THỰC
TẠI HIỆN TIỀN
Viên Minh
--- o0o ---
[06]
TIẾN TRÌNH TÂM
(CITTA VĪTHI)
23-11-93
Trong lần trước, chúng ta
đã nói về sự vận hành của 18 giới. Đến
đây có lẽ chúng ta có thể đã thấy rõ nguyên nhân phát sanh
đau khổ và phiền não.
Đâu là khổ
đế, đâu là tập
đế, chắc không ai hoài nghi nữa phải
không?
Cũng trong sự vận hành này, chúng ta
đã thấy rõ sự sanh khởi của ngũ uẩn.
Ngũ uẩn không phải là một cái gì có sẵn, như là một bản ngã nói năng
và hành động, mà ngũ uẩn khi
sanh khi diệt thay đổi luôn luôn tùy
theo cái tâm khi nó tương giao với ngoại giới.
Chúng ta cũng so sánh, đối
chiếu mối liên hệ giữa ngũ uẩn và 7 biến hành tâm sở, tức là những
tâm sở chánh yếu diễn ra trong tất cả tâm. Tâm nào cũng phải có mặt 7 tâm
sở này: xúc, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn,
tác ý.
Sở dĩ chúng ta đem nhiều
pháp ra so sánh là để liên hệ
các pháp Đức Phật dạy lại với nhau. Bởi vì
khi thì chúng ta học pháp này, khi học pháp khác, rất là tản mạn, tưởng
giữa chúng chẳng có mối quan hệ nào cả. Không phải thế, chúng liên hệ rất
là mật thiết, và nhờ vậy khi mình thấy pháp này là thấy
được pháp kia. Dầu là một câu kệ
Đức Phật dạy, vẫn bao hàm hết giáo lý
đạo Phật. Đây là
điều mà quý vị
để ý kỹ sẽ thấy.
Ngược lại mỗi từ ở trong mỗi pháp thì lại phải hiểu tùy
trường hợp. Ví dụ chữ "pháp", chữ "sắc" mà chúng ta
đã từng khảo sát hôm trước.
Hôm nay, chúng ta nói về tiến trình tâm, tiếng Pāli
gọi là Citta vīthi. Vīthi
nghĩa là lộ trình, là diễn tiến, một dòng diễn tiến. Citta
là tâm. Tâm tức là thức. Có 6 thức. Mặc dù 900 năm
sau Đức Phật Niết Bàn, Thế Thân giới thiệu thêm 2 thức là Mạt-na và
A-lại-da, nhưng 2 thức này không có gì mới lạ, nó nằm trong tiến trình tâm
ngang qua 6 thức mà chúng ta sắp nói đến.
Nói có 6 thức là tùy hiện tượng mà gọi tên khác nhau
thôi, sự thực khi một tâm hiện khởi nó diễn tiến qua một lộ trình gọi là
tiến trình tâm. Ví như dòng điện, tác dụng lên
bóng đèn thì sáng, tác dụng lên máy
quạt thì cánh quạt quay, tác dụng lên bàn ủi thì sinh nhiệt, nhưng cũng
chỉ do một dòng điện mà thôi. Dòng
điện đó ví như dòng tâm hiện khởi
ngang qua các căn vậy. Cũng ví như nước và
sóng, gió nhẹ tác động lên nước thì
sinh sóng lăn tăn. Bão lớn tác
động lên nước thì sinh ra sóng thần,
nhưng chỉ là nước đó thôi. Tùy duyên
mà gọi.
Vậy khi nói tâm hay thức chúng ta
đừng câu nệ ở nơi cách phân loại mà
chỉ quan sát ngay nơi cái tâm đang hiện khởi
để thấy diễn biến của nó.
Duy Thức học nói có 8 thức. Abhidhamma Nguyên Thủy nói
tiến trình tâm ngang qua 5 môn có 9 giai đoạn
và ngang qua ý môn chỉ có 4 giai đoạn.
Từ "giai đoạn"
tôi dùng đây tương đương với chữ thức trong 8
thức của Duy Thức học.
Cũng theo Abhidhamma, nếu
đứng về phương diện cõi giới thì có 4 loại tâm: dục giới tâm, sắc
giới tâm, vô sắc giới tâm, siêu thế tâm. Nếu
đứng về phương diện nhân quả, thiện, bất thiện, vô nhân, bất động, duy tác
v.v... thì có tới 89 tâm hoặc 121 tâm. Nếu
đứng về phương diện hiện khởi qua các căn thì
nói có 6 thức. Vậy tùy tác dụng, tùy phương diện mà gọi thôi chứ
đừng nên chấp trước. Quan trọng ở chỗ
mình thấy được sự vận hành của tâm như
thế nào chứ không cần gọi tên nó làm gì. Giống như một chậu nước, mình lấy
cái ly mà đong thì 10 ly, nhưng lấy 1
cái gallon mà đong thì chỉ có ½
gallon, phải không? Nửa gallon bằng 10 ly, 10 ly bằng 1 chậu. Cả 3
đều đúng. Vì thế không nên tranh cãi
về con số thống kê tâm làm gì, mà quan trọng là mình phải thấy diễn biến
của tâm nơi chính tâm đang vận hành.
Vậy chúng ta thử chú ý theo dõi trình tự diễn biến của tâm như thế nào.
Đây là sự kiện tâm khá vi tế, không
nên lý luận mà chỉ chú tâm quan sát.
Diễn biến của 1 tâm sinh diệt như thế này:
Dòng tâm thức khi ở trạng thái tĩnh lặng, chưa có tác
động của 1 đối tượng nào hết thì nó
trôi chảy âm thầm lặng lẽ, ẩn tàng trong chiều sâu của sự sống nên gọi là
hữu phần (hữu phần gọi là bhavanga: anga là phần,
bhava là hiện hữu, sự sống). Hữu phần là phần tiềm ẩn duy trì sự
hiện hữu trôi chảy liên tục của dòng tâm. Khi mình ngủ hoặc khi mình bất
tỉnh thì lúc đó không có một đối tượng gì
tác động để tâm mình khởi lên cả (trừ
lúc chiêm bao). Tâm đang ở trạng thái
tĩnh lặng - tĩnh lặng mà luôn luôn trôi chảy. Cho nên
đúng ra phải nói là bhavanga atīta
tức là hữu phần cứ trôi qua, trôi qua, tức là trôi chảy liên tục.
Duy Thức gọi là "hằng chuyển như bộc lưu". Khi hữu phần
đang trôi chảy như vậy, chợt có một đối tượng
tác động vào khiến hữu phần này rung
động lên hai lần gọi là bhavanga calana. Khi hữu phần rung
động thì cái dòng trôi chảy ấy liền
dừng lại. Không phải là dừng lại dòng trôi chảy mà là dừng lại tình trạng
trôi chảy ẩn tàng lặng lẽ, nên gọi là hữu phần dừng lại: bhavanga
upaccheda.
Hữu phần dừng lại và tâm bắt
đầu khởi lên qua các căn
để thu nhận, đánh giá, phản ứng v.v... trên
đối tượng tác động:
Bình thường hữu phần trôi qua ở trạng thái tĩnh (từ
A đến B). khi có một
đối tượng (sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp) tác động vào thì hữu
phần rung động 2 lần rồi dừng lại (từ
B đến C) và bắt
đầu khởi tâm (tại C). Tiến
trình tâm thực sự xảy ra (từ C đến D)
rồi trở lại trạng thái thầm lặng trôi chảy của hữu phần. Ở
đây, chúng ta cần biết thêm một tư
tưởng của Lão Tử:
"Trí hư cực, thủ tịnh
đốc, vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục, phù vật vân vân, các phục
quy kỳ căn, quy căn viết tịnh, tịnh viết phục
mạng, phục mạng viết thường, tri thường viết minh, bất tri thường vọng tác
hung".
Nghĩa là: "Nếu ta sáng suốt
định tĩnh mà quan sát thì thấy vạn vật
(tức là các tâm pháp) khởi lên rồi chúng lại trở về. Té ra tất cả
các pháp... đều như vậy, cứ khởi lên
rồi trở về gốc. Trở về gốc gọi là tịnh. Tịnh gọi là phục mạng. Phục mạng
gọi là thường. Biết cái thường này là minh. Không biết cái thường này là
vọng khởi lung tung".
Câu này của Lão Tử cũng khuyên ta nên tĩnh lặng soi
chiếu cái tâm sinh diệt, đi về qua lộ trình
của nó. Ba giai đoạn của hữu phần ở trên
(hữu phần trôi qua, hữu phần rung động và
hữu phần dừng lại) có thể gọi theo phân tâm học là vô thức hoặc tiềm
thức, chỉ đóng vai trò chuẩn bị cho
tiến trình tâm chứ tâm chưa thật sự khởi.
Ngay khi hữu phần dừng lại, tâm thật sự khởi lên theo
trình tự như sau (đối với mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân):
1 sát-na - Ngũ môn hướng tâm (Pañcadvār'āvajjuna).
1 sát-na - Ngũ thức (Pañcaviññāna).
1 sát-na - Tiếp thọ tâm (Sampaticchana).
1 sát-na - Suy đạc tâm (Santirana).
1 sát-na - xác định tâm (Votthapana).
7 sát-na - Tốc hành tâm (Javana).
2 sát-na - Đồng sở duyên (Tadālambana).
Nếu kể cả 3 sát-na của gai
đoạn hữu phần thì toàn bộ tiến trình diễn ra trong 17 sát-na, nhưng
nếu chỉ kể phần chính yếu thì chỉ cần 14 sát-na. Tuy nhiên tiến trình sẽ
lập đi lập lại trên cùng
đối tượng rất nhiều lần.
Giải Thích Các Giai Đoạn
Của Tiến Trình
Trên đây là tiến
trình tâm diễn ra qua 5 cửa (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân). Tiến trình
qua ý môn chúng ta sẽ nói sau. Tuy nhiên dù tiến trình qua ngũ môn vẫn có
sự tham dự của ý thức.
- Ngũ môn hướng tâm: 3 giai
đoạn hữu phần cũng được tính vào trong
tiến trình nhưng thực ra đến ngũ môn hướng
tâm thì tâm mới thực sự khởi.
Ngũ môn hướng tâm chỉ là phản xạ tự nhiên của mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân trên đối tượng tương ứng. Cụ
thể như khi một người nằm ngủ, bỗng có tiếng động làm anh ta giật
mình, toàn thân người ấy bị đánh thức và
hướng đến đối tượng. Nhưng thật ra vì
là tiếng động nên chỉ có nhĩ môn thật
sự hướng đến đối tượng. Nếu là hình
ảnh thì nhãn môn hướng đến, nếu là sự
đụng chạm thì thân môn hướng
đến v.v...
- Ngũ thức: khi một trong 5 môn hướng về
đối tượng thì thức của môn ấy liền
cộng tác vào. Ví dụ nếu đối tượng là
tiếng động thì nhĩ thức cộng tác. Vì
vậy đến đây 1 trong 5 thức khởi tác dụng. Có
đôi khi nhiều thức cùng khởi một lần, như vừa thấy vừa nghe chẳng
hạn.
- Tiếp thọ tâm: sau khi một trong 5 thức khởi lên
thì tâm tiếp nhận đối tượng. Giả sử như nhãn
thức khởi lên thì sự tiếp nhận sẽ giống như chiếc máy hình bấm nút
để thu hình.
- Suy đạc tâm:
sau khi thu hình vào, đây là lấy mắt
làm điển hình, thì nó hiện lên trên
phim (ví dụ máy hình) từng chi tiết của
đối tượng, giai đoạn này mang tính
phân tích.
- Xác định tâm:
sau khi ghi nhận từng chi tiết một cách phân tích, tâm bắt
đầu tổng hợp các chi tiết để hình
thành toàn diện đối tượng, và xác
định đó là hình gì.
Ba giai đoạn này
nói về ý thức nhưng tương đương với tưởng
trong ngũ uẩn, chỉ xảy ra trong 3 sát-na-tâm.
- Tốc hành tâm: đây là
giai đoạn quan trọng hình thành sự tạo
tác của tâm kéo dài đến 7 sát-na. Nó chính là
hành trong ngũ uẩn. Hầu hết các tâm sở quần tụ ở
đây tùy theo tính chất thiện, bất
thiện, bất động hay siêu thế tâm.
Mạt-na thức nằm trong tốc hành tâm này.
- Đồng sở duyên:
diễn ra trong 2 sát-na tâm, nó giữ vai trò như A-lại-da trong Duy Thức
để ghi nhận lại tiến trình tâm vừa xảy
ra, nhất là giai đoạn tốc hành tâm.
Đồng sở duyên tương
đương với thức uẩn trong sự tập khởi của ngũ uẩn, về phương diện ghi lại
chủng tử.
Tất cả các giai đoạn tiến
trình tâm này đều có sự hiện diện của
thọ.
So Sánh Tiến Trình Tâm Với Ngũ Uẩn
Thực ra tiến trình tâm cũng chính là tiến trình ngũ uẩn
được triển khai chi tiết hơn.
Vì cách phân giai đoạn
khác nhau (một bên là 5, một bên là 7 giai
đoạn) nên sự so sánh phải rất tế
nhị:
- Sắc uẩn gồm ngũ môn hướng tâm và ngũ thức.
- Thọ uẩn có mặt trong tất cả giai đoạn của
tiến trình tâm.
- Tưởng uẩn gồm tiếp thọ tâm, suy đạc tâm và
xác định tâm.
- Hành uẩn tương đương với tốc hành
tâm.
- Thức uẩn tương đương với đồng sở duyên.
Đồng sở duyên ghi lại tiến trình rồi chìm vào
trạng thái tiềm ẩn trong hữu phần. Đồng sở
duyên giữ vai trò năng tàng
hoặc năng huân (cất chứa) còn
hữu phần giữ vai trò sở tàng hoặc sở huân (chỗ cất chứa).
Trước khi tâm khởi lên tiến trình là hữu phần.
Sau khi tiến trình chấm dứt cũng trở lại hữu phần, do
đó hữu phần tương đương với căn bản thức
trong Duy Thức.
Chúng ta cần lưu ý một
điều là đối với kẻ phàm phu,
tiến trình tâm không khác ngũ uẩn, tuy nhiên khi tốc hành tâm
được hướng dấn bởi trí tuệ giải thoát, thì
tiến trình tâm này không tác thành uẩn, ví dụ tiến trình tâm siêu thế.
Tiến trình tâm cũng không nhất thiết phải trải qua 17
sát-na. Tùy theo đối tượng mà tiến
trình tâm có thể diễn tiến đầy đủ hoặc chấm
dứt nửa chừng.
- Nếu là một đối tượng rất
lớn (atimahanta) thì tiến trình diễn ra 17 sát-na:
* Hữu phần trôi qua: 1 sát-na
* Hữu phần rung động 2 lần và dừng
lại: 2 sát-na
* Từ ngũ môn hướng tâm đến đồng sở duyên:
14 sát-na
Tổng cộng: 17 sát-na
Đối tượng rất lớn tức là
đối tượng gây sự chú ý hoặc gây ấn tượng
mạnh, khiến tâm phản ứng mạnh. Ví dụ đối tượng làm chúng ta sợ hãi,
tức giận hay hoan hỷ vui mừng, v.v...
- Nếu là một đối tượng lớn
(mahanta) thì tiến trình chấm dứt sau tốc hành tâm, nghĩa là
đồng sở duyên không khởi lên. Như vậy
nó chỉ diễn ra trong 15 sát-na.
Đối tượng lớn tức là
đối tượng không gây chú ý nhiều lắm, khiến
tâm tuy có phản ứng nhưng rồi sau đó quên
đi không ghi lại gì cả. Ví dụ một vị
thầy ra đường thỉnh thoảng gặp một vài
học sinh chào hỏi, ông ta cũng mỉm cười đáp
lại, nhưng sau đó ông không nhớ gì hết.
- Nếu đối tượng nhỏ (paritta)
thì tiến trình tâm chỉ tồn tại ngang xác định
tâm, tốc hành tâm không khởi lên. Trong trường hợp này xác
định tâm kéo dài 3 sát-na rồi trở lại
hữu phần. Như vậy tiến trình tâm chỉ diễn ra từ 10
đến 11 sát-na thôi.
Ví dụ: khi đi ngoài
đường, chúng ta vẫn thấy hàng cây hai
bên đường, xe cộ, người đi lại, nhưng chúng
ta chỉ thấy vậy thôi chứ không chú ý và không phản ứng gì cả.
- Nếu đối tượng rất nhỏ thì
hữu phần chỉ rung động rồi trở về trạng thái
yên tĩnh, chứ tiến trình tâm không khởi lên. Ví dụ khi
đang ngủ, có tiếng động khiến chúng ta giật mình
nhưng vẫn ngủ lại như thường.
Qua sự vận hành của các tiến trình tâm trên, chúng ta
thấy rằng tốc hành tâm và đồng sở duyên
có thể không khởi tùy đối tượng. Mạt-na thức
là một phần của tốc hành tâm và A-lại-da thức chính là
đồng sở duyên. Vậy không phải chỉ 6
thức mới sinh diệt mà công năng của Mạt-na và
A-lại-da cũng vô thường sinh diệt tùy lúc. Không nên chủ trương có một cái
tâm thường tồn mà rơi vào bản thể luận thường kiến. Xin quý vị lưu ý cho
như vậy.
Còn một điểm cần lưu ý là
trong một khoảng thời gian có thể xảy ra nhiều tiến trình tâm có
đối tượng khác nhau. Những tiến trình
tâm này không phải xảy ra cùng lúc mà chúng xen kẽ với nhau.
Ví dụ: ta đang xem ti vi,
bỗng có nhiều tiếng nổ lớn bên ngoài. Thế là chúng ta hướng chú ý
ra bên ngoài, nhưng khi biết đó chỉ là
tiếng pháo, chúng ta lại tiếp tục chú ý xem ti vi.
Như vậy xem ti vi và nghe tiếng nổ là 2 tiến trình tâm
khác nhau xen kẽ với nhau.
Một ví dụ khác: một ông chủ nọ có 5 người thư ký
đánh máy, ông đọc cho mỗi người đánh máy mỗi
văn thư khác nhau. Đọc cho người thứ nhất một câu, rồi người thứ hai, thứ
ba, thứ tư, thứ năm. Xong rồi ông trở lại đọc câu thứ hai cho người thứ
nhất, thứ hai, v.v... cứ thế cho hết 5 văn thư cho năm người với 5 nội
dung khác nhau. Ông chủ đó trong một khoảng thời gian đã sử dụng 5
tiến trình tâm xen kẽ với nhau mà chẳng có cái nào lẫn lộn cái nào, cái
nào cũng nhất tâm, nhất quán cái đó.
Đó là nói 2 tâm khác
đối tượng xen kẽ lẫn nhau. Có nhiều khi 2 tâm
khác loại cũng xen kẽ lẫn nhau. Ví dụ khán giả xem hai võ sĩ
đánh nhau trên võ
đài. Thường thường khán giả thiên vị
bên võ sĩ A hoặc võ sĩ B, cho nên khi thì hoan hô, khi thì tức giận. Như
vậy tâm thương ghét, vui buồn, mừng giận cứ xen kẽ lẫn nhau trong cùng cú
đánh của 2 đối thủ.
Như vậy, cái tâm luôn luôn vô thường theo các tiến
trình tâm liên hệ với những đối tượng của
chúng, không những thế trong mỗi tiến trình cũng diễn ra sự biến
đổi vô thường, và ngay trong mỗi
sát-na tâm cũng đã có sinh-trụ-diệt
tiếp nối liên tục.
Vậy thì, quả là "quá khứ tâm bất khả
đắc, vị lai tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất
khả đắc" có đúng vậy không?
Chúng ta đã nói
đến sự liên hệ giữa 7 biến hành tâm
sở, ngũ uẩn và tiến trình tâm. Nhưng còn một số diễn biến khác cũng liên
hệ mật thiết với những điều vừa nói trước, đó
là Thập nhị nhân duyên.
--- o0o ---
[ Mục
Lục ] [
1 ] [
2]
[ 3
] [
4 ] [
5
] [ 6
] [
7 ] [
8 ]