Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Những Cảnh Giới
"Không
thể đi đến mức cùng tận của thế gian".
--
Tăng Nhứt A Hàm
---o0o---
Theo
Phật Giáo, quả địa cầu chỉ là một điểm nhỏ trong vũ
trụ bao la, không phải là nơi duy nhất trên đó có sanh linh,
mà con người cũng không phải là chúng sanh duy nhất. Chúng
sanh vô cùng tận, mà hệ thống tinh tú cũng cô cùng tận.
"Bào thai không phải là con đường duy nhất để đi tái
sanh" . Ta cũng có thể đi mãi đến mức cùng tận của
thế gian [1]. Đức Phật dạy như vậy.
Tùy theo nghiệp thiện hay bất thiện
đã tạo, chúng sanh có thể tái sanh vào một trong ba mươi
mốt (31) cảnh giới.
Có bốn trạng thái bất hạnh được
xem là khổ cảnh (apaya) [2] vì cả tinh thần lẫn vật chất
đều chịu đau khổ. Bốn cảnh giới ấy là:
1.
Địa Ngục (Niraya).
"Ni" là không có. "Aya"
là hạnh phúc. Niraya là cảnh giới trong đó không có hạnh phúc,
là cảnh khổ mà một chúng sanh phải chịu vì đã tạo
nghiệp bất thiện, hay nói cách khác, là trạng thái đau khổ
mà chúng sanh phải chịu để trả quả bất thiện đã tạo lúc
nào trong quá khứ. Khổ cảnh không phải là địa ngục trường
cửu mà chúng sanh bị bắt buộc phải ở trong đó để chịu
hình phạt đau khổ một cách vĩnh viễn.
Đến lúc trả xong nghiệp xấu, kẻ
bất hạnh cũng có thể tái sanh vào một cảnh giới khác, an
vui hạnh phúc, nhờ các thiện nghiệp đã tạo.
2.
Cảnh Thú (Tiracchana-yoni).
"Tiro" là xuyên qua. "Acchana"
là đi. Tiracchana-yoni là cảnh giới của loại cầm thú. người
Phật tử tin có sự tái sanh vào cảnh thú vì đã tạo
nghiệp xấu. Tuy nhiên, nếu có tích trữ thiện nghiệp thích
đáng, từ cảnh thú chết đi, cũng có thể tái sanh vào cảnh
người. Một cánh chính xác, ta phải nói rằng cái nghiệp đã
biểu hiện dưới hình thức thú có thể biểu hiện dưới hình
thức người, hay ngược lại. Cũng như luồng điện có thể
biển hiện kế tiếp dưới nhiều hình thức như ánh sáng, hơi
nóng, động lực v.v... Như vậy, động lực không phải do hơi
nóng, cũng không phải do ánh sáng mà phát sanh. Cùng thế ấy,
không phải người trở thành thú hay thú trở thành người
[3].Ta cũng ghi nhận rằng lắm khi có những con thú như mèo,
chó sống còn đầy đủ hơn người, tuy vẫn mang hình thức
thú. Đó cũng do tiền nghiệp.
Chính Nghiệp tạo tinh chất của
sắc tướng. Hình thể như thế nào là do hành động thiện
hay bất thiện trong quá khứ.
3.
Cảnh Ngạ Quỉ (Peta-joni).
Đúng theo nguyên ngữ, "Peta"
là người đã ra đi, hay người tuyệt đối không có hạnh phúc.
Cảnh ngạ quỉ có nhiều hình thù xấu xa dị tướng mà mắt
thường của người không thể thấy. Ngạ quỉ không có
cảnh giới riêng biệt của mình mà sống trong rừng bụi, ở
những nơi dơ bẩn v.v... Bộ Samyatta (Tạp A Hàm) cũng có đoạn
nhắc đến cảnh ngạ quỉ.
Đức Moggallana (Mục Kiền Liên) miêu
tả trạng thái đau thương ấy như sau:
"Vừa rồi, đi từ đồi kên kên
xuống, tôi có thấy một đám diều, quạ và kên kên tranh
nhau xô đẩy và mổ cắn một chúng sanh chỉ còn bộ xương,
đang bay lơ lửng trên không trung và kêu la rên siết. Nầy đạo
hữu, lúc đó tôi có ý nghĩ như sau:- Thật là quái lạ!Vì
sao chúng sanh có thể đến đỗi ký hình dị thể, tàn tệ như
thế, thật là kinh dị."
"Khi bạch với Đức Phật. Ngài
dạy rằng người ấy trước kia là một tên đồ tể, do
nghiệp đã tạo trong quá khứ , phải lâm vào trạng thái ấy
trong hiện tại. [4]
Theo sách Milinda Vấn Đạo, có bốn
hạng ngạ quỉ:
Hạng Vantasika, sống bằng vật ói
mửa của kẻ khác, hạng Khuppipasino, phải luôn luôn chịu đói
khát, hạng Nijjhamatanhika, phải chịu khát đến hao mòn tiều
tụy, hạng Paradattupajivino, chỉ sống nhờ thực vật của người
khác cho.
Trong kinh Tirokudda sutta (Khuđaka Patha)
có dạy rằng những hạng ngạ quỉ kể trên có thể hưởng
được phước báu mà thân quyến họ đã tạo nên và hồi hướng
đến họ, và cũng có thể nhờ đó mà tái sanh sang một
cảnh giới khác có hạnh phúc hơn.
4.
Cảnh Giới A Tu La (Asura-yoni).
Là cảnh giới của những người không
bao giờ hớn hở vui tươi và không bao giờ có những cuộc tiêu
khiển giải trí. Họ là một hạng chúng sanh khác cũng đau
khổ tương tợ như ngạ quỉ. Nên phân biệt hạng nầy với
hạng Asuras thường hay chống đối chư Thiên.
---o0o---
Trên bốn cảnh giới bất hạnh (duggati)
ấy, có bảy cảnh giới hữu phúc (sugati). Bảy cảnh ấy là:
1. Cảnh Người (Manussa).
[5]
Là một cảnh giới trong đó hạnh phúc
và đau khổ lẫn lộn. Chư vị Bồ Tát thường chọn tái sanh
vào cảnh nầy vì ở đây có nhiều hoàn cảnh thuận lợi để
phục vụ và thực hành những Pháp cần thiết nhằm thành
tựu Đạo Quả Phật. Kiếp cuối cùng của Bồ Tát luôn luôn
ở cảnh người.
2. Cảnh Tứ
Đại Thiên Vương (Catummaharajika).
Cảnh trời thấp nhất, nơi mà
những vị Trời canh phòng bốn hướng lưu ngự cùng với đoàn
tùy tùng.
3. Cảnh Đạo
Lợi (Tavatimsa).
Tavatimsa có nghĩa là ba mươi ba. Có tên
như vậy vì Đạo Lợi cũng là cung Trời của ba mươi ba vị,
trong đó Trời Sakka (Đế Thích) là vua. Theo một tích chuyện,
có ba mươi ba người kia do Magha (một tên khác của Trời Đế
Thích) lãnh đạo, tình nguyện thực hiện nhiều công tác từ
thiện. Cả ba mươi ba vị đều tái sanh vào cảnh nầy. Chính
ở cung Trời Đạo Lợi mà Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp cho
chư thiên nghe trong ba tháng liền.
4. Cảnh Dạ
Ma (Yama).
Yama có nghĩa cái gì tiêu diệt khổ
đau, là tên cảnh giới của các vị Trời Dạ Ma.
5. Cảnh Đấu
Xuất Đà (Tusita).
Theo nghĩa trắng, Tusita là dân cư có
hạnh phúc, là cảnh giới khoái lạc.
Những vị Bồ Tát đã thực hành tròn
đủ các Pháp cần thiết để đắc Quả Phật đều lưu ngụ
ở cảnh giới nầy, chờ cơ hội thich nghi để tái sanh vào
cảnh người lần cuối cùng. Bồ Tát Mettaya (Di Lạc), vị
Phật tương lai, hiện đang ở cảnh Trời nầy chờ ngày tái
sanh vào cảnh người để thành tựu Đạo Quả Phật. Hoàng
hậu Maya (Ma Da), mẹ của Bồ Tát Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), sau
khi chết cũng tái sanh vào cảnh Trời Đấu Xuất Đà và từ
đó sang cung Trời Đạo Lợi nghe Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma).
6. Cảnh Hóa
Lạc Thiên (Nimmanarati).
Cảnh giới của những vị Trời ở
trong những cung điện to lớn, đẹp đẽ.
7. Cảnh Tha Hóa
Tự Tại (Paranimmitavasavatti).
Cảnh giới của những vị Trời có
khả năng tạo thêm những vị khác để phục vụ mình
Chư Thiên trong sáu tỉnh Trời thuộc
Dục Giới kể trên cũng có hình thể, nhưng cơ thể vật
chất (sắc) của các vị ấy rất vi tế hơn "sắc"
ở cảnh người nhiều. Vì thế, thông thường mắt người không
thể trông thấy.
Tất cả những vị ấy đều phải
chết, mặc dầu trên một vài phương diện, như về hình
thể, nơi ở, vật thực, thì được sung sướng hơn ở cảnh
người. Về trí tuệ, các vị ấy thường không hơn người .
Chư Thiên trong cảnh Dục Giới đều
là hóa sanh, bỗng nhiên xuất hiện dưới hình thức một
thiếu nữ hay một thanh niên lối mười lăm hay mười sáu
tuổi. Đó là những cảnh giới có nhiều khoái lạc tạm bợ.
Bốn (4) cảnh khổ (Apaya) và bảy (7)
cảnh hữu phúc (Sugati) đều nằm trong Dục Giới (Kamaloka).
---o0o---
Trên Dục Giới có Sắc Giới (Rupaloka),
cảnh giới các vị Phạm Thiên, những vị Trời đã từ bỏ
tham dục và đang thọ hưởng hạnh phúc của Thiền (Jhana).
A.- Cảnh
Giới tương ứng với Sơ Thiền
1. Phạm
Chúng Thiên (Brahma Parisajja). Cảnh giới của các vị Trời tùy
tùng các vị Phạm Thiên.
2. Brahma
Purohita. Cảnh giới của những vị Trời thân cận các vị
Phạm Thiên.
3. Đại
Phạm Thiên (Maha Brahma). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên
có nhiều hạnh phúc, đẹp đẽ và tuổi thọ nhiều hơn các
Phạm Thiên khác, nhờ phước báu đạo do thiền tập.
B.- Cảnh
Giới tương ứng với Nhị Thiền:
4.
Thiều Quang Thiên(Parittabha). Cảnh giới của những vị Phạm
Thiên có ít ánh sáng.
5. Vô Lượng
Quang Thiên (Appamanabha). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên
có ánh sáng vô cùng, vô hạn định.
6. Quang
Âm Thiên (Abhassara). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên có
ánh sáng rực rỡ chói lòa.
C.- Cảnh
Giới tương ứng với Tam Thiền:
7.
Thiền Tịnh Thiên (Parittasubha). Cảnh giới của những vị
Phạm Thiên có hào quang nhỏ.
8. Vô Lượng
Tịnh Thiên (Appamanasubha). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên
co hào quang vô cùng, vô hạn định.
9. Biến
Tịnh Thiên (Subha kinha). Cảnh giới của những vị Phạm Thiên
có hào quang vững chắc, không lay động.
D.- Cảnh
Giới tương ứng với Tứ Thiền:
10.
Quảng Quả Thiên (Vehapphala). Cảnh giới của những vị Phạm
Thiên hưởng quả rộng lớn.
11. Vô Tưởng
Thiên (Asannasatta). Cảnh giới của những vị Trời không có tâm
(danh).
12. Vô
Phiên Thiên (Suđhavasa). Cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Cảnh
nầy lại chia làm năm (5) là:
i. Aviha, cảnh giới trường
cửu.
ii. Atappa, cảnh giới êm đềm tĩnh lặng.
iii. Sudassa, cảnh giới đẹp đẽ.
iv. Sudassi, cảnh giới quang đãng.
v. Akannittha, cảnh giới tối thượng.
Chỉ có những vị đắc Thiền Sắc
Giới mới tái sanh vào những cảnh Sắc Giới kể trên. Đắc
Sơ Thiền thì sanh vào ba cảnh giới thứ nhất (A), đắc Nhị
Thiền thì sanh vào ba cảnh giới thứ nhì (B), đắc Tam Thiền
thì sanh vào ba cảnh giới thứ ba (C), đắc Tứ Thiền thì
sanh vào bảy cảnh giới thứ tư (D).
Trong mỗi tầng Thiền-na, có nhiều
bậc. Cũng cùng đắc một tầng thiền, như Sơ Thiền chẳng
hạn, mà có người ở bậc thấp còn có người ở bậc cao.
Bậc thứ ba là những người đã nắm vững hoàn toàn tầng
Thiền của mình.
Trong cảnh thứ 11, Vô Tưởng Thiên (Asannasatta),
chúng sanh không có tâm. Chỉ có sự biến chuyển liên tục
của Sắc. Trong lúc năng lực của Thiền (Jhana) diễn tiến thì
tâm tạm thời chấm dứt. Thông thường Danh và Sắc dính
liền với nhau, không thể phân tách ra được. Nhưng đôi khi,
do năng lực của Thiền, như trường hợp kể trên, cũng có
thể tách rời Danh và Sắc. Khi một vị A La Hán nhập đại
định (Nirodha Samapatti, Diệt Thọ Tưởng Định) cũng vậy, tâm
của Ngài tạm thời không có. Đối với hạng phàm nhân như
chúng ta thì khó mà quan niệm được một trạng thái tương
tợ. Tuy nhiên, có nhiều việc không thể quan niệm mà thật
sự có.
Vô Phiên Thiên (Suddavasa) hay cảnh
giới hoàn toàn tinh khiết là cảnh giới tuyệt đối riêng
biệt của các vị A Na Hàm (Anagami). Chúng sanh ở trong một
cảnh khác mà đắc Quả Bất Lai, hay A Na Hàm, thì tái sanh vào
cảnh nầy. Về sau, các Ngài đắc Quả A La Hán và sống
cảnh hoàn toàn tinh khiết ấy cho đến lúc hết tuổi thọ,
nhập Đại Niết Bàn.
---o0o---
Có bốn (4) cảnh gọi là Arupaloka (Vô
Sắc Giới), hoàn toàn không có phần vật chất (Sắc) hay hình
thể.
Theo Phật Giáo, có những cảnh giới
trong ấy chỉ có Danh (tâm) mà không có Sắc (vật chất).
"Cũng như khi ta cầm một thanh sắt và buông thả tay ra thì
thanh sắt rơi xuống đất. Tuy nhiên cũng có thể dùng đá nam
châm để giữ thanh sắt lơ lững giữa không trung. Cùng một
thế ấy, do Thiền, có thể tách rời Danh ra khỏi Sắc và
giữ trạng thái ấy cho đến khi chấm dứt Thiền. Đó chỉ là
sự tách rời tam thời Danh và Sắc, hai yếu tố theo thường
phải dính liền nhau." Cũng nên ghi nhận rằng không có
giống nam, hay giống nữ trong hai cảnh Sắc và Vô Sắc Giới.
Trong Vô Sắc Giới có bốn cảnh tương
xứng với bốn tâm Thiền Vô Sắc Giới:
1. Không Vô Biên
Xứ Thiên (Akasanankayatana).
Cảnh giới có quan niệm rằng không gian vô tận.
2. Thức Vô Biên
Xứ Thiên (Vinnancayatana).
Cảnh giới có quan niệm quan niệm rằng thức là vô cùng
tận.
3. Vô Sở
Hữu Xứ Thiên (Akincannancayatana).
Cảnh giới có quan niệm về hư không.
4. Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Thiên (Neva Sanna Nasannayatana).
Cảnh giới có quan niệm rằng không có tri giác cũng không có
không-tri-giác. [6]
Nên ghi nhận rằng Đức Phật không
nhằm mục đích truyền bá một lý thuyết về vũ trụ. Dầu
những cảnh giới trên có hay không, điều ấy không ảnh hưởng
gì đến giáo lý của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin
điều nào, nếu điều ấy không thích hợp với suy luận
của mình. Nhưng nếu bác bỏ tất cả những gì mà lý trí
hữu hạn của con người không thể quan niệm thì điều ấy
cũng không hoàn toàn chánh đáng.
---o0o---
Bảng Tóm
Tắt
I. Vô Sắc Giới
Thiền Vô Sắc
|
Tuổi Thọ |
Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Thiên Vô Sở hữu Xứ Thiên Thức Vô Biên Xứ Thiên Không Vô Biên Xứ Thiên |
84.000 Đại A-Tăng-Kỳ
60.000 " 40.000 " 20.000 " |
II. Sắc Giới
Tứ Thiền Sắc Giới
Vô Phiên Thiên Cảnh
giới tối thượng Cảnh
giới quang đãng Cảnh
giới đẹp đẽ Cảnh
giới thanh tịnh Cảnh
giới trường cửu Vô Tưởng Thiên Quảng Quả Thiên |
16.000 Đại A-Tăng-Kỳ
8.000 " 4.000 " 2.000 " 1.000 " 500 " 500 " |
Tam Thiền Sắc Giới
Biến Tịnh Thiên
Vô Lượng Tịnh Thiên Thiền Tịnh Thiên |
62 Đại A-Tăng-Kỳ
32 " 12 " |
Nhị Thiền Sắc giới
Quang Âm Thiên Vô Lượng Quang Thiên Thiều Quang Thiên |
8 Đại A-Tăng-Kỳ
4 " 2 " |
Sơ Thiền Sắc Giới
Đại Phạm Thiên
Phạm Thiên Purohita Phạm Chúng Thiên |
1 A-Tăng-Kỳ 1/2 " 1/3 " |
III. Dục Giới
Lạc Cảnh - Trời Dục Giới
Tha Hóa Tự
Tại Hóa Lạc Thiên Đấu Xuất Đà Dạ Ma Đạo Lợi Tứ Đại Thiên Vương |
16.000 Thiên Niên
8.000 " 4.000 " 2.000 " 1.000 " 500 " |
Cảnh Người - Tuổi Thọ bất định
Khổ Cảnh
A Tu La Ngạ Quỉ Loài Thú Địa Ngục |
Không giới
hạn Không giới hạn Không giới hạn Không giới hạn |
Chú thích:
[1] Xem Kindred Sayings, phần i, trang
85-86.
[2] Apa + aya =không có hạnh phúc.
Niraya (Ni + aya) cũng có nghĩa "thiếu hạnh phúc"
[3] Xem Chương 31.
[4] Xem Kindred Sayings, phần ii, trang
170.
[5] Đúng theo nghĩa trắng, là những
chúng sanh có tâm phất triển, hay ở một trình độ cao (mano
ussannam etasam). Dùng từ Bắc Phạn (Sanskrit) tương đương
với Manussa là Manushya, có nghĩa là những người con của
Manu. Gọi như vậy vì họ trở nên những chúng sanh có văn hóa
cao hơn nhờ thần Manu.
[6] Xem "A Manual of Abhidhamma",
do tác giả Narada Thera, trang 234-246, để có thêm chi tiết về
tuổi thọ của những cảnh giới khác nhau.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com