Tứ đế
là pháp nguyên thỉ đầu tiên được đức Phật
chuyển pháp luân nơi vườn lộc dã cho năm vị tỳ kheo, sau khi Ngài thành
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Là giáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích
mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên,
cũng là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi, là
những lời dạy đại cương trên đại thể của giáo nghĩa nguyên thỉ của đức
Phật cho cả Tiều thừa lẫn Đại thừa sau này. Nhưng trên thực tế, như kinh
Diệu pháp Liên hoa
(Puṇḍarika)
đã nói rõ là có sự nhận thức sai biệt quan trọng về các Thánh đế (āryasatayā)
cũng như lý Duyên khởi (Pratītyasamutpāda)
trong việc chứng đắc Niết-bàn (Nirvāna)
giữa các nhà Tiểu thừa và Đại thừa, nghĩa là một chúng sanh theo các nhà
Tiểu thừa, muốn đạt được Niết-bàn thì phải vượt qua khỏi sinh tử (samsāra)
mới đạt được cảnh giới Niết-bàn ngoài sinh tử, hay đi từ trạng thái thế
gian (laukika)
đến một trạng thái xuất thế gian (lokuttara).
Còn theo các nhà Đại thừa thì giữa sinh tử và Niết-bàn không có sự sai
khác nào. Thế gian có được chỉ là một sự hiện hữu tương đối, giả tạm
không thật có, nhờ nhận thức và thực hành như vậy nên chứng được
Niết-bàn chân thật, còn gọi là
Tathatā
(như thật tánh) hay
Sūnyatā
(không tánh).
Qua hai
quan điểm về Sự thật sai khác như vậy, nên phương pháp thực hành, và hai
nhãn quan đối tất cả mọi sự vật hoàn toàn khác xa. Đối với các nhà Tiểu
thừa Tứ Thánh đế và lý duyên khởi luôn cho là thật có, chúng thuộc về Đệ
nhất nghĩa đế (paramattha)
chứ không phải tục đế (saṃvṛti)
hay Biến kế sở chấp (parikalpita),
Y tha khởi (paratantra)
của các nhà Duy thức. Vì sự sai khác giữa hai quan điểm như vậy nên theo
đó chúng tôi xin được trình bày về chúng theo hai quan điểm được lấy ra
từ hai hệ kinh điển Tiểu thừa và Đại thừa về Tứ đế.
Như
kinh Phân biệt Thánh đế trong
Trung A
hàm 7,
hoặc
Đại tỳ-bà-sa luận 77,
đã định nghĩa về Tứ đế thì:
1. Khổ
đế (duḥkha-satya):
Chỉ cho trạng thái khổ não bức bách thân tâm. Nhận thức đúng thế gian,
không luận là hữu tình hay vô tình của tất cả mọi sự vật giữa thế gian,
tất cả đều là khổ; cùng mọi giá trị phán đoán do những hoàn cảnh chung
quanh tạo ra trong cuộc sống của con người thuộc về thế tục, thì bản
chất của chúng là khổ. Khổ đế là Chân đế chỉ cho quan hệ sinh tử thật
là khổ.
2. Tập
đế (samudaya-satya):
có nghĩa là nhóm họp tích chứa. Nhận thức đúng tất cả nghiệp hoặc phiền
não, chúng có khả năng nhóm họp quả khổ sinh tử ba cõi. Tập đế là chân
đế chỉ cho quan hệ sinh khởi cùng căn nguyên của mọi thứ khổ của chúng
sanh ở trong thế gian này.
3. Diệt
đế (nirodha-satya):
là tịch diệt. Nhận thức đúng về việc đoạn trừ dục ái nguồn gốc của khổ,
thì khổ sẽ diệt được, và có thể sẽ nhập vào cảnh giới Niết-bàn. Diệt đế
là chân đế chỉ cho sự quan hệ diệt tận khổ và tập.
4. Đạo
đế (mārga-satya):
Đạo có nghĩa là thông suốt. Nhận thức đúng về đạo diệt khổ, qua bát
Chánh đạo (Từ chánh kiến cho đến chánh tuệ). Nếu nương tựa vào chúng mà
tu hành, thì sẽ thoát khỏi hai đế khổ-tập, đạt đến cảnh giới Niết-bàn
tịch tĩnh. Đạo đế là chân đế chỉ cho sự quan hệ đến bát chánh đạo.
Qua Tứ
đế khồ và tập biểu thị cho nhân quả mê vọng của thế gian; tức quả của
hữu lậu thế gian là khổ đế, nhân của hữu lậu thế gian là tập đế; quả của
vô lậu xuất thế gian là diệt đế, nhân của vô lậu xuất thế gian là đạo
đế. Đó là nhân quả Tứ đế giải thoát sinh tử qua kinh điển dành riêng cho
các nhà Thinh văn như trong kinh Pháp Hoa (Puṇḍarika)
phẩm tựa đã dạy.
Có rất
nhiều thuyết khác nhau nói về tự tánh của tứ đế: Theo
Đại
tỳ-bà-sa luận 77,
hay các nhà luận sư của A-tỳ-đạt-ma thì lấy ngũ thủ uẩn làm khổ đế, nhân
hữu lậu làm tập đế; lấy trạch diệt làm diệt đế, pháp học, vô học làm đạo
đế. Còn
Câu xá luận 22,
Đại tỳ-bà-sa luận 78,
thì theo thứ tự lấy Tứ đế để hiện quán: Trước hết quán Khổ đế, tiếp theo
quán Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Ngoài ra về lý Tứ đế còn phân ra làm ba
giai đoạn, mỗi giai đoạn như vậy thì có bốn hành tướng gọi là tam chuyển
thập nhị hành tướng:
a) Lần
chuyển ban đầu gọi là Thị chuyển: ‹Đây là Khổ đế›.
b) Lần
chuyển thứ hai gọi là Khuyến chuyển: ‹Đây là khổ nên biết tất cả (vĩnh
viễn đoạn trừ, chứng nhập và tu tập)
c). Lần
chuyển thứ ba gọi là Chứng chuyển: ‹Đây là Khổ đã biết tất cả, cho đến
đã tu tập.) Và cứ như vậy Tập, Diệt, Đạo đế có ba lần chuyển như vậy.
Cho nên gọi là mười hai hành tướng.
Theo
kinh A hàm 15,
Câu xá luận 24,
thì trong ba lần chuyển Tứ đế này
mỗi đế có bốn hành tướng nhãn, trí, minh, giác; và như vậy thì trong mỗi
đế có cả mười hai hành tướng. Nhưng theo lối giải thích này chúng không
thông dụng mà chỉ thông dụng mỗi đế có ba lần chuyển thành mười hai hành
tướng, chứ không có bốn hành tướng của nhãn, trí, minh, giác trong mỗi
đế.
Nhưng
theo các nhà Nhất thiết hữu bộ
trong tu chứng luận giáo học thì dùng tứ thiện căn đề thành lập cách
quán Tứ đế, mỗi một đế như vậy thì có bốn loại hành tướng, cọng lại
thành mười sáu hành tướng, nên gọi là mười sáu hành tướng Tứ đế: Tức là
quán Khổ đế có bốn hành tướng
phi
thường, khổ, không, phi ngã,
nghĩa là tất cả vạn pháp không có tánh thường tồn, chúng là Khổ, chúng
chỉ tồn tại trong tướng giả tạm, không có thể tánh thật sự; quán Tập đế
có bốn hành tướng nhân,
tập, sinh, duyên, nghĩa
là chấp ái
là nhân của khổ, Tập này tích tụ khổ, mà cũng làm trợ duyên cho khổ sanh
khởi; quán Diệt đế có bốn hành tướng
diệt, tĩnh, diệu, ly,
nghĩa là cảnh giới lý tưởng của diệt khổ là diệt mọi sợi giây trói buộc,
phiền não không còn nữa, cảnh giới thù thắng vi diệu, xa lìa mọi tai
hoạn; quán Đạo đế cũng có bốn hành tướng
đạo, như, hành, xuất,
nghĩa là đạt đến Thánh đạo diệt khổ,
vì thánh là con đường chính của thực hành hợp với chánh lý, hướng đến
cảnh giới lý tưởng, mà vượt qua khỏi cuộc sống tồn tại mê vọng. Theo thứ
tự bốn thiện căn này nhập vào kiến đạo, dùng trí vô lậu chân thật hiện
quán Tứ đế. Kiến đạo này tức là dự lưu hướng, đến nơi dự lưu quả, và từ
đó trở về sau thuộc về tu đạo, nếu đã thông được mười sáu tâm hiện quán
Tứ đế của dự lưu hướng, và dự lưu quả rồi thì gọi là hiện quán Thánh
đế.
Hơn
nữa, theo các nhà Hữu bộ lần lượt quán Tứ đế với bốn nhẫn, bốn trí lấy
Dục giới làm đối tượng, khi chấp nhận khổ là sự thật thì quán Khổ đế gọi
là Khổ pháp trí nhẫn hay còn gọi là Khổ pháp nhẫn, là hiện quán Khổ đế
dục giới, đoạn trừ phiền não mê của Khổ đế, dùng Khổ pháp trí hiện quán
Khổ đế của dục giới để chứng nhập lý của Khổ đế. Còn nếu dùng sắc giới,
vô sắc giới làm đối tượng quán Tứ đế, là nhờ phương pháp loại suy, khi
nhận thức có được khi quán Khổ đế gọi là Khổ loại trí nhẫn hay còn gọi
là Khổ loại nhẫn, là hiện quán Khổ đế của hai cõi trên, mà đoạn trừ
phiền não, nhờ Khổ loại trí hiện quán Khổ đế hai cõi trên mà chứng lý,
tức dùng bốn tâm hiện quán Khổ đế này. Đối với Tập đế, Diệt đế, Đạo đế
cũng hiện quán như vậy. Tất cả là mười sáu tâm gọi là tám trí, tám nhẫn.
Ngoài ra, cũng theo thứ tự quán về thanh tịnh vô lậu của Tứ đế, có thể
sinh ra Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí, bốn trí này cùng với Thế
tục trí, Pháp trí, Loại trí, Tha tâm trí, Tận trí, Vô sanh trí, cùng gọi
là Thập trí bao gồm tất cả Hữu lậu trí, và Vô lậu trí.
Đó là
những quan điểm về Tứ đế từ lúc sơ chuyển pháp luân tại vườn nai cho đến
hiện tại của các nhà Tiểu thừa nói chung và của bộ phái Hữu bộ nói
riêng, họ căn cứ vào những thủ đắc có được từ những lời dạy đầu tiên về
Tứ đế và những triển khai sau này của họ, theo định luật nhân quả, tuỳ
theo hiện quán Tứ đế về những hiện thực khổ đau tồn tại của nhơn sinh mà
họ muốn vượt qua khỏi sự khổ đau sinh tử này bằng cách vượt ra khỏi ba
cõi đề đạt đến một thế giới Niết-bàn chân thật ngoài ba cõi này.
Đối với
các nhà Tiểu thừa Tứ đế và lý Duyên khởi là thật có hiện hữu, nhưng
ngược lại các nhà Đại thừa nhất là các nhà Trung quán, cho rằng các pháp
không như thật có, kể cả pháp Tứ đế hay Thập nhị nhân duyên. Tuy nhiên
các nhà Đại thừa sở dĩ không phủ nhận chúng là vì theo các Ngài sinh tử
không ngoài Niết-bàn, và Niết-bàn không ngoài sinh tử cho nên không gạt
chúng ra ngoài, mà chấp nhận rằng chúng sanh vì vô minh che lấp, ban đầu
muốn hiểu được Pudgala śūnyatā (nhơn không) thì phải nhờ hai pháp này.
Do đó các nhà Đại thừa coi Tứ đế như là một pháp phương tiện như muôn
nghìn pháp phương tiện khác, để từ đó chuyển chúng thành cứu cánh trong
những nhận thức thực hành của họ. Các nhà Đại thừa xem đức Phật có hai
hình thức về những lời dạy của Ngài, một là Tục đế, hai là Chân đế.
Những gì Ngài dạy về Từ đế chúng thuộc về Tục đế (Samvṛti),
chỉ có Tathatā
và Śūnyatā
mới thuộc về Chân đế (Paramārthsatya).
Và vì vậy Tứ đế cũng tuỳ theo sự nhận thức của các nhà Đại thừa bỡi
những thủ đắc của họ có được về Tứ đế về hình thức cũng như nội dung.
Theo
Hiển dương Thánh giáo luận
7,
của Đại thừa Phật giáo thì y cứ vào nội dung của Tứ đế mà triển khai ra
nhiều hình thức: Hành Khổ đế, Hoại Khổ đế, Khổ Khổ đế, Lưu chuyển đế
(Lấy Khổ để triển khai), Tạp nhiễm đế (tương đương với hai đế Khổ, Tập),
Lưu tức đế (tương đương với Diệt đế), Thanh tịnh đế (tương đương với hai
đế Diệt, Đạo), Chánh phương tiện đế (tương đương với Đạo đế) thành bát
đế.
Tuy
nhiên ngoài thuyết giải thoát sinh tử này trong Tiểu thừa giáo, kinh
điển Đại thừa cũng có nói về Tứ đế này, như kinh
Thắng man,
kinh Đại bát Niết-bàn 7,
bắc bổn, phát huy và giải thích rất nhiều về thâm nghĩa của Tứ đế này.
Theo Thắng Man bảo khốt
của Cát Tạng quyển hạ,
cho là cách quán của Tiều thừa về Tứ đế không được triệt để, không đạt
cứu cánh, sau đó phải tu tác trở lại, nên gọi là hữu tác Tứ đế; còn Tứ
đế của Đại thừa là hoàn toàn triệt đề, đạt cứu cánh, sau đó không còn tu
tác nữa nên gọi là vô tác Tứ đế. Hai quan điểm này hợp lại cũng gọi là
bát đế. Theo
Thắng Man Giảng Luận
của TT. Tuệ Sỹ, chương VII Thánh Đế và Niết-bàn tr. 130-124 thì: «Bốn
Thánh đế là nội dung của giáo pháp không chỉ riêng biệt của Thanh văn
hay Duyên giác thừa mà chung cho cả ba thừa. Tuỳ theo trình độ nhận thức
mà ý nghĩa của bốn Thánh đế có nội dung khác nhau. Như sự khẳng định
kinh Đại Bát-nhã về tự tính của bốn Thánh đế. Tu-bồ-đề hỏi Phật:
“Thế
nào là bốn Thánh đế bình đẳng?”
Phật
nói:
“Nếu
không tồn tại sự khổ, không tồn tại nhận thức về khổ; không tồn tại
nguyên nhân tập khởi của khổ cũng không tồn tại nhận thức về nguyên nhân
tập khởi của khổ; không tồn tại sự diệt khổ cũng không tồn tại nhận thức
về sự diệt khổ; không tồn tại con đường dẫn đến diệt khổ, cũng không tồn
tại nhận thức về con đường dẫn đến diệt khổ. Đó gọi là bốn Thánh đế bình
đẳng.
“Lại
nữa, Tu-bồ-đề, bốn Thánh đế ấy là như như, là không dị biệt, là pháp
tướng, là pháp tính, là pháp trụ, là pháp vị, là thật tế. Vì rằng, có
Phật hay không có Phật, pháp tướng là thường trụ, không hư dối, không
biến thái.”»
Và bốn
Thánh đế theo sự nhận thức của Thắng Man Phu nhơn khi thưa trình đức
Phật:
«Bạch
Thế tôn, trong bốn Thánh đế này, ba là vô thường, một là thường. Vì sao?
Vì ba đế thuộc vào tướng hữu vi. Những gì thuộc vào tướng hữu vi, là vô
thường; những gì là vô thường, lìa pháp hư vọng. Những gì là pháp hư
vọng, không phải là đế, không phải là thường, không phải là chỗ quy y.
Do đó, Khổ đế, Tập đế, Đạo đế không phải là Đệ nhất nghĩa đế, không phải
là thường, không phải là chỗ quy y.
«Một
khổ diệt đế lìa tướng hữu vi. Lìa tướng hữu vi, nên là thường. Thường
nên không phải là pháp hư vọng. Không phải là pháp hư vọng nên là đế,
nên là thường, là chỗ quy y. Nên diệt đế là Đệ nhất nghĩa đế.»
Theo
Thắng Man phu nhơn, mặc dù có sự khác biệt trong nhận thức và phương
pháp, trên mặt hiện tượng giới chúng bị lệ thuộc vào thời gian của ba
đế, nên cái nhìn bị hạn chế vào cá biệt. Ở đây, những nỗi khổ của sinh
tử chỉ được chiêm nghiệm và kinh qua bỡi cá thể, và ước vọng hướng đến
để giải thoát khổ cũng tuỳ thuộc vào cá thể ở trong phần đoạn sinh tử,
nhưng về tự tánh của bốn Thánh đế giữa Tiểu thừa lẫn Đại thừa vốn bình
đẳng, nên Phu nhơn nói: «Vì pháp không hơn kém mà chứng đắc Niết-bàn. Vì
trí tuệ bình đẳng mà chứng đắc Niết-bàn. Vì giải thoát bình đẳng mà
chứng đắc Niết-bàn. Vì thanh tịnh bình đẳng mà chứng đắc Niết-bàn. Cho
nên Niết-bàn chỉ có một vị, vị bành đẳng, gọi là vị giải thoát.»
. Đó là những sai biệt trong cách nhận thức, trong phương pháp và trong
cái nhìn về bản thể của bốn Thánh đế giữa các nhà Tiểu thừa và Đại thừa
trong cách lý giải về chúng.
Theo
Đại sư Trí Khải của tông Thiên Thai y cứ vào
kinh Niết-bàn 5,
phẩm Đức vương,
cùng ý nghĩa trong bốn câu kệ: ‹Nhân duyên sở sinh pháp
… mà thành lập riêng bốn loại Tứ đế từ cạn đến sâu không đồng, phối hợp
cùng bốn giáo tướng của Tạng, Thông, Biệt, Viên lại thành:
a/ Sinh
diệt Tứ đế: là chủ trương của Tạng giáo, dùng sự sinh diệt của pháp hữu
vi, mà quán nhân quả Tứ đế là thật có sinh, diệt.
b/ Vô
sinh Tứ đế (hay là Vô sinh diệt Tứ đế): là chủ trương của Thông giáo,
dùng các pháp nhân duyên tức không, vô sinh mà quán nhân quả mê ngộ Tứ
đế đều là không-vô mà không sinh diệt.
c/ Vô
lượng Tứ đế: là chủ trương của Biệt giáo, lấy sự sai biệt vô lượng hằng
sa của nội giới và ngoại giới, mà quán tất cả mọi hiện tượng đều do nhân
duyên sinh ra có đầy đủ vô lượng sự sai biệt, nhân đó mà Tứ đế cũng có
vô lượng tướng.
d/ Vô
tác Tứ đế: là chủ trương của Viên giáo, lấy đương thể của mê ngộ tức
thật tướng, mà quán sự đối lập mâu thuẫn của mê cùng ngộ tức chẳng phải
mâu thuẫn, mà chính chúng là thật tướng.
Sự sai
biệt về bốn loại Tứ đế của Tông Thiên thai qua y cứ
kinh Niết-bàn 51,
phẩm Đức Vương, của Trí Khải Đại sư
được thành lập căn cứ vào giáo tướng của Tạng giáo, Thông giáo, Biệt
giáo, và Viên giáo để từ đó cho chúng ta thấy được đặt điểm cơ bản ở đây
là tuỳ thuộc vào căn cơ nhận thức qua thực tế nỗi khổ của cuộc đời được
biểu hiện qua mỗi cái nhìn cá biệt về thực tại khổ của mỗi hành giả được
thể hiện qua mỗi giáo tướng của giáo môn, từ cạn đến sâu, từ tiểu đến
đại qua Tứ đế: Từ dụng có; đến dụng không; từ dụng vừa có, vừa không;
đến dụng chẳng phải có, chẳng phải không.
Còn
theo các nhà Duy Thức thì trong: «Các tác phẩm Duy Thức như Thành Duy
thức (Siddhi),
và Nhập Lăng Già (Laṅkāvatāra)
không chỉ nói riêng về Tứ đế mà nói đến giáo lý Tiểu thừa để so sánh và
nêu rõ sự khác biệt. Ví dụ các tập ấy nói đến các nhà Tiểu thừa như
những vị chỉ nắm giữ hiển giáo của đức Phật chớ không phải mật giáo; tự
bằng lòng xác nhận sự sinh khởi của sự vật mà thôi, chớ không tìm hỏi
tính bất sanh căn bản. Chúng bị khổ cực dưới vọng tưởng (parikalpanā),
xem ba giới là thật có, ước định sự sai biệt giữa chủ thể và đối tượng,
tự chấp nhận sự hiện hữu của uẩn, xứ, giới, tâm (citta),
nhân duyên (hetupratyaya),
hoạt động (kriyāyoga),
sanh (utpāda),
trú (sthiti),
diệt (bhaṅga)
v.v.»
Trong khi các nhà Duy thức lại chủ trương: «Xem mọi sự vật là không
thiệt có, bất sinh bất diệt, chân đế không thể tuyên bố, đồng nhất với
Như thật tánh và không thay đổi, đầy đủ tướng anāyūha (bất
thủ), và niryūha (bất
xả), và vượt ngoài mọi
khả năng tưởng tượng (Laṅkā.
Tr. 196). Theo các nhà Duy Thức thì Tứ đế cũng như bất cứ giáo lý nào đã
được đức Phật nói ra, chúng được coi như là những pháp không thật hữu
ngoại trừ Tathatā
(như thật tánh) hay
Sūnyatā
(không tánh) mới thuộc về Đệ nhất
nghĩa đế hay Chân đế, còn tất cả chúng thuộc về Tục đế, thuộc về biến kế
sở chấp, y tha khởi đối với các nhà Duy Thức.
Cũng
vậy, Ngài Nāgārjuna (Long Thọ) cũng đứng trên quan điểm coi mọi vật
không thật hiện hữu, nhưng nếu có hiện hữu đi chăng nữa, thì sự hiện hữu
Tứ đế này cũng chỉ là hiện hữu giả tạm, chúng như một giấc chiêm bao,
như một giấc mơ, cần được nhận thức như vậy. Vì theo Ngài mọi vật đều
không (Sarvam Sùnyam)
qua những lời dạy của đức Phật về ba pháp ấn, đã cho chúng ta một cái
nhìn chính xác hơn về các pháp được đức Phật nói ra trong đó có Tứ đế.
Nhưng các nhà Tiểu thừa đã không nhìn ra được, nên giữa các nhà Tiểu
thừa và Đại thừa có sự tranh luận sôi nổi gay gắt về vấn đề này và ngày
càng thêm quyết liệt hơn trong cung cách chấp nhận và giải thích theo
quan điểm của mỗi bộ phái. Các nhà Tiểu thừa chỉ chấp nhận và bằng lòng
với lối giải thích giản dị là: “Vì thế giới không có tự ngã và những sở
hữu của ngã nên được gọi là Sùnya” (yasmà ca sunnam attena va
atteniyena va tasmà sunno loko ti vuccati). Từ quan điểm ấy, các nhà
Tiểu thừa chỉ chấp nhận dành Sùnya cho các pháp hữu vi và đặc biệt là
Nhơn không (Pudgala sùnyatà) mà thôi . Trong khi đó, các nhà
Đại thừa, đặc biệt là các nhà Madhyamikàs (Trung quán), không
dừng lại nơi đây, ngược lại còn tiến xa triệt để hơn trong cách giải
thích của mình về Sarvam sùnyam. Theo các nhà này, thì Sùnyatà không
những chỉ dành riêng áp dụng cho các pháp hữu vi, mà ngay đến các pháp
vô vi cũng được áp dụng một cách triệt để như quan niệm về Niết-bàn (Nirvana),
Như Lai (Tathàgata) hay bất cứ một khái niệm nào khác .
Chính
những quan niệm triệt để này đã làm lung lay tận nền tảng tri thức của
các nhà Tiểu thừa về những quan niệm mà họ đã thủ đắc được từ những lời
dạy của đức Phật về Tứ đế (àryasatyas), lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàda)
cùng tất cả những giáo lý khác. Từ những hụt hẫng này, các nhà Tiểu thừa
đã phản bác lại bằng những nạn vấn sắc bén. Mà theo đó, những nạn vấn
này, chúng vừa củng cố cho lập trường hữu lý của họ, vừa đánh đổ những
phi lý của các nhà Đại thừa và Trung quán đã phạm phải, theo quan điểm
và lập trường của họ. Ở đây, chúng tôi sẽ trình bày những nạn vấn này,
cùng những quan điểm của Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) về Tứ đế
:
Theo
quan điểm và lập trường của các nhà Tiểu thừa thì: Nếu tất cả thế gian
đều không, không có sở hữu thì sẽ không có hiện tượng sanh diệt . Khi đã
không có hiện tượng sanh diệt hiện hữu, thì tất cả mọi hiện tượng theo
đó không hiện hữu và ngay đến cả nhân quả Tứ đế: "Thấy khổ, đoạn tập,
chứng diệt và tu đạo" cũng không luôn. Do đó pháp bảo cũng không có. Từ
không này dẫn đến Bốn quả Sa môn, Bốn hướng, Bốn đắc cũng không. Từ đó
Bát hiền thánh cũng không hiện hữu. Khi Bát hiền thánh đã không hiện hữu
thì không có Tăng bảo. Tóm lại, nếu Pháp bảo đã không, Tăng bảo đã không
thì làm gì có Phật bảo? Do đó ngài đã phá hoại Tam bảo. Không những chỉ
phá hoại Tam bảo thôi mà còn phá hoại luôn cả nhân quả tội phước cùng
tất cả các pháp đang hiện hữu trên thế gian này. Từ những phân tích trên
cho thấy các ngài đã quá sai lầm trong nhận thức về các pháp. Ở đây, các
pháp chỉ thực hữu chứ không phải không thực hữu như các ngài đã quan
niệm.
Để trả
lời những nạn vấn này, ngài Long Thọ thấy rằng: «đối phương đã không nắm
được ý nghĩa Không (Sùnyatà), tướng Không cùng nhân duyên Không,
nên có những tưởng tượng sai lầm về chúng. Do đó, trước hết, ngài muốn
vạch ra những sai lầm của đối phương về Sùnyatà:
-
Sùnyatà không phải là Nàsstitva (Đoạn diệt) cũng không phải
là Abhàva (khiếm diện một cái gì) như họ tưởng, mà Sùnyatà cần
phải nhận thấy qua các đặc tướng trong việc giải thích nó .
-
Sùnyatà là Aparapratyaya (không thể dạy cho người khác) chỉ
có tự mình chứng ngộ nội tâm, không thể nghe người khác giảng dạy mà
hiểu được .
-
Sùnyatà là Sànta (an tịnh), không bị sinh diệt chi phối .
-
Sùnyatà là Prapancairaprapancitam (không thể nghĩ bàn).
-
Sùnyatà là Nivirkalpa (không thể giải ngộ), vượt ngoài vọng
tưởng.
-
Sùnyatà là Anànàrtha (không có nhiều nghĩa khác nhau). Ngài
tiếp tục giải thích Sùnyatà là Prtìtyasamutpada (duyên
khởi).»
Sẽ
không có bất cứ giá trị tương đối nào thực hữu tồn tại về một thế giới
mà ở đó, mọi vật được coi như là thật hiện hữu, mà chúng chỉ là một giả
định về mặt hiện tướng khi duyên hợp đủ, để nói lên cái hiệu quả bất
toàn cho cái duyên biến đủ theo sau chúng. Đó chính là cái Tánh
Không (sùnyatà) của các pháp được soi sáng bởi cái nhìn sâu, thâm
hiểu qua mọi sự kiện, mà qua đó, chúng không có một sự kiện sai khác
nào giữa sanh tử và Niết bàn. Thế giới chỉ hiện hữu tương đối giả tạm,
nhưng chúng sẽ trở thành hình như thật có đối với một tâm hồn mê mờ. Do
đó, cần phải đập tan mọi quan niệm sai lầm về một thế gian chân thật ở
bên ngoài thế gian này, theo quan điểm của các nhà Tiểu thừa. Theo đó,
họ sẽ loại bỏ Tục đế (sanh tử) để chứng Chân đế (Đệ nhất nghĩa hay
Niết-bàn). Nghĩa là các vị ấy đi từ trạng thái thế gian (laukika)
đến trạng thái xuất thế gian (lokuttara).
Vì tất
cả những quan niệm sai lầm như trên, nên đã dẫn các nhà Tiểu thừa đến
một thứ cực đoan không thể chấp nhận được, trong việc cố biến giáo lý Tứ
đế và lý Duyên khởi thành một thứ chân lý thực hữu thuộc về Đệ nhất
nghĩa đế (Paramattha) chứ không phải Tục đế (Samvṛti), và
cứ ôm chặt vào đó, cho là một thứ cứu cánh thực hữu cần phải đạt đến.
Cho nên họ đã hiểu một cách sai lạc về quan điểm Sarvam sùnyam
chính đức Phật nói ra. Từ đó, họ đẻ ra những nạn vấn mà chính họ sẽ tự
hại họ trong cuộc đối thoại này.
Tiếp
đến, ngài Long Thọ muốn làm sáng tỏ lập trường của mình về
Dharmasùnyatà qua nạn vấn này. Trước hết, ngài không phủ nhận Nhị đế
mặc dù ngài đã liệt nó vào hàng Tục đế trên phương diện mê. Song không
thể không chấp nhận giáo lý này trên cái nhìn của bậc Thánh, vì giữa
sanh tử và Niết bàn không có sự sai khác. Vì khi mê Nó là tục, khi ngộ
Nó là chơn; chỉ khác nhau ở chỗ mê nó và ngộ nó, như bài kệ ngài viết :
Nếu
chẳng y Tục đế
Chẳng
được Đệ nhất nghĩa
Không
được Đệ nhất nghĩa
Thời
không đạt Niết bàn[20] .
Ở đây,
có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế -Đệ nhất nghĩa đế
-Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
Vì những lý do đó cho nên ngài Long Thọ không phủ nhận giáo lý Nhị đế
trong quan điểm của mình, và chỉ coi nó như là một phương tiện cần cho
giai đoạn chuyển mê khai ngộ. Theo ngài, nếu không nhờ những ngôn thuyết
của Tục đế thời Đệ nhất nghĩa không nói được, và nếu không đạt được Đệ
nhất nghĩa thì làm sao chúng ta có thể đạt được Niết bàn? Vì vậy, nó
được coi như là một phương tiện chuyên chở cho sự thành công của một cứu
cánh. Nhưng khi cứu cánh đã đạt được, và nó nhìn lại chính nó, thì
chính nó là phương tiện chứ không gì khác. Từ những lập luận này cho
chúng ta thấy rằng: quan điểm Sùnyatà của ngài Long Thọ không phủ
nhận giáo lý Nhị đế.
Cũng
đứng trên lập trường này, ngài cảnh cáo các nhà Tiểu thừa rằng: Nếu hiểu
Sùnyatà sai lầm như những nạn vấn trên thì chính mình tự hại
mình. Bởi vì cái nghĩa Không này, nó quyết định sự thành tựu của các
pháp thế gian và xuất thế gian. Ngược lại, nếu không có nó, thì các pháp
thế gian bất thành. Theo pháp Thực-Hữu của các nhà Tiểu thừa thì chúng
đối lập với cái Không Thực Hữu của các pháp. Nhưng Sùnyatà không phải là
cái Không Thực Hữu như các nhà Tiểu thừa quan niệm. Do đó, Sùnyatà
này, nó vượt ra khỏi quan niệm có-không của Tiểu thừa và nhờ vậy mà nó
quyết định được sự thành bại của các pháp. Ngược lại, chính các pháp
Hữu, theo quan niệm của các nhà Tiểu thừa, là pháp sai lầm, rơi vào
thường kiến. Nó sẽ trở thành kẻ phá hoại Tam bảo qua sự soi sáng của
Sùnyatà. Ở đây, chúng ta sẽ thấy một cách rõ ràng hơn, những phản bác mà
ngài Long Thọ đã dùng phương pháp “Gậy ông đập lưng ông”, do chính các
nhà Tiểu thừa đập lại chính họ, sau khi ngài đã chỉ rõ những hiểu biết
sai lầm về Sùnyatà mà cho là cái đoạn diệt, cái không thực hữu,
trong khi Sùnyatà không can hệ gì tới chúng cả .
Ngài
Long Thọ bảo: nếu các nhà Tiểu thừa bảo rằng tất cả các pháp trong đó kể
cả Tứ thánh đế, tự chúng đã có thực hữu định tánh của nó, thì các pháp
này không nhân, không duyên. Chỉ vì tánh kiên trì của nó cho nên chúng
sẽ không sanh diệt. Như vậy, rõ ràng sự thành tựu của các pháp đâu cần
đến nhân duyên? Nhưng trong thực tế, các pháp từ duyên sanh và chúng
diệt đi cũng từ duyên diệt. Vậy, nếu bảo các pháp đã có sẵn định tánh
nơi tự tánh của chúng thì điều này hoàn toàn không đúng. Vì nếu đã có
tánh quyết định nơi tự tánh của chúng rồi, thì theo đó nhân quả cũng sẽ
bị phá luôn, vì không nhân thì làm gì có quả theo sau đó để thể hiện cái
tướng vô thường của các pháp. Đằng này, các pháp như ngài Long Thọ nói:
Các
nhân duyên sanh pháp
Ta nói
tức là không
Đó cũng
là giả danh
Cũng là
nghĩa Trung đạo
Chưa
từng có một pháp
Chẳng
từ nhân duyên sanh
Cho nên
tất cả pháp
Không
phải chẳng là không[21] .
Ở đây,
chúng ta thấy mọi sự hiện hữu của mọi sự vật luôn luôn tùy thuộc vào các
duyên. Do đó, chúng không có tự tánh, chỉ vì muốn hướng dẩn chúng sanh
nên phải dùng giả danh để nói. Không ở đây xa lìa, không lệ thuộc vào
có-không như các nhà Tiểu thừa đã tự hiểu, nên chúng được gọi là Trung
đạo. Vì pháp này không có tánh nên không được bảo là có, cũng không có
không, nên không được bảo là không. Nếu pháp tự nó đã có tánh tướng thì
dứt khoát không cần lệ thuộc vào các duyên mà hiện hữu. Nhưng ở đây, nếu
muốn có pháp mà không nhờ các duyên thì điều đó sẽ không xảy ra. Do đó,
có-không của các vị không phải là pháp Không (Dharmasùnyatà) của
đức Phật .
Ngài
Long Thọ lập luận tiếp: Như trên, các vị bảo rằng quan điểm về
Dharmasùnyatà của chúng tôi có những lỗi như vậy. Nhưng rõ ràng, cái
lỗi sai lầm đó, chính các vị vấp phải chứ không phải chúng tôi. Vì sao?
Vì nếu bảo rằng tất cả các pháp vốn tự chúng đã có tánh, chẳng phải
không tánh thì sẽ rơi vào không sanh diệt. Nhưng nếu mà không sanh diệt
thì sẽ không có Tứ thánh đế. Tại sao vậy? Vì Dukkha (khổ) không
từ duyên sanh nên sẽ không có khổ. Nhưng theo kinh thì "Vô thường là
khổ". Vậy khổ đã có định tánh của riêng nó rồi thì làm gì có vô thường,
vì chúng không bỏ tự tánh riêng của chúng.
Lại
nữa, nếu Dukkha đã có định tánh rồi thì không cần phải sanh trở
lại, vì trước đó đã có Dukkha rồi cần gì phải từ Tập sanh ra. Do
đó không có Samudaya (Tập đế). Mặc khác, nếu Dukkha đã có
định tánh của nó rồi thì cũng chẳng cần Nirodha (Diệt), vì tánh
Dukkha đã định rồi nên không thể mất được.
Lại
nữa, pháp nếu đã định có thì sẽ không có tu Đạo (magga), vì nếu
là thật pháp thì phải là thường hằng. Nhưng đã thường hằng rồi thì không
tăng không giảm, đã không tăng không giảm thì cần gì phải tu đạo? Đạo,
nếu đã tu được thì không có định tánh. Do đó, khi trước đó, các pháp đã
quyết định có tánh của chúng rồi thì không thể có Khổ đế -Tập đế -Diệt
đế. Vậy thì con đường diệt khổ hiện tại nên đi đến chỗ nào để diệt khổ?
Lại
nữa, nếu Dukkha đã là định tánh, mà trước khi chưa làm phàm phu
chưa thấy chúng, thì trong hiện tại vẫn không thể thấy được, và trong cả
tương lai nữa. Vấn đề đoạn Tập, chứng Diệt và tu Đạo cũng như vậy. Nếu
từ trước đến nay chẳng đoạn, chẳng chứng, chẳng tu thì trong hiện tại
cũng chẳng đoạn, chẳng chứng, chẳng tu; vì từ trước tới nay chưa từng
đoạn, chưa từng chứng, chưa từng tu. Cho nên bốn hành trong Tứ Thánh đế,
tất cả đều không hiện hữu. Khi bốn hành đã không hiện hữu thì bốn đạo
quả cũng không luôn, vì định tánh của các pháp cho nên từ trước đến nay
chưa đạt được, và trong hiện tại cũng thế. Ngược lại, điều này có thể
xảy ra, với điều kiện tánh của chúng không định thì khả dĩ đạt được.
Nhưng điều này sẽ không xảy ra với quan điểm của các nhà Tiểu thừa đối
với các pháp. Do đó, cái hậu quả tất yếu sẽ xảy ra theo đó đối với vấn
đề đạt Hướng, Bát hiền thánh, Tăng bảo, Pháp bảo cho đến Phật bảo. Tất
cả đều bị phá, đều bị đẩy lùi vào trong đoạn diệt, không hiện hữu như
chính quan điểm của các nhà Tiểu thừa đã hiểu về Dharmasùnyam, mà
các vị đó đã gán cho các nhà Đại thừa và Trung quán chủ trương, để đối
nghịch lại cái Hữu của họ.
Ở đây,
dù là hữu hay là vô mà hiểu theo các nhà Tiểu thừa cũng rơi vào hai bên,
chấp thủ thiên kiến. Nếu hiểu theo cách mà quan điểm các nhà Tiểu thừa
về hữu và vô như vậy, thì cho dù chúng ta có nổ lực siêng năng tu hành
để đạt được quả vị Phật, sẽ không thể nào thực hiện được. Bởi vì muốn
đạt được quả vị Phật phải thực hành Tứ thánh đế. Nhưng nếu thực hành
theo đường lối của các nhà Tiểu thừa, như những phân tích trên của ngài
Long Thọ thì làm sao đạt được? Đó là những quan điểm mà ngài Long Thọ
đưa ra để phản bác lại những lập luận rơi vào tà kiến của các nhà Tiểu
thừa. Chính lối dùng “Gậy ông đập lưng ông” này đã đưa các nhà Tiểu thừa
vào tuyệt lộ.
Và sau
đây là những vấn nạn cuối cùng về Tứ đế của các nhà Tiểu thừa đưa ra,
sau khi họ đã được nghe giải thích về Dharmasùnyatà sai lầm theo
quan điểm chính họ :
Ngài
tuy đã phá các pháp, nhưng cứu cánh của con đường đi đến A-nậu đa-la
tam-miệu tam-bồ-đề
(Anuttarasamyuak-Sambodhi) buộc phải có. Nhân vào con đường này
để gọi là Phật?
Ngài
Long Thọ cũng đứng trên lập trường Pháp-Hữu của chính họ để trả lời câu
hỏi này. Ngài bảo: Theo như các vị, thì các pháp đã có định tánh rồi,
cần gì phải nhân nơi Bồ đề để có Phật; hay ngược lại, nhân nơi Phật đạo
để có Bồ đề, vì hai định tánh này là hai định tánh của riêng chính nó.
Cho dù chúng ta có nổ lực tinh cần tu hành đến muôn kiếp đi nữa, mà
trước kia chúng ta không có tánh Phật, thì làm sao hiện tại có thể thành
Phật được? Cũng như thiếc không có tánh vàng, dù dùng đủ mọi cách để
rèn dũa nung đúc, cuối cùng cũng không thành vàng.
Lại
nữa, nếu các pháp đã có định tánh mà không phải không, thì rốt cùng cũng
không có người tạo ra tội phước, vì tánh tội phước đã quyết định trước
rồi, kể cả hành động tạo tác và người tạo tác cũng không. Do đó, dù
chúng ta có ở trong nhân duyên tội phước mà vẫn không có quả báo, và quả
báo có thể có được khi lìa xa nhân duyên tội phước đi nữa, thì quả báo
vẫn không cần đợi có nhân mới xuất hiện.
Lại
nữa, lìa tội phước có thể không có quả báo thiện ác, nhưng từ tội phước
thì có quả báo thiện ác?
Để trả
lời nạn vấn này, ngài Long Thọ bảo dù có lìa tội phước hay không lìa tội
phước, có quả báo hay không có quả báo, thì tất cả đều rơi vào lỗi
có-không như đã nói ở trước .
Lại
nữa, nếu các nhà Tiểu thừa vì không nắm bắt được nghĩa Không và nhân
duyên của nó nên có những quan điểm sai lầm như vậy, thì đã vô tình phá
Đệ nhất nghĩa Không. Đệ nhất nghĩa Không mà bị phá, tức là phá tất cả
pháp thế tục.
Hơn
nữa, nếu chúng ta quan niệm tất cả các pháp-hữu đều có định tánh của
chúng, thì theo đó, các hiện tướng có được trên thế gian này đều không
thể sanh ra và không thể diệt mất, mà chúng phải luôn luôn thường trụ,
vĩnh viễn không biến mất. Vì chúng đã có thật tánh của chúng rồi, nên
không thể biến khác được. Nhưng muôn vật giữa thế gian này, hiện bày ra
trước mắt chúng ta, luôn luôn ở trong chiều hướng sanh diệt, biến dịch
trong từng sát-na một, trong từng hơi thở. Những hiện tướng này luôn tùy
thuộc vào các duyên hợp-biến mà hiện khởi. Vì vậy, chúng không có định
tánh. Nếu chúng đã có định tánh thì như chúng ta đã biết: một là thường,
hai là đoạn diệt. Do vậy, nếu không có cái KHÔNG (Śùnyatà) thì
những việc này có thể xảy ra đối với chúng ta: chưa được không cần được
- phiền não cũng không đoạn - việc khổ cũng không hết .
Để kết
luận phẩm Tứ đế này, ngài Long Thọ đã dẫn lời dạy của đức Phật trong
kinh :
Cho nên
trong kinh nói
Nếu
thấy pháp nhân duyên
Thời có
thể thấy Phật
Thấy
Khổ -Tập -Diệt -Đạo[23] .
Ở đây,
nếu người nào thấy tất cả pháp từ các duyên sanh ra, thì người này có
thể thấy được pháp thân của đức Phật, tăng trưởng trí tuệ đạt mọi lợi
ích, và có thể thấy được Khổ-Tập-Diệt-Đạo của Tứ thánh đế. Vì thấy được
Tứ thánh đế cho nên đạt được Tứ quả, diệt trừ tất cả mọi phiền não. Bởi
vậy, chúng ta cần phải thấu đạt nghĩa KHÔNG này, nếu không sẽ đi vào con
đường vô minh tà kiến như các nhà Tiểu thừa vấp phải. Ai phá nghĩa KHÔNG
tức là phá pháp nhân duyên, phá pháp nhân duyên tức là phá Tam bảo. Nếu
phá Tam bảo tức là chính mình tự phá mình.