo
đau
khổ.
Ngược
lại,
nếu
hiểu
biết
chân
chánh,
Chánh
Kiến
sẽ
đưa
đến
hành
động
chân
chánh
và
do
đó,
hướng
về
con
đường
thoát
khổ.
Mặc
dầu
sự
hướng
dẫn
sơ
khởi
này
vẫn
còn
là
một
khái
niệm
mù
mờ,
hình
như
không
đưa
đến
hậu
quả
nào
quan
trọng,
nhưng
nhìn
lại
tận
tường,
đó
là
bứơc
đầu
có
tánh
cách
quyết
định
cho
cả
toàn
thể
tiến
trình
phát
triển
tinh
thần
trong
tương
lai. Theo
một
lối
phân
hạng,
Chánh
Kiến
có
ba
là: 1.
Sự
hiểu
biết
chân
chánh
rằng
ta
là
sở
hữu
chủ
của
nghiệp
mà
ta
đã
tạo. Ðức
Phật
dạy: "Tất
cả
chúng
sanh
là
sở
hữu
chủ
của
cái
nghiệp
của
mình,
là
thừa
kế
cuả
cái
nghiệp
của
mình,
sanh
ra
do
nghiệp
của
mình,
là
họ
hàng
thân
thuộc
của
cái
nghiệp
của
mình,
ẩn
náu
trong
và
được
nâng
đỡ
bởi,
cái
nghiệp
của
mình.
Bất
luận
nghiệp
nào
mà
ta
đã
tạo,
dầu
thiện
hay
bất
thiện,
thì
ta
sẽ
là
thừa
kế,
hưởng
trọn
hậu
quả
của
nó." Trong
đời
sống
ta
có
thể
cần
cù
làm
lụng,
kiệm
cần
dành
để
và
tạo
nên
nhà
cửa,
sự
nghiệp,
vàng
vòng,
trang
sức
v.v...
Ta
cũng
có
thể
thừa
hưởng
những
sở
hữu
trên
do
ông
bà
cha
mẹ
truyền
lại.
Ta
gọi
đó
là
"của
mình",
hay
nói
"mình"
là
sở
hữu
chủ
của
những
vật
đó.
Tuy
nhiên,
dầu
ta
có
bám
chắc,
nắm
chặt
và
tận
lực
gìn
giữ
đến
đâu,
nó
vẫn
ở
với
ta
một
cách
tạm
thời.
Bao
nhiêu
yếu
tố
như
hỏa
hoạn,
bão
lụt,
trộm
cướp,
kẻ
thù
nghịch,
chiến
tranh
v.v...
và
cuối
cùng
cái
chết
phải
đến,
luôn
luôn
sẵn
sàng
để
tước
đọat
quyền
làm
chủ
của
ta.
Chỉ
có
một
điều
--
nghiệp
thiện
hay
nghiệp
bất
thiện
mà
ta
đã
tạo
--
sẽ
không
bao
giờ
rời
ta,
dầu
ở
trong
kiếp
sống
này
hay
trong
nhiều
kiếp
vị
lai.
Không
có
kẻ
thù
nghịch
hay
trộm
cướp
nào
tranh
đoạt,
không
có
chiến
tranh
hay
thiên
tai
nào
tiêu
hủy,
chí
đến
cái
chết
cũng
không
làm
mất
mát
hay
sứt
mẻ
cái
nghiệp
của
ta.
Do
đó,
Ðức
Phật
dạy
rằng:
"Tất
cả
chúng
sanh
là
sở
hữu
chủ
của
cái
nghiệp
của
mình". Vì
cái
nghiệp
mà
ta
đã
tạo
theo
dính
liền
với
ta,
ta
sẽ
thừa
hưởng
hậu
quả
của
nó
như
phần
di
sản,
ta
sẽ
tái
sanh
vào
trạng
thái
nào
cũng
do
nơi
nó,
nó
là
những
người
họ
hàng
thân
thuộc
không
bao
giờ
rời
ta.
Ta
sẽ
ẩn
náu
an
toàn
trong
thiện
nghiệp
và
nhờ
thiện
nghiệp
nâng
đỡ.
Nó
như
người
bạn
tốt
đón
chờ
ở
một
cảnh
giới
nào
trong
tương
lai
để
hỗ
trợ
ta.
Vậy,
ta
phải
chăm
sóc,
giữ
gìn
cái
nghiệp
cho
được
luôn
luôn
tốt
đẹp.
Ðôi
khi
có
người
nói,
"Tôi
ăn
hiền
ở
lành,
không
trộm
cướp
gì
của
ai,
vậy
là
đủ
rồi,
cần
gì
phải
tu."
Nói
như
vậy
nghe
thóang
qua
hình
như
hữu
lý.
Nhưng
ăn
hiền
ở
lành
là
thế
nào?
Theo
người
đời,
đi
câu
cá,
săn
thú
hay
trà
đình,
tửu
quán
là
thú
tiêu
khiển
thanh
nhàn,
cướp
sự
sống
của
sinh
vật
để
nuôi
mạng
sống
mình
hay
để
hỷ
hả
tiệc
tùng
là
tự
nhiên,
và
ta
tạo
bao
nhiêu
bất
thiện
nghiệp
khác
một
cách
vui
vẻ,
tự
nhiên.
Ta
phải
biết
thương,
biết
bảo
tồn
nghiệp
thiện
hơn
là
thương
yêu
và
bỏa
tồn
chính
sự
sống
của
ta.
Ta
phải
biết
sợ,
biết
lánh
xa
bất
thiện
nghiệp,
hơn
là
ta
sợ
lánh
xa
cái
chết
của
chính
ta.
Thế
thường,
ta
sợ
chết
và
muốn
sống.
Ðể
bảo
tồn
sự
sống
và
ngăn
chặn
cái
chết,
lắm
khi
ta
hành
động
bất
chánh
và
do
đó,
tạo
nghiệp
bất
thiện
vô
cùng
tai
hại
mà
trong
nhiều
kiếp
sống
chính
ta
phải
gánh
chịu
hậu
quả.
Nên
nhớ
rằng
chết
ở
đây
là
tái
sanh,
sống
lại
ở
nơi
khác,
và
khi
rời
bỏ
cảnh
giới
hiện
tại
ta
cũng
lià
bỏ
tất
cả,
chỉ
mang
theo
cái
nghiệp
mà
ta
đã
tạo.
Trong
quyển
The
Buddha
and
his
Teachings
(Ðức
Phật
và
Phật
Pháp),
cố
Ðại
Ðức
Nãrada
viết: "Tài
sản
sự
nghiệp
mà
ta
trìu
mến
bao
nhiêu,
thân
bằng
quyến
thuộc
mà
ta
yêu
qúy
bao
nhiêu,
sẽ
không
đi
theo
ta.
Chắc
chắn
như
vậy.
Cho
đến
cơ
thể
này
mà
ta
gọi
là
"Của
Ta"
cũng
vậy.
Từ
cát
bụi
nó
đến.
Nó
sẽ
trở
về
với
cát
bụi.
Danh
vọng
ảo
huyền,
vinh
quang
trống
rỗng,
tất
cả
đều
tiêu
tan
theo
mây
theo
gió.
Vẫn
một
thân
một
mình
chúng
ta
phiêu
bạt
trong
cơn
bão
táp,
giữa
đại
dương
của
vòng
luân
hồi,
trôi
giạt
đó
đây
theo
cái
nghiệp." 2)
Sự
hiểu
biết
chân
chính
về
thiện
nghiệp
và
bất
thiện
nghiệp,
về
hậu
quả
của
nghiệp
đã
tạo,
về
sự
hiện
hữu
của
những
cảnh
giới
ngoài
cảnh
người,
về
sự
hiện
hữu
của
những
năng
lực
siêu
phàm. Nghiệp
là
hành
động
tác
ý
được
thực
hiện
bằng
ba
đường
lối:
Tư
tưởng,
lời
nói,
việc
làm.
Tất
cả
những
hành
động
có
tác
ý,
thực
hiện
bằng
thân,
khẩu,
ý,
dầu
thiện
hay
bất
thiện,
đều
tạo
nghiệp.
Những
hành
động
không
cố
ý,
không
chủ
tâm,
nghiã
là
không
có
tác
ý
(cetanã),
đều
không
tạo
nghiệp
mặc
dầu
đã
biểu
hiện
ra
ngoài
bằng
lời
nói
hay
việc
làm. Hành
động
thiện
tạo
nghiệp
thiện
và
đến
hậu
quả
là
hạnh
phúc,
tinh
thần
hay
vật
chất.
Hành
động
bất
thiện
đưa
đến
thọ
khổ,
vật
chất
hay
tinh
thần. --
Ba
hành
động
tạo
bất
thiện
nghiệp
bằng
thân
là:
sát
sanh,
trộm
cắp,
tà
dâm. --
Bốn
hành
động
bất
thiện
nghiệp
bằng
lời
nói
là:
Nói
dối,
nói
đâm
thọc,
nói
thô
lỗ
cộc
cằn,
nói
nhảm
nhí. --
Ba
hành
động
tạo
bất
thiện
nghiệp
bằng
ý
là:
Tư
tưởng
tham
lam,
sân
hận
và
tà
kiến. Những
hành
động
đối
nghịch
với
mười
điều
kể
trên
(
như
tâm
từ,
lòng
thương
chúng
sanh,
bố
thí
v.v...)
được
biểu
hiện
qua
ba
đường
lối
thân,
khẩu,
ý,
dầu
nhằm
mục
đích
tạo
dựng
tài
sản,
để
sinh
sống
hay
để
vun
bồi
kiến
thức,
đều
được
xem
là
thiện
nghiệp. Người
có
Chánh
Kiến
hiểu
biết
chân
chính
rằng
những
hành
động
như
bố
thí
vật
thực
cho
thú,
cho
người
cư
sĩ
hay
dâng
cúng
đến
chư
Tăng,
nếu
làm
với
tâm
từ,
sẽ
đem
lại
hậu
quả
tốt
đẹp,
trong
kiếp
sống
này
và
nhiều
kiếp
khác.
Dầu
cúng
dường
đông
đảo
chư
Tăng
với
nhiều
lễ
vật
qúy
giá
hay
tặng
một
món
qùa
nhỏ
mọn,
nếu
làm
với
tâm
từ,
vì
lòng
tốt,
thương,
muốn
giúp
người,
vì
lòng
thành
thật
muốn
đem
phúc
lợi
đến
cho
người,
hành
động
ấy
sẽ
tạo
quả
phúc
cho
người
làm.
Cùng
thế
ấy,
những
hành
động
như
thọ
trì
Bát
Quan
Trai
Giới
trong
những
ngày
giới,
hằng
giữ
năm
giới,
tham
thiền,
quy
y
Tam
Bảo
v.v...
đều
tạo
thiện
nghiệp. Người
tà
kiến
chủ
trương
rằng
mỗi
người
chỉ
sống
vỏn
vẹn
một
kiếp,
và
tất
cả
năng
lực
--tinh
thần
cũng
như
vật
chất
-
đều
chấm
dứt
khi
đời
sống
này
chấm
dứt.
Chết
là
hết.
Sau
khi
chết
con
người
bỏ
lại
tất
cả
mọi
năng
lực
phát
nguyên
trong
đời
sống
và
trở
lại
hoàn
toàn
hư
vô,
hoàn
toàn
tiêu
diệt.
Ðối
với
những
người
này
bất
luận
hành
động
nào,
dầu
thiện
hay
bất
thiện,
cũng
không
đem
lại
hậu
quả
nào.
Không
nhân,
quả,
không
nghiệp
báo.
Vì
quan
niệm
như
vậy,
lý
tưởng
của
họ
là
cứ
tận
hưởng
mọi
lạc
thú
trên
đời,
hưởng
thọ
càng
nhiều
càng
tốt
và
có
thể
làm
bất
cứ
gì
dầu
có
hại
ai
khác. Hiểu
rằng
mọi
hành
động
thiện
và
bất
thiện
đều
đem
lại
hậu
quả;
hiểu
rằng
phụng
dưỡng
cha
mẹ,
làm
cho
cha
mẹ
hữu
phúc
là
tạo
thiện
nghiệp
và
sẽ
được
phước
báu
về
sau;
hiểu
rằng
thật
sự
có
những
chúng
sanh
hóa
sanh,
đột
nhiên
được
sanh
ra,
bỗng
nhiên
xuất
hiện
mà
không
phải
trải
qua
hình
thức
thai
bào
nào;
hiểu
rằng
có
cảnh
giới
này
cũng
có
những
cảnh
giới
khác.
Những
hiểu
biết
như
vậy
là
chân
chánh.
Người
có
Chánh
Kiến
cũng
hiểu
biết
rằng
trong
thế
gian
có
những
bậc
cao
minh,
có
khả
năng
siêu
phàm
như
các
bậc
Thánh
Tu
Ðà
Hườn,
Tư
Ðà
Hàm,
A
Na
Hàm,
A
La
Hán. 3.
Sự
hiểu
biết
chân
chánh
về
Tứ
Diệu
Ðế. Ðến
mức
cùng
tột,
Chánh
Kiến
là
hiểu
biết
chân
chánh
về
bốn
Chân
Lý
Thâm
Diệu
trong
thế
gian
(Tứ
Diệu
Ðế). Chánh
kiến
ở
mức
sơ
khởi
là
hiểu
đúng
con
đường.
Như
người
kia
lạc
nẻo,
bỡ
ngỡ
trước
nhiều
ngả
đường
vì
không
biết
chọn
ngả
nào,
may
thay
chợt
nhận
ra
tấm
bảng
chỉ
đường
bên
canh
một
con
đường
mòn
xưa
cũ.
Bảng
chỉ
đường
là
Giáo
Pháp
của
Ðức
Phật,
khách
lữ
hành
thênh
thang
lạc
bước
là
phần
đông
chúng
ta,
những
người
sơ
cơ,
đường
mòn
là
Con
Ðường
Cũ
Xa
Xưa
mà
chư
Phật
đã
trải
qua. Vào
giai
đoạn
đầu,
Chánh
Kiến
là
những
hiểu
biết
chân
chánh
đưa
hành
giả
đến
hành
động
trong
sạch,
tạo
thiện
nghiệp
để
thọ
hưởng
những
trạng
thái
nhàn
lạc
trong
vòng
luân
hồi.
Cũng
có
người
đã
lãnh
hội
đầy
đủ
luật
nhân
quả
mà
vẫn
còn
tự
hạn
chế
ước
vọng
của
mình
trong
những
thành
tựu
của
thế
gian.
Những
người
này
có
những
hành
động
đạo
đức
thanh
cao
để
tích
trữ
phước
báu
và
thọ
hưởng
khoái
lạc,
danh
vọng,
quyền
thế
v.v...
trần
gian,
trong
cảnh
người,
hoặc
thọ
sanh
vào
những
cảnh
Trời
nhàn
lạc.
Tuy
nhiên,
trong
sự
hiểu
biết
bằng
lý
trí
-
Chánh
Kiến
ở
tầm
mức
tại
thế
-
không
có
gì
để
đưa
con
người
vượt
lên
khỏi
định
luật
nghiệp
báo,
thoát
ra
khỏi
vòng
tạo
nhân
và
gặt
quả.
Ðể
giải
thoát
hoàn
toàn
ra
khỏi
vòng
sanh
tử
luân
hồi
cần
phải
có
sự
hiểu
biết
sâu
sắc,
nhận
chân
thực
tướng
của
vạn
pháp,
Chánh
Kiến
siêu
thế. Chánh
Kiến
cao
siêu
có
khả
năng
đưa
đến
giải
thoát
là
hiểu
biết
Tứ
Diệu
Ðế.
Ðức
Phật
dạy: "Bây
giờ,
Chánh
Kiến
là
gì?
Ðó
là
hiểu
biết
đau
khổ,
hiểu
biết
nguyên
nhân
sanh
khổ,
hiểu
biết
sự
chấm
dứt
đau
khổ,
và
hiểu
biết
con
đường
dẫn
đến
chấm
dứt
đau
khổ."
(Dĩgha
Nikãya,
Trường
A
Hàm
,
bài
kinh
số
22) Bát
Chánh
Ðạo
bắt
đầu
với
một
khái
niệm
về
Tứ
Diệu
Ðế,
chỉ
hiểu
biết
mù
mờ
xuyên
qua
lý
trí
và
tiến
dần
đến
tuyệt
đỉnh
là
trực
giác
chứng
nghiệm,
thấu
triệt
những
chân
lý
cao
siêu
thâm
diệu
ấy
và
trở
nên
hoàn
toàn
giác
ngộ.
Như
vậy,
có
thể
nói
rằng
hiểu
biết
Tứ
Diệu
Ðế
là
bước
đầu
mà
cũng
là
mục
tiêu
tối
hậu
của
con
đường
thoát
khổ. Ba
chân
lý
đầu
tiên
của
Tứ
Diệu
Ðế
--
Khổ
Ðế,
Tập
Ðế
và
Diệt
Ðế
--
là
quan
điểm
của
Phật
giáo
về
kiếp
nhân
sinh.
Dựa
trên
triết
thuyết
này
Ðức
Phật
vạch
ra
một
lối
sống
thích
nghi
đưa
đến
trạng
thái
tâm
tuyệt
đối
trong
sạch
và
trí
tuệ
toàn
hảo.
Ðó
là
Bát
Chánh
Ðạo,
phần
thực
hành
trong
Phật
Giáo.
Ðó
cũng
là
con
đường
được
gọi
là
"Trung
Ðạo"
(Majjhimã
Patipadã),
tránh
xa
hai
cực
đoan.
Một
bên
là
lối
sống
lợi
dưỡng,
thấp
hèn,
của
người
buông
lung,
đắm
chìm
trong
dục
lạc.
Bên
khác
là
lối
sống
khắc
khổ,
vô
bổ
và
vô
nghiã
lý,
của
những
người
ép
xác
khổ
hạnh
cuồng
tín.
Trung
đạo
là
con
đường
trải
dài
ở
khoảng
giữa
hai
cực
đoan
ấy,
là
con
đường
của
lý
trí
và
thận
trọng. Chánh
Kiến
về
Tứ
Diệu
Ðế
phát
triển
qua
hai
giai
đoạn.
Giai
đoạn
đầu
tiên
được
gọi
là
Chánh
Kiến
phù
hợp
với
chân
lý
(saccanulomika
sammãditthi:
Sammãditthi
là
Chánh
Kiến,
Sacca
là
chân
lý,
Amulomika
là
thuận
chiều
với,
đúng
với,
phù
hợp
với
).
Giai
đoạn
thứ
nhì
là
Chánh
Kiến
thâm
sâu
vào
chân
lý,
thấm
nhuần
chân
lý
(saccapativeda
sammãditthi:
Pativeda
là
đi
sâu
vào,
thấm
sâu
vào
bên
trong).
Chánh
KIến
phù
hợp
với
chân
lý
là
hiểu
biết
rõ
ràng
ý
nghiã
của
bốn
chân
lý
cao
siêu
thâm
diệu
(Tứ
Diệu
Ðế)
của
đời
sống.
Sự
hiểu
biết
này
phát
sanh
do
nhờ
học
hỏi
và
nghiên
cứu
những
chân
lý
ấy.
Sau
đó,
nhờ
suy
tư
sâu
vào
mà
ánh
sáng
của
kinh
nghiệm
rạng
chói
dần
dần
đến
lúc
vữnbg
chắc
tin
tưởng
như
vậy. Tuy
nhiên,
chí
đến
mức
độ
này
hành
giả
cũng
chưa
hoàn
toàn
thấm
nhuần
chân
lý.
Sự
hiểu
biết
của
hành
giả
đến
lúc
bấy
giờ
chưa
tuyệt
đối
là
hoàn
bị
vì
đó
chỉ
là
một
quan
niệm
rõ
ràng,
thay
vì
là
tri
giác. Muốn
tiến
đến
thực
sự
chứng
nghiệm
phải
trải
qua
thời
gian
thực
hành
pháp
môn
thiền
định:
Trước
tiên
là
an
trụ
tâm
vững
chắc
và
sau
đó
trau
giồi
và
phát
triển
Tuệ
Minh
Sát
(
Vipassanã). Tuệ
minh
sát
phát
sanh
do
nhờ
quán
chiếu
và
sáng
suốt
suy
niệm
về
ngũ
uẩn,
những
yếu
tố
của
kiếp
sinh
tồn,
để
phân
biện
rõ
ràng
những
đc
điểm
của
nó.
Ðến
mức
tuyệt
đỉnh
của
cong
trình
suy
niệm
này
hành
giả
tách
rời
cái
nhìn
của
mình
ra
khỏi
những
hiện
tương
hữu
lậu
của
ngũ
uẩn
và
nhắm
vào
trạng
thái
vô
lậu
Niết
Bàn.
Lúc
bấy
giờ,
nhờ
Tuệ
Minh
Sát
sắc
bén
thâm
sâu,
Niết
Bàn
đã
có
thể
được
thành
tựu.
Ðến
đây
hành
giả
chứng
ngộ
Niết
Bàn.
Ái
Dục
đã
chấm
dứt.
Trí
tuệ
đã
bừng
sáng
và
hành
giả
rõ
ràng
thấy
rằng
ái
dục
thật
sự
là
nguyên
nhân
của
mọi
hình
thức
đau
khổ
và
Bát
Chánh
Ðạo
thật
sự
là
con
đường
dẫn
đến
chấm
dứt
đau
khổ.
Như
vậy,
Chánh
Kiến
thấm
nhuần
Tứ
Diệu
Ðế
phát
sanh
vào
giai
đoạn
cuối
cùng
của
con
đường,
chớ
không
phải
vào
lúc
sơ
khởi. Giai
đoạn
đầu
tiên
của
người
có
Chánh
Kiến
là
nhận
ra
Con
Ðường.
Rồi
từ
đó
đặt
chân
lên
Con
Ðường
và,
nhờ
Chánh
Kiến
soi
đường,
tiến
dần
đến
mức
cùng
tột
là
chứng
ngộ
thực
tướng
của
vạn
pháp. Chi
thứ
nhì
của
Bát
Chánh
Ðạo
là
Chánh
Tư
Duy
(Sammã
Sankappa.
Sammã
là
đúng,
chân
chánh.
Sankappa.
là
suy
tư,
có
nguyện
vọng,
có
ý
định).
Chánh
Tư
Duy
là
suy
tư
chân
chánh,
trong
ý
nghiã
có
những
tư
tưởng
hướng
đến
hành
động
chân
chánh,
là
quyết
định
hay
lập
tâm
quyết
đến
hành
động
chân
chánh. Tư
tưởng
chân
chánh
bắt
nguồn
từ
sự
hiểu
biết
chân
chánh
và
dẫn
đến
hành
động
chân
chánh.
Người
hiểu
biết
chân
chánh
(Chánh
Kiến)
ắt
suy
tư
chân
chánh
(Chánh
Tư
Duy).
Ðàng
khác,
người
suy
tư
chân
chánh
ắt
cũng
hiểu
biết
chân
chánh.
Một
tri
kiến
thâm
diệu
về
bản
chất
thật
sự
của
kiếp
sinh
tồn
được
hoàn
mãn
thành
tựu
nhờ
suy
tư
sâu
sắc
và
quán
trạch
tận
tường
sẽ
đưa
đến
giá
trị
tinh
thần
đạo
đức
hướng
dẫn
tâm
đến
hành
động
chân
chánh,
tương
xứng
với
tri
kiến. Như
vậy,
hai
chi
đầu
của
Bát
Chánh
Ðạo
-
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy
-
liên
quan
với
nhau
mặt
thiết
và
ảnh
hưởng
với
nhau
rất
chặt
chẽ.
Hai
chi
này
hợp
thành
giai
đoạn
"Tuệ"
của
Con
Ðường
Giải
Thoát.
Chánh
Tư
Duy
nằm
khoảng
giữa
và
làm
gạch
nối
liền,
một
bên
là
Chánh
Kiến
và
bên
kia
là
bộ
ba
Chánh
Ngữ,
Chánh
Nghiệp,
Chánh
Mạng. Di
hiểu
biết
chân
chánh
phát
sanh
những
tư
tưởng
chân
chánh,
dẫn
dến
hành
động
chân
chánh
biểu
hiện
bằng
lời
nói
chân
chánh,
tạo
nghiệp
chân
chánh
và
nuôi
mạng
chân
chánh.
Ðiều
này
cho
ta
thấy
rằng
Chánh
Tư
Duy
không
phải
chỉ
là
suy
tư
suông
mà
là
suy
tư
bắt
nguồn
từ
hiểu
biết
chân
chánh
và
đưa
đến
hành
động
chân
chánh. Sammã
Sankappa,
Chánh
Tư
Duy,
là
có
những
tư
tưởng
chân
chánh,
mà
cũng
có
nghiã
là
quyết
định
chân
chánh,
tức
có: 1.
Những
tư
tưởng
khước
từ,
buông
bỏ,
không
luyến
ái,
thiên
về
xuất
gia. 1.-
Tư
Tưởng
khước
từ.
Luyến
ái
là
một
hình
thức
ái
dục,
mà
ái
dục
là
nguyên
nhân
sanh
khổ.
Do
đó,
loại
suy
tư
chân
chánh
đầu
tiên
là
không
luyến
ái
mà
buông
bỏ,
khước
từ.
Danh
từ
Pali
mà
Ðức
Phật
dùng
ở
đây
là
nekkhama,
Xuất
gia,
có
nghiã
là
khước
từ
những
lạc
thú
trần
gian
để
chọn
lấy
đời
tu
sĩ. Dĩ
nhiên,
nhận
thức
rằng
xa
hoa
vật
chất
là
ảo
huyền
và
thú
vui
vật
chất
không
tạo
hạnh
phúc
thật
sự
vũng
bền
rồi
tự
nguyện
lià
bỏ
tất
cả
sự
nghiệp
trên
đời
để
khoác
tấm
y
vàng,
làm
người
không
nhà
cửa,
không
của
tiền,
không
gia
đình,
tự
ý
cam
khổ,
nghèo
nàn,
đơn
giản,
để
cố
gắng
sống
hoàn
toàn
trong
sạch
là
hình
thức
khước
từ
cao
thượng
nhất.
Tuy
nhiên,
Ðức
Phật
không
bao
giờ
khuyên
dạy
tất
cả
mọi
người
đều
nên
ly
gia
cắt
ái.
Ngài
chỉ
dạy
rằng
dầu
xuất
gia
hay
cư
sĩ,
chúng
ta
nên
thận
trọng
nhận
thức
mối
nguy
hại
của
nhục
dục
ngũ
trần
mà
Ngài
ví
như
cục
xương
khô,
như
ngọn
duốc
mà
ta
cầm
đi
ngược
chiều
giáo,
như
một
hầm
than
đỏ,
như
một
giấc
mơ,
như
vật
vay
mượn
v.v...
Ngài
dạy: "Này
chư
Tỳ
Khưu,
thú
vui
của
nhục
dục
ngũ
trần
quả
thật
là
tạm
bợ,
vô
thường,
là
trống
rỗng,
là
giả
tạo,
là
không
thực..." Có
những
tư
tưởng
buông
bỏ,
từ
khước
những
dục
vọng
trần
tục,
không
luyến
ái
vị
kỷ
vào
tài
sản
sự
nghiệp,
xa
lánh
cuộc
đời
phồn
hoa
đô
hội
và
khoái
lạc
vật
chất,
không
triù
mến,
luyến
ái
cái
"Ta"
,
không
bám
chặt,
đeo
niú
đời
sống,
là
loại
Chánh
Tư
Duy
đầu
tiên. Ðức
Phật
mô
tả
giáo
lý
của
Ngài
là
con
đường
ngược
chiều
với
thời
gian. "Chắc
như
vậy,
con
đường
dẫn
đến
lợi
lộc
của
trần
gian
là
một,
và
con
đường
dẫn
đến
Niết
Bàn
là
con
đường
khác.
Thông
hiểu
như
vậy,
thầy
Tỳ
Khưu
đệ
tử
Phật
không
nên
thỏa
thích
trong
mùi
danh
bả
lợi
của
thế
gian
mà
phải
trau
giồi
hạnh
buông
bỏ."
(Kinh
Pháp
Cú
,
câu
75) Con
đường
của
thế
gian
là
con
đường
tham
ái,
dục
vọng.
Con
người
thế
gian
đi
dài,
thuận
chiều
theo
con
đường
ấy,
mưu
tìm
hạnh
phúc
trong
sự
thỏa
mãn
tham
dục
của
mình.
Giáo
Huấn
Buông
Bỏ
mà
Ðức
Thế
Tôn
ban
truyền
kháng
cưỡng
chống
lại
sức
lôi
cuốn
như
thác
lũ
của
tham
vọng,
đi
dần
đến
mức
chấm
dứt
ái
dục
và
tìm
hạnh
phúc,
không
phải
trong
sự
thỏa
mãn,
mà
trong
sự
dứt
bỏ,
từ
khước
ái
dục. Dầu
là
bậc
xuất
gia
hay
hành
tại
gia
cư
sĩ,
nguyên
tắc
chỉ
đạo
chính
yếu
vẫn
được
ghi
nhận
là
phải
hoàn
toàn
tận
diệt
mọi
hình
thức
ái
dục
mới
có
thể
thành
tựu
giải
thoát
trọn
vẹn.
Từng
bước
một
càng
xa
lià
ái
dục
là
càng
đến
gần
giải
thoát.
Biết
rằng
ái
dục
là
nguồn
cội
phát
sanh
đau
khổ
và
biết
rằng
chấm
dứt
hay
giảm
suy
đau
khổ
đến
mức
độ
nào
là
tùy
thuộc
ở
sự
chấm
dứt
hay
mức
độ
giảm
suy
ái
dục,
người
Phật
Tử
thuần
thành
cố
gắng
phát
triển
tâm
buông
bỏ. Nhưng
chính
tại
điểm
này
ta
gặp
phải
sức
kháng
cự
mạnh
mẽ
từ
bên
trong.
Từ
lâu,
tâm
chúng
sanh
đã
quen
thâu
đạt,
cố
bám,
nắm
giữ
và
tích
trữ.
Thói
quen
ấy
đã
trở
thành
bản
tánh
tự
nhiên,
không
dễ
gì
dùng
ý
chí
mà
thay
đổi.
Dầu
lý
trí
có
ưng
thuận
buông
bỏ
nhưng
tâm,
vị
ảnh
hưởng
của
ái
dục
,
vẫn
còn
khư
khư
chấp
thủ,
không
khứng
chịu
khước
từ.
Do
đó,
vấn
đề
bây
giờ
là
làm
thế
nào
để
gỡ
cái
tâm
ra
khỏi
sự
chi
phối
của
ái
dục.
Ðức
Bổn
Sư
không
dạy
phải
đè
nén
hay
cưỡng
bách,
xua
đuổi
ái
dục
ra
khỏi
tâm,
vì
đó
chỉ
là
giải
pháp
tạm
thời.
Công
cụ
mà
Ðức
Thế
Tôn
trao
truyền
để
diệt
trừ
ái
dục
là
tri
kiến,
hiểu
biết
chân
chính
bản
chất
của
sự
vật. Dứt
bỏ,
từ
khước,
thật
sự
không
phải
là
vấn
đề
tự
ép
buộc
mình
cố
gắng
buông
bỏ
nhưng
gì
mà
sâu
kín
trong
lòng
mình
vẫn
còn
tưng
tiu,
ôm
ấp,
mà
là
vấn
đề
tự
mình
thay
đổi
quan
kiến
của
mình,
nhìn
sự
vậy
dưới
ánh
sáng
trí
tuệ.
Khi
chúng
ta
quán
trạch
tận
tường
và
thấu
triệt
đầy
đủ
bản
chất
thật
sự
của
ái
dục
và
những
đối
tượng
của
nó
thì
chính
nó
sẽ
tan
biến
mà
không
cần
phải
chiến
đấu. Một
em
bé
đang
say
mê
giữa
đám
đồ
chơi
của
em.
Nếu
có
ai
đến
xin
hoặc
dựt
của
em
một
món
ắt
là
em
khóc
la
và
tranh
đấu
giành
lại
cho
kỳ
được.
Nhưng
em
bé
lớn
dần.
Ðến
một
ngày
nào
em
sẽ
không
còn
bám
niú
vào
những
đồ
chơi
ấy
nữa
mà
để
mặc
tình
ai
lấy
đi
hay
làm
gì
cũng
được.
Tại
sao?
-Vì
em
đã
trưởng
thành. Cũng
dường
thế
ấy,
ngày
nào
ta
nhận
thức
rằng
ái
dục
là
nguồn
gốc
của
khổ
đau,
và
đau
khổ
luôn
luôn
dính
liền
với
ái
dục,
bởi
vì
ái
dục
là
khát
khao
và
bám
chặt
vào
một
cái
gì
không
ngừng
biến
chuyển,
một
cái
gì
không
thật
sự
có
thì
làm
sao
tránh
khỏi
sầu
muộn,
đau
buồn,
thất
vọng.
Ðến
chừng
ấy
ta
sẽ
không
còn
luyến
ái
và
cố
bám,
cố
giữ
những
gì
mà
lúc
nào
tưởng
chừng
như
đó
là
nguồn
hạnh
phúc
duy
nhất
trên
đời Ta
có
thể
tưởng
tượng
rằng
từ
bỏ
ham
muốn
để
vượt
đến
buông
bỏ
là
một
hình
thức
khổ
hạnh,
là
từ
sung
sướng
trở
thành
gian
khổ,
từ
phong
phú
dồi
dào
trở
nên
nghèo
nàn
thiếu
thốn,
từ
hạnh
phúc
thành
sầu
muộn.
Nhưng
thật
sự,
đó
là
đi
từ
thỏa
thích
thô
kịch
đến
hạnh
phúc
tinh
vi
tế
nhị,
êm
dịu
và
thâm
trầm,
từ
những
thú
vui
đầy
phiền
lụy
và
cạm
bẫy
đến
an
lạc,
thanh
bình
và
thật
sự
châu
toàn...
từ
nô
lệ
đến
tự
do. Chuyển
biến
này
sẽ
không
xảy
điễn
nhanh
chóng
hay
một
cách
dột
ngột.
Nhưng
nếu
ta
chuyên
cần
tu
nệim
ắt
một
ngày
nào
nó
sẽ
đến...
như
một
ngày
nào
em
bé
trưởng
thành. 2.
Tư
tưởng
không
thù
hận:
hàm
ý
là
tâm
từ. Tâm
từ
trong
Phật
giáo
là
tình
thương
rộng
lớn
bao
la,
không
có
bất
luận
giới
hạn
hay
sự
phân
biệt
nào
mà
cũng
thâm
diệu
đậm
đà
như
tình
thương
của
một
bà
từ
mẫu
đối
với
người
con
duy
nhất
của
bà. Có
những
lời
dạy
nên
thương
người
láng
giềng,
người
đồng
đạo,
người
đồng
chủng,
người
đồng
hương,
người
đồng
chí,
người
đồng
loại
v.v...
Tất
cả
những
tình
thương
ấy
đều
trong
sạch,
tốt
đẹp
và
cần
thiết
trong
xã
hội.
Nhưng
đó
không
phải
là
tâm
từ
trong
Phật
Giáo
vì
có
sự
phân
biệt
và
có
giới
hạn
trong
tình
thương.
Ðó
là
tình
thương
giới
hạn
trong
cái
"đồng"
Ðây
là
"Ta".
Giữa
đây
và
chúng
sanh
nào
có
một
điểm
gì
chung,
một
cái
gì
"đồng"
với
cái
"Ta"
ấy
thì
có
tình
thương.
Ðồng
thời
có
sự
phân
biệt
với
những
người
khác,
những
người
không
có
gì
"đồng".
Thương
người
láng
giềng
"Của
Ta",
người
chung
một
tôn
giáo
với
"Ta"
,
cùng
một
chủng
tộc
với
"Ta",
một
xứ
sở
với
"Ta"
v.v...
Lấy
cái
"Ta"
làm
trung
tâm
điểm
rồi
từ
đó
tình
thương
phát
tủa
ra
như
ánh
sáng
một
ngọn
đèn
trong
căn
phòng,
giới
hạn
bên
trong
bốn
vách.
Ðó
là
bản
chất
tự
nhiên
của
con
người.
Tình
thương
vẫn
là
tình
thương,
với
tất
cả
những
gì
tốt
đẹp,
dịu
hiền,
dễ
mến
của
nó.
Xã
hội
không
thể
tồn
tại
nếu
không
có
những
tình
thương
ấy. Ở
đây
chỉ
muốn
nói
rằng
tâm
từ
của
Phật
Giáo
không
phải
như
vậy.
Tâm
từ
phải
bao
trùm
toàn
thể
chúng
sanh,
toàn
thể
càn
khôn
vũ
trụ,
vô
lượng,
vô
biên,
không
có
sự
phân
biệt
nào.
Người
có
tâm
từ
phải
vượt
lên
khỏi
mọi
hình
thức
chia
rẽ,
riêng
tư,
không
bị
giam
hãm
trong
những
tư
tưởng
hẹp
hòi,
không
chịu
ảnh
hưởng
của
tinh
thần
đấu
tranh
giai
cấp,
quốc
gia,
chủng
tộc,
tôn
giáo
mà
nhìn
tất
cả
thế
gian
là
quê
hương
của
mình,
và
mỗi
người,
mỗi
chúng
sanh,
là
bạn
đồng
hành
trong
đại
trùng
dương
mà
ta
gọi
là
đời
sống
của
muôn
loài
vạn
vật.
Người
có
tâm
từ
hòa
đồng
với
tất
cả,
tự
mình
chan
hòa
trong
toàn
thể,
xem
vạn
vật
và
mình
là
một. Một
loại
tâm
như
vậy
quả
thật
là
cao
thượng!
Nhưng
cũng
rất
khó
thực
hành.
Ðúng
như
vậy.
Vì
lẽ
ấy
chúng
ta
còn
là
phàm
nhân.
Chúng
ta
còn
phân
biệt
đây
là
"Ta",
kia
là
cha,
là
mẹ,
là
vợ,
là
chồng,
là
con,
là
cháu
"Của
Ta",
cái
này
là
tiền
của,
sự
nghiệp,
cái
kia
là
danh
vọng,
quyền
thế
"Của
Ta"
v.v...
Chư
vị
A
La
Hán
đã
tận
diệt
ngã
chấp.
Tâm
từ
của
các
Ngài
như
vừng
thái
dương,
bao
trùm
vạn
vật
mà
không
có
sự
phân
biệt
nào.
Ðức
Phật
là
kết
tinh,
là
hiện
thân
của
tâm
từ
vô
lượng
vô
biên
ở
mức
độ
cùng
tột.
Ðó
là
những
gương
lành
trong
sạch
để
ta
noi
theo,
là
lý
tưởng
thanh
cao
tuyệt
đỉnh
để
ta
hướng
tâm
về.
Những
tư
tưởng
nào
hướng
về
tâm
từ
vô
lượng
ấy
là
Chánh
Tư
Duy. 3.
Tư
tưởng
không
hung
bạo: Hung
bạo
là
gây
đau
khổ
cho
người
khác
mà
không
xót
thương,
không
động
lòng
trước
tình
trạng
đau
khổ
của
người
khác.
Nghịch
nghĩa
của
hung
bạo
là
bi
mẫn,
động
lực
làm
cho
ta
rung
động
trước
cảnh
khổ
của
người
khác,
là
cái
gì
thoa
dịu
lòng
khổ
đau
của
người,
là
thiện
ý
muốn
giúp
người
thoát
một
cảnh
khổ.
Tâm
không
hung
bạo
là
tâm
bi. Cũng
như
tâm
tư,
tâm
bi
phải
vô
lượng,
vô
biên,
không
bị
hạn
dịnh
trong
một
gia
dình,
một
xóm,
một
làng,
một
quốc
gia,
một
tôn
giáo,
một
giai
cấp
hay
một
loại
chúng
sanh
nào. Ðối
tượng
của
tâm
từ
là
toàn
thể
chúng
sanh
-
chúng
sanh
khổ
và
chúng
sanh
không
khổ
-
mà
không
có
sự
phân
biệt.
Ðối
tượng
của
tâm
bi
là
những
chúng
sanh
xấu
số,
đang
ở
trong
cảnh
khổ,
và
tác
dụng
của
tâm
bi
là
gia
công
giúp
người
đang
khổ
thoát
ra
khỏi
hoàn
cảnh
bất
hạnh
ấy.
Người
có
tâm
bi
chuyên
lo
nâng
đỡ
kẻ
thấp
hèn,
nghèo
đói,
cô
thân,
tuyệt
vọng,
chăm
nom
săn
sóc
người
bệnh
hoạn
tật
nguyền,
khuyên
nhủ
dỗ
dành
người
thất
bại,
dẫn
dắt
và
cứu
độ
người
tội
lỗi
và
soi
sáng
người
tối
tăm
lầm
đường
lạc
nẻo. Thấy
người
hoạn
nạn
rồi
âu
sầu
ủ
dột,
phiền
muộn
khóc
than.
Ðó
không
phải
là
tâm
bi
mà
giống
như
người
"thù
mang
lốt
bạn"
của
tâm
bi.
Tâm
bi
trong
Phật
giáo
không
phải
là
những
giọt
nước
mắt
chảy
suông
trước
sự
đau
khổ
của
kẻ
khác.
Ðặc
tính
của
tâm
bi
là
ý
muốn
giúp
người
khác
thoát
khỏi
một
cảnh
khổ
chớ
không
phải
là
phiền
não
âu
sầu
với
họ.
Thọ
ưu
(domanassa,
cảm
giác
buồn
khổ)
thuộc
về
tâm
sân
(dosa,
hay
patigha),
một
trong
ba
căn
bất
thiện. Tâm
bi
giống
như
tình
thâm
của
bà
từ
mẫu,
thương
xót
đứa
con
đang
lâm
bệnh.
Bao
nhiêu
tâm
trí,
lời
nói
và
hành
động
đều
tập
trung
lại
để
chuyên
chú
tìm
phương
thế
làm
cho
con
đỡ
đau
khổ. Lòng
người
có
tâm
bi
thật
là
mềm
dịu,
hơn
cả
những
tai
hoa
mềm
mại,
không
bao
giờ
hành
hung
hay
làm
điều
chi
phương
hại
đến
kẻ
khác.
Chính
nhờ
tâm
bi
mà
con
người
có
thể
phục
vụ
một
cách
hoàn
toàn
vị
tha.
Người
có
tâm
bi
không
sống
cho
mình
mà
sống
cho
kẻ
khác
và
luôn
luôn
tìm
cơ
hội
giúp
người,
nhưng
không
bao
giờ
mong
đợi
được
đền
ơn
đáp
nghiã.
Có
những
tư
tưởng
hướng
về
tâm
bi
là
Chánh
Tư
Duy. Bản
chất
của
chúng
sanh
là
tham
lam,
sân
hận
và
hung
bạo
-
hai
hình
thức
khác
của
ái
dục
-
vì
khư
khư
cố
chấp
đây
là
"Ta",
cái
này
là
"Của
Ta". Chúng
ta
vui
thích
những
gì
vừa
ý
và
ghét
bỏ
những
gì
phật
lòng
cái
"Ta".
Vui
thích
thì
đâm
ra
luyến
ái,
đeo
niú,
cố
bám
chắc,
tức
tham.
Phật
lòng
thì
bất
mãn,
xua
đuổi,
giận
dữ,
oán
ghét,
tức
sân,
lắm
khi
đưa
đến
hung
bạo
tàn
ác. Khi
Chánh
Kiến
và
Chánh
Tư
Duy
dần
dần
phát
triển,
hiểu
biết
và
suy
tư
chân
chánh
hỗ
trợ
lẫn
nhau
đưa
đến
nhận
thức
ngày
càng
rõ
rệt
bàn
chất
rỗng
không
của
cái
gọi
là
"Ta"
.
Chừng
ấy
tâm
luyến
ái,
sân
hận
và
hung
bạo
dần
dần
suy
giảm,
nhường
chỗ
cho
tâm
buông
bỏ,
tâm
từ
và
tâm
bi.
1993/2536
2.
Những
tư
tưởng
không
thù
hận
và
3.
Những
tư
tưởng
không
hung
bạo.
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
Nguồn: www.quangduc.com