HOẰNG PHÁP XƯA VÀ NAY
Tỳ kheo Thiện
Minh
Hoằng
pháp là một công tác quan trọng để con người
thấm thuần chánh pháp, giác ngộ giáo lý của chư Phật. Đức Phật Thích Ca
sau khi thành đạo, ngài cũng
nghĩ đến việc hoằng pháp trước tiên,
chính vì thế nên Ngài thành lập Giáo hội Tăng
già để chư Tăng lên
đường hoằng dương chánh pháp. Trước khi chư
Tăng lên đường vận chuyển pháp luân,
Đức Phật có nhắn nhủ “Các thầy vì lợi ích lớn của chư Thiên và loài
người, nên Quý thầy không đi hai người một
ngả” Qua lời dạy của Đức Phật Thích Ca
chúng ta thấy Ngài rất quan tâm đến
tầm quan trọng của việc hoằng pháp lợi sinh. Nếu đi hai người một ngả thì
chỉ có ba mươi nẽo đường hoằng pháp, còn
mỗi người một ngả thì được sáu mươi ngả đường
có đệ tử của Phật Thích Ca hoằng pháp. Ngày nay Quốc gia nào có
Giáo hội thì quốc gia đó chắc chắn có Ban
Hoằng pháp. Đôi khi phương tiện hoằng pháp mỗi nơi có khác nhau, nhưng đều
nhắm đến chúng sanh am tường chánh pháp của đức Từ bi. Giáo hội Phật giáo
Việt Nam là một tổ chức duy nhất cho giới Phật giáo tại Việt Nam,
ban Hoằng pháp của Giáo hội là một trong những ban hoạt
động tích cực và nổi bật. Nhiệm kỳ V
(2003-2007), Ban Hoằng pháp TW.GHPGVN nhận thấy tầm quan trọng
đó nên thành lập thêm những tiểu ban
trực thuộc Ban Hoằng pháp TW., gồm các tiểu ban: Giảng sư
đoàn, Biên soạn giáo lý, Vùng sâu vùng
xa, Bảo trợ, Thông tin, nhằm mục đích đẩy
mạnh nghành hoằng pháp.
1. Hoằng
pháp ngày xưa
1.1 Ý nghĩa và lợi ích:
là giúp cho chúng sanh hiểu được thiện ác.
Nhằm phát huy điều thiện và xa lìa
điều ác, vì mục tiêu của đạo phật là
không làm điều ác, thực hành các hạnh
lành, giữ tâm ý trong sạch. Hoằng pháp ở đây
chúng ta hiểu đa diện chứ không chỉ đơn thuần là giảng dạy giáo
pháp hay biên soạn giáo lý. Ngày xưa Đức Phật
và chư thinh văn đệ tử của ngài
đi trì bình khất thực mỗi buổi sáng
cũng là hình thức hoằng dương chánh pháp. Hình thức này rất hữu hiệu và
thực tiễn trong đời sống hằng ngày. Có
rất nhiều người khi thấy Đức Phật trì
bình khất thực khởi lòng tín thành và quy y.
Đi khất thực là hình thức nhập thế của
Đức Phật Thích Ca, vừa chứng tỏ con người có hoạt với xã hội, tạo
duyên lành cho chúng sanh gieo duyên lành trong chánh pháp; cơ hội giảng
dạy giáo lý bằng phương pháp lý thuyết và thực hành; Khất thực là hình
thức thể hiện hạnh từ bi bác ái, tinh tiến và nhẫn nại trong giáo lý
đạo Phật. Trong kinh luật truyền thống hạnh
đi trì bình khất thực là đời sống của
chư Phật, chứ không phải là tài sản riêng của Phật Thích Ca.
1.2 Phương tiện: Thông
thường chúng ta thấy Đức Phật hoằng pháp ngày
xưa bằng hai phương tiện, đó là:
đi bộ và thần thông. Trong Tăng
Chi bộ kinh, chúng ta thấy lịch sinh hoạt của Phật Thích Ca mỗi ngày:
- Buổi sáng
đi trì bình khất thực
- Buổi chiều thuyết pháp độ chúng sanh
- Buổi tối dạy đạo chư Tăng
- Khuya giải đáp thắc mắc của chư
Thiên
- Rạng đông nhập từ bi quán để tìm
chúng sanh hữu duyên tiếp độ.
Như vậy 5 phận sự của
Đức Phật đều nhằm đến việc hoằng pháp. Thường
thường là ngài đi bộ từ làng
nay qua làng khác.Từ Bồ đề đạo tràng
đến vườn Lộc Uyển Ba La Nại khoảng
cách 16 do tuần, chúng ta thấy trong kinh
điển Đức Phật đi bộ để thuyết bài pháp
đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như và
trước khi tịch diệt, bị căn bịnh kiết lỵ hành
hạ, Ngài vẫn đi bộ đến thành Kusinara
để viên tịch. Vấn
đề đặt ra ở đây: nếu cả đời Ngài
đều đi bộ thì khi
đi đến dòng sông thì Ngài xử lý như
thế nào? Xuống thuyền qua sông hay là dùng thần thông? Xuống thuyền thì
cước phí thuyền Ngài phải giải quyết ra sao một khi Ngài không giữ tiền?
Còn dùng thần thông thì đệ tử phàm tục
của Ngài giải quyết như thế nào? Lại nữa thời
Đức Phật có cả thảy 16 nước Cộng hòa,
đa số là vua chúa và những người có
địa vị thời đó đều là đệ tử của Phật
Thích Ca. Giả sử đệ tử của ngài ở quốc
độ khác thỉnh đi thọ trai thì phương tiện
đi ra sao? Nếu đi bộ thì không kịp giờ
ngọ! Như vậy đi bộ được xem như l nghệ thuật
hoằng php của Phật Thích Ca.
Trong kinh Trung Bộ kinh chúng
ta thấy có rất nhiều trường hợp, Phật Thích Ca dùng thần thông
để tiếp độ chúng sanh trong những trường hợp
cần thiết: Trừơng hợp tế độ Angulimàla, Phạm thiên Baka, Dạ xoa
Alavaka, thuyết pháp tế độ Phật mẫu ở cung
trời Đạo Lợi v.v…
1.3 Tư cách: Người hoằng
pháp phải có tư cách đạo đức. Thiếu yếu tố này,
công cuộc hoằng pháp bị hạn chế. Đức Phật
không giới hạn người hoằng pháp là người xuất gia. Là bậc xuất gia
thì phải có Tam y và quả bát, gìn giữ giới học cho trang nghiêm và thanh
tịnh. Người cư sĩ thì tối thiểu nghiêm trì tốt
đẹp năm giới. Nền tảng giáo dục căn bản của
Phật giáo là: Giới – Định - Tuệ. Ba thành
phần này không thể tách rời nhau được, mà
phải liên kết với nhau chặt chẻ như hình với bóng. Giới năng
sanh định và tuệ, không giới là không có
định và tuệ. Người hoằng pháp thiếu
giới luật giảng dạy Phật pháp, người nghe cũng thiếu tập trung. Vì thông
thường người thầy phải gương mẫu. Trong luật tạng,
Đức Phật cấm giảng pháp với những hạng người
vô bịnh có cầm: dù, gậy, dao gươm, súng
đạn, mang giầy dép, ngồi hoặc nằm trên
giường, đội khăn, ngồi cao hơn mình,
đi trước mình. Tất cả những giới
Đức Phật cấm trên nhắm
đến người nghe phải tuyệt đối tôn kính Pháp
bảo. Người nghe phải có lòng tin nơi người thuyết giảng, phải hiểu
và hành Phật pháp thì mới có kết quả. Thiếu niềm tin là thiếu tất cả. Có
tin thì mới có tấn, niệm, định và tuệ.
1.4 Bốn cách thuyết giảng của
Đức Phật:
Thường trong một bài thuyết
pháp của Đức Phật, Ngài sử dụng bốn
phương pháp để người nghe dễ lãnh hội:
Giải thích, Thuyết phục, Sách tấn, Khích lệ. Giải thích giáo lý
để người nghe nhận chân được nhân quả rõ
ràng để bỏ tà quy chánh, lìa bờ mê
hướng bến giác, chấm dứt sanh tử luân hồi. Thuyết phục là chỉ cho người
nghe thấy được giá trị của Pháp bảo, không
dám dễ duôi quên mình. Sách tấn nhằm
động viên người nghe nhiệt tâm tinh cần trong chánh pháp, giảm
thiểu lười biếng, vì lười biếng không tiến bộ trong nhà phật, gia tăng
hạnh tinh tiến và nhẫn nại. Khích lệ là chỉ cho người nghe thấy
được điều lợi ích khi thực hành chánh
pháp.
1.5 Nhiệm vụ người giảng và kết
quả của người nghe: Trong Tăng Chi kinh,
Đức Phật dạy người giảng pháp phải có và thông hiểu năm
phận sự của mình (dhammadesakadhamma):
- Thuyết tuần tự thứ lớp, có
nghĩa là từ thấp lên cao
- Thuyết y cứ theo pháp môn và kinh điển
- Thuyết vì lòng từ bi, muốn cho người khác
được lợi ích
- Thuyết không vì lợi lộc, không muốn được
lợi hay được đền đáp
- Thuyết không đụng chạm mình và
người khác, không cố ý châm chích, khen mình chê người.
Người giảng pháp thiếu một
trong năm chi phần này xem như là
nhiệm vụ người hoằng pháp không hoàn hảo. Thuyết pháp chứ không phải là
hùng biện như những nhà tâm lý và chánh trị. Không nên mượn diễn
đàn Phật pháp
để thể hiện tri kiến cá nhân của mình,
không nên lấy hiểu biết thế học của mình hay một danh nhân nào
đó cho là Phật thuyết giảng, lại càng
không nên lấy giáo lý của Đức Phật châm
chích, chê bai người này nguời nọ, không nên lấy giáo lý của
Đức Phật để làm vũ khí bắn phá những
học thuyết khác nhằm để tô điểm bản ngã
cá nhân của mình. Người giảng pháp, Đức Phật
dạy phải giảng bằng ngôn ngữ từ bi hỷ xả, chí công vô tư, không vì
lợi lộc, chỉ nhằm mục đích duy nhất để người
nghe hiểu được lời Phật dạy, áp dụng tu hành,
đoạn trừ tham sân si, chấm dứt sanh tử luân
hồi.
Trong Tăng
Chi kinh quyển ba, Đức Phật cũng dạy năm lợi ích của người nghe pháp
(Dhammassavanànisamsa):
- Nghe
được pháp chưa từng nghe
- Thông suốt pháp đã nghe
- Đoạn trừ được nghi hoặc
- Giúp tri kiến đúng đắn
- Nội tâm trong sáng
Trí tuệ phát sanh là nhờ
đọc kinh sách, nghe thuyết giảng, chiêm
nghiệm những gì đọc và nghe Phật pháp,
tu tập thiền quán. Như vậy nghe Phật pháp là một trong những
điều kiện để trí tuệ gia tăng. Có nghe thì
mới hiểu, có hiểu thì mới hành, có hành thì mới thành.
Đa số chư thiên và nhân loại giác ngộ
và giải thoát nhờ nghe Phật pháp.
2. Hoằng
Pháp Ngày Nay
2.1 Tụng kinh: Ngày nay
đa số các chùa Phật tử
đến tụng kinh công phu chiều rất đông, thậm
chí tụng tam tạng. Đây là hình thức hơi khác biệt với thời
Đức Phật còn sinh tiền. Việc làm
đó không ngoài mục
đích để người Phật tử thấm nhầm chánh pháp
sau mỗi ngày tụng kinh. Người tụng kinh phải có chánh niệm và tỉnh
thức thì mới tụng không lầm lẫn. Như vậy tụng kinh công phu cũng là hình
thức gia tăng chánh niệm trong đời sống tu
tập. Người tổ chức tụng kinh công phu cũng là người hoằng pháp.
Những lễ nghi trong
đời sống của người cư sĩ như: đám ma, đám
cưới, đám giổ đều cung thỉnh chư Tăng đến tụng kinh cầu nguyện và
ban phúc lành, hình thức lễ nghi như vậy cũng là hoằng pháp. Thường những
lễ nghi đó có tổ chức thuyết giảng Phật pháp
để thí chủ tròn đủ tài thí, vật
thí và pháp thí. Đám ma là một nghi lễ
để giảng giải Phật pháp trong tang quyến có
hiệu quả thiết thực. Vừa tụng kinh vừa giảng giáo lý vô thường để chỉ cho
tang quyến thấy được sự tạm bợ của thế gian, nhằm nhàm chán
để tu hành.
2.2 Viết kinh, dịch sách:
Là bộ phận hoằng pháp lợi ích lớn và có giá trị cao. Thuyết pháp giống như
gió thoảng mây bay, người nghe khó lãnh hội hoàn toàn. Nhưng kinh sách
để đầu giường nghiền ngẫm năm này qua
tháng nọ, giúp Phật tử dễ chiêm nghiệm và thực hành chánh pháp hơn. Xuất
bản một quyển kinh và một tác phẩm thiền là một món quà tinh thần tuyệt
vời, có khả năng chuyển đổi đời sống nội tâm
của người Phật tử. Ấn tống, biếu tặng một quyển kinh cũng là nghệ
thuật hoằng pháp. Nhân ngày sinh nhật của mình, vua Thái Lan, cho tái bản
45 quyển Tam tạng và 92 quyển chú giải để
biếu tặng cho những ngôi chùa vùng sâu vùng xa
để chư Tăng có đủ điều kiện học Phật pháp.
2.3 Xây một mái chùa: Nhiều
ngôi chùa ở các nước Phật giáo cũng như ở Việt Nam thể hiện nghệ thuật
kiến trúc khá độc đáo. Đường nét kiến trúc
gắn liền với chánh pháp. Nhìn mái chùa cong cong giúp tâm hồn người
Phật tử cũng như không Phật tử làm nhẹ bớt đi
những ưu phiền trong cuộc sống. Người có tâm hồn nghệ sĩ nhìn mái
chùa học được giáo lý của Đức Phật qua việc
ẩn dụ trong đường nét nghệ thuật kiến trúc. Đúng là mái chùa che
chở hồn dân tộc, mái chùa là bài pháp vô ngôn.
2.4 Phương tiện: Có thể nói
phương tiện hoằng pháp ngày nay có phần thuận lợi hơn thời
Đức Phật. Nói là thuận lợi nhưng chưa
dám nói là thành công. Chư Tăng hoằng pháp từ
tỉnh này qua tỉnh khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác phương
tiện di chuyển bằng xe và bằng máy bay hay bằng tàu
điện. Có thể trong một ngày, sáng chư
Tăng thuyết pháp ở quốc gia này, chiều
thuyết pháp ở quốc gia khác. Có những trường hợp người Phật tử hấp hối
trong bịnh viện ở bên kia bán cầu cần nghe lời kinh và
đạo từ của sư phụ họ, bằng phương tiện điện
thoại là họ có thể thực hiện được tâm
nguyện của người hấp hối.
Đoàn từ thiện của Phật
giáo phát quà cho những người bị thiên tai và vùng sâu vùng xa cũng thể
hiện tinh thần hoằng pháp lợi sinh. Buổi cơm cho người già, giếng nước
làng quê, nhà tình thương được xây dựng,
những trẻ em lang thang đường phố và những trẻ em bất hạnh thiếu
cha mẹ được giới Phật giáo chăm sóc và
nuôi nấng ăn học nên người. Những
nghĩa cử đó chỉ tỏ tấm lòng từ thiện,
nhưng tính chất hoằng pháp không thể không có.
2.5 Hoằng Pháp của GHPGVN
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
thành lập năm 1981, cho đến nay có cả thảy 5
nhiệm kỳ.Trưởng ban Hoằng pháp là Hoà Thượng Trí Quảng. Thành quả
của Ban Hoằng pháp là đào tạo các khoá
Giảng sư để có đủ đội ngũ hoằng pháp các tỉnh
thành, xuất bản kinh sách để đáp ứng
nhu cầu giới Phật tử. Các tỉnh thành
đều có Ban Hoằng pháp. Các chùa lớn
đều có tổ thuyết pháp ngày chủ nhật, ngày sám hối và ngày bát quan.
Tp. Hồ Chí Minh có những điểm thuyết pháp lớn
như: Chùa Ấn Quang, Chùa Xá Lợi, Chùa Kỳ Viên, Tịnh Xá Trung Tâm,
chùa Phước Viên, Chùa Giác Lâm, Chùa Vĩnh Nghiêm, Thiền Viện Vạn Hạnh.
Những người thuyết giảng ở đây là
thành viên của Ban Hoằng pháp Trung ương. Phật tử tham dự từ 200 người trở
lên.
2.5 Chương trình Paltalk trong
Internet
Khoảng năm
2000 chương trình Paltalk được phổ
biến cho chúng ta sử dụng để liên lạc lẫn nhau và hẹn gặp gỡ trên
những room theo sở thích. Có thể vào nghe nhạc, hài kịch, thảo luận, học
ngoại ngữ và học giáo lý các tôn giáo. Vừa nghe, vừa học mà cũng có thể
chat vui đùa lẫn nhau. Tóm lại Paltalk
là phương tiện thông tin hiện đại của thế kỷ
XXI. Mặc dù là thế giới ảo, nhưng trong thực có ảo trong ảo có
thực.
Đầu năm 2003, chương trình
này phổ thông trong giới Phật giáo. Các Room Phật pháp
được thành lập
để thỉnh quý Thầy Cô lên thuyết giảng
chuyên đề giáo lý cho Phật tử trên thế
giới. Những room phổ thông đó là: Sinh
hoạt Phật pháp, Thảo luận Phật pháp, Diệu pháp, Diễn
đàn Phật giáo Nguyên thuỷ, Phật học
đường Vạn Hạnh, diễn đàn Phật giáo Nam
tông, lớp học - Phạm Gia Trang, Phật học viện Abhidhamma. Những room này
sinh hoạt không khác một ngôi chùa. Người nghe ở khắp các quốc gia trên
thế giới.
Điều kiện được vào nghe
thuyết giảng không khó, người trẻ tuổi cũng như lớn tuổi cũng
đều tham dự được. Vời một máy vi tính có thể
cả gia đình nghe được Phật pháp. Có
thể vừa nghe pháp, vừa đọc những tài liệu Phật pháp trong mạng
internet và chat nhau với các bạn đạo. Điều
kiện cần nghe Phật pháp trên Paltalk:
- Có một máy vi tính nối mạng được
- Tải phần mềm Paltalk trong mục paltalk.com
- Đặt nickname và sau
đó sign on
- Vào được Paltalk, chọn groups
- Trong mục groups, chọn by language Asia: the far and east
- Sẽ có những room bằng tiếng Việt
- Sau đó chọn room Phật pháp.
Hình như những room Phật pháp
này có những room sinh hoạt 24/24 lúc nào chúng ta vào cũng có thể tham
gia sinh hoạt Phật pháp đựơc.
Tóm lại nghe pháp bằng Paltalk
là một thành tựu của nền khoa học điện toán
đương đại, giúp cho chúng ta thấy thế giới quá gần, tạo nên con
người gần gũi và thân thiện với nhau. Nếu có webcam có thể nhìn thấy chân
dung lẫn nhau. Có rất nhiều người ở hải ngoại hiểu Phật pháp và trao giồi
tiếng mẹ là nhờ vào những room trên Paltalk.
Hoằng pháp xưa và nay tuy hình
thức khác biệt theo biến thiên của thời gian và sự tiến bộ văn
minh của con người, nhưng mục đích đều hướng dẫn đại chúng thâm nhập và
liễu ngộ chánh pháp. Xưa phương tiện có phần nhiêu khê và vất vả nhưng
phẩm chất và kết quả thì vẫn chiếm ưu thế. Ngày nay nền khoa học tiến
triển phương tiện hiểu và biết Phật pháp rất dễ dàng. Có thể ngồi trên máy
vi tính chúng ta có thể giải đáp và
học được tất cả kinh điển Phật giáo bằng
nhiều hình thức khác nhau. Nhưng thông thường văn
minh và thuận lợi chừng nào thì con người dẫn
đến tinh trạng lười biếng và phẩm chất
đạo đức suy giảm.
Trích: Nội San CHUYỂN PHÁP LUÂN, 01-2004, GHPGVN.
---o0o---
Source:
http://www.budsas.org/
Cập
nhật: 01-3-2004
|
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục