Trong
Vi
diệu
pháp,
các
tâm
hành
được
định
nghĩa
là
‘các
yếu
tố
đi
với
thức,
sinh
diệt
cùng
với
thức,
có
cùng
đối
tượng
và
các
căn
bản
như
thức’.
Ðiều
này
chứng
tỏ
sự
liên
hệ
rất
gần
giữa
thức
(chitta)
và
tâm
hành
(chetasika).
Một
trong
những
so
sánh
để
mô
tả
sự
liên
hệ
của
chúng
là
cái
sườn
nhà
và
các
vật
liệu
cất
nhà,
hoặc
bộ
xương
và
bắp
thịt
của
ta.
Ở
đây
các
loại
thức
là
bộ
xương,
các
tâm
hành
là
bắp
thịt,
tạo
ra
toàn
thể
kinh
nghiệm
thức
là
thân
thể. Với
các
ý
niệm
đó
trong
tâm,
ta
thử
xem
xét
các
loại
thức
được
liệt
kê
và
được
phân
tích
trong
Vi
diệu
pháp
(Abhidharma)
mà
chúng
cùng
đi
chung
với
nhau.
Sự
phân
tích
riêng
biệt
của
ta
sẽ
không
hẳn
tương
hợp
một
cách
chính
xác
với
sự
phân
tích
trong
kinh
sách.
Nhưng
với
một
chừng
mực
nào
đó,
một
vài
tâm
hành
tự
nhiên
xảy
ra
cùng
với
các
loại
thức
đặc
biệt
nào
đó,
chúng
ta
sẽ
hiểu
đuợc
tại
sao
chúng
đi
chung
với
nhau.
Ðiều
này
quan
trọng
hơn
là
ta
phải
thuộc
và
nhớ
cả
một
danh
sắc
tên
các
tâm
hành. Có
3
loại
tâm
hành
tổng
quát:
thiện
(lành),
bất
thiện
(dữ)
và
vô
ký.
Riêng
các
tâm
hành
vô
ký
không
lành
không
dữ
thì
kết
hợp
với
các
tâm
hành
khác.
Các
tâm
hành
vô
ký
này
giữ
một
vai
trò
chánh
trong
việc
tạo
dựng
kinh
nghiệm
tâm
thức,
giống
như
việc
không
có
xi
măng
thì
các
‘kinh
nghiệm’
được
xây
lên
không
thể
dính
với
nhau
được. Trang
314.
Có
hai
nhóm
tâm
hành
vô
ký:
phổ
biến
(hay
chủ
yếu)
và
đặc
biệt
(hay
thứ
yếu).
Các
tâm
hành
phổ
biến
hiện
diện
trong
tất
cả
các
loại
thức
trong
khi
các
tâm
hành
đặc
biệt
chỉ
xảy
ra
trong
một
số
loại
thức. Có
7
tâm
hành
vô
ký
phổ
biến
(các
sách
gọi
là
‘biến
hành’):
xúc,
thọ,
tưởng,
hành,
nhất
điểm
tụ,
tác
ý
và
sức
sống
(sinh
khí). Xúc
là
sự
kết
hợp
của
thức
(bên
trong)
với
vật
(bên
ngoài).
Ðây
là
sự
cộng
hữu
của
chủ
thể
và
đối
tượng.
Ðó
là
nền
tảng
của
tất
cả
kinh
nghiệm
thức. Thọ
là
phẩm
chất
thuộc
về
cảm
tính
của
một
kinh
nghiệm:
vui,
buồn
hay
không
vui
không
buồn. Tưởng
là
sự
nhận
biết
(thuộc
dục
giới)
của
một
khả
năng
để
cho
một
cảm
quan
nào
đó
thuộc
nhãn
thức,
nhĩ
thức,
v.v... Hành,
trong
bài
này,
không
có
nghĩa
tự
do
mà
nó
là
một
phản
ứng
hành
động
theo
bản
năng. Nhất
điểm
tụ
không
có
nghĩa
là
định
mà
nó
có
nghĩa
là
sự
giới
hạn
thức
vào
một
đối
tượng
đặc
biệt.
Như
đã
được
nêu
trong
Chương
34,
nhất
điểm
tụ
xảy
ra
ngay
cả
trong
các
loại
thức
bình
thường
và
không
thiền
định.
Nhất
điểm
tụ
là
một
tâm
hành
cần
thiết
cho
tất
cả
các
loại
thức
bởi
vì
chính
nhờ
nhất
điểm
tụ
mà
nó
chú
tâm
riêng
vào
một
đối
tượng
ra
khỏi
nhiều
đối
tượng
khác. Tác
ý
có
thể
được
xem
là
có
liên
hệ
đến
nhất
điểm
tụ.
Nhất
điểm
tụ
và
tác
ý
là
2
mặt
tiêu
cực
và
tích
cực
của
cùng
một
phần
hành.
Nhất
điểm
tụ
giới
hạn
kinh
nghiệm
của
ta
vào
một
đối
tượng
đặc
biệt
trong
khi
tác
ý
hướng
dẫn
sự
chú
ý
của
ta
vào
một
đối
tượng
đặc
biệt.
Nhất
điểm
tụ
và
tác
ý
vận
hành
chung
với
nhau
để
cô
lập
và
tạo
thành
thức
của
một
đối
tượng
đặc
biệt. Sức
sống
(sinh
khí)
ý
nói
đến
cái
lực
kết
hợp
6
tình
trạng
tâm
thức
kia
lại
với
nhau. Có
6
tâm
hành
vô
ký
đặc
biệt:
tầm
(tìm),
từ
(sát
hay
xét),
quyết
tâm
(thắng
giải),
tật
đố,
hỉ
và
dục.
Chúng
ta
đã
nói
một
vài
điều
trên
trong
bài
nói
về
các
pháp
định.
Tâm
sở
đặc
biệt
thứ
ba,
thường
được
dịch
là
‘quyết
tâm’
(adhimokkha),
là
một
tâm
hành
rất
quan
trọng,
nó
có
nhiệm
vụ
quyết
định
đặc
biệt
cho
thức
này.
Nghĩa
đen
của
từ
gốc
là
‘giải
thoát’
có
nghĩa
là
‘thoát
khỏi
sự
nghi
ngờ’.
Tâm
hành
thứ
sáu,
‘dục’
(chhanda),
có
thể
tạm
dịch
như
thế
với
điều
kiện
là
chúng
ta
phải
nhớ
rằng
‘dục’
thuộc
về
xác
thịt
(kamachhanda)
là
tiêu
cực
và
phá
hoại,
trong
khi
‘dục’
thuộc
về
giải
thoát
(dhammachhanda)
là
tích
cực
và
xây
dựng.
Vì
thế
dục
có
cả
2
đặc
tính
thiện
và
bất
thiện,
tùy
vào
đối
tượng
của
dục
và
vào
những
tâm
hành
khác
mà
dục
liên
kết
với
chúng. Chúng
ta
hãy
tiếp
tục
xét
các
tâm
hành
thiện.
Có
tất
cả
14,
và
liên
kết
với
12
loại
thức
bất
thiện
(xem
Chương
33)
qua
5
cách,
được
phân
ra
thành
5
nhóm.
Ba
nhóm
đầu
lấy
đặc
tính
cho
chúng
từ
3
căn
bất
thiện:
si
(moha),
tham
(lobha)
và
sân
(dosa).
Nhóm
thứ
tư
bao
gồm
lười
biếng
(thina)
và
giải
đãi
(middha),
nhóm
thứ
năm
thuộc
nghi
ngờ
(vichikichchha). Chúng
hãy
xét
đến
nhóm
bắt
đầu
bằng
si.
Nhóm
này
hiện
diện
khắp
nơi
trong
tất
cả
các
loại
thức
bất
thiện
và
nó
bao
gồm
bốn
yếu
tố:
si,
vô
tàm
(không
xấu
hổ),
vô
quí
(không
cả
thẹn,
làm
càn)
và
trạo
cử
(không
yên).
Cả
hai
vô
tàm
và
vô
quí
dụ
về
đạo
đức
và
luân
lý,
bên
trong
lẫn
bên
ngoài. Trang
316.
Khi
nói
về
không
xấu
hổ
(vô
tàm),
ta
muốn
nói
đến
việc
không
có
khả
năng
tự
chế
mình
không
làm
điều
bậy,
không
có
khả
năng
ứng
dụng
đạo
đức
cá
nhân
vào
hành
động
của
mình.
Khi
nói
đến
không
cả
thẹn
hay
làm
càn
(vô
quí)
ta
muốn
nói
là
việc
không
có
khả
năng
áp
dụng
các
tiêu
chuẩn
đạo
đức
xã
hội
cho
hành
động
của
mình.
Hai
từ
này
có
ngụ
ý
là:
tiêu
chuẩn
đạo
đức
phải
có
ở
hai
hướng:
nội
tại,
liên
hệ
đến
mình,
và
ngoại
tại,
liên
hệ
đến
người
khác. Ðặc
biệt
trong
những
trường
hợp
của
thức
si
(mê
lầm),
ta
có
ý
nói
về
hành
động
hay
cử
chỉ.
Khi
thức
của
con
người
bị
chi
phối
bởi
si,
người
ấy
không
thể
áp
dụng
các
tiêu
chuẩn
đạo
đức
cho
riêng
mình
và
vì
vậy
hành
động
theo
hướng
bất
thiện.
Cũng
như
vậy,
khi
không
áp
dụng
các
tiêu
chuẩn
đạo
đức
xã
hội,
ta
thường
hành
động
sai
trái.
Việc
không
có
khả
năng
áp
dụng
các
phẩm
cách
đạo
đức
cho
các
hành
động
của
mình
cũng
như
cho
bên
ngoài
tạo
nên
tính
không
yên,
nóng
ruột
(trạo
cử),
đây
là
yếu
tố
thứ
tư
trong
nhóm
bị
thức
‘si’
chi
phối. Nhóm
thứ
hai
trong
năm
nhóm
tâm
hành
bất
thiện
là
nhóm
bị
thức
‘tham’
chi
phối:
tham
đi
kèm
theo
sự
tin
tưởng
sai
lầm
và
tính
tự
cao
tự
đại.
Về
cá
nhân
thì
thức
tham
bị
chi
phối
thành
một
khuynh
hướng
tự
nâng
cao
địa
vị,
tích
lũy,
phô
trương
kiến
thức,
thường
xuyên
có
lòng
tự
hào,
tính
vị
kỷ
và
tự
cao
tự
đại. Nhóm
thứ
ba
của
các
tâm
hành
bất
thiện
là
nhóm
bị
‘sân’
chi
phối.
Tính
sân
kèm
theo
tính
ganh
ghét
(tật
đố),
tính
tham
lam
và
buồn
phiền
(não). Nhóm
thứ
tư
bao
gồm
lười
biếng,
giải
đãi,
đặc
biệt
liên
hệ
đến
các
loại
thức
không
gây
ra
hành. Nhóm
thứ
năm
bao
gồm
nghi
ngờ
(bất
tín),
áp
dụng
trong
tất
cả
trường
hợp
mà
sự
quyết
định
không
có
mặt,
thí
dụ,
quyết
tâm
(thắng
giải)
là
một
trong
sáu
tâm
hành
vô
ký
đặc
thù
(các
sách
gọi
là
biệt
cảnh) Trang
317.
Có
19
tâm
hành
chung
cho
tất
cả
các
loại
thức
thiện
lành.
Một
số
các
yếu
tố
dẫn
đến
giác
ngộ
(bodhipakkhiya
dharma)
giữ
một
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
hun
đúc
và
phát
triển
tiềm
năng
tâm
linh
của
con
người.
Danh
sách
bắt
đầu
với
‘lòng
tin,
nhớ
biết
(niệm),
biết
xấu
hổ
(tàm),
biết
thẹn
(quí),
vô
tham,
vô
sân,
bình
tâm,
tĩnh
lặng,
nhẹ
nhàng,
linh
động,
thích
nghi,
thành
thạo
và
chính
trực.
Chúng
thuộc
về
các
yếu
tố
tâm
linh.
Xin
chú
ý
đến
sự
hiện
diện
của
tàm
(biết
xấu
hổ)
và
quí
(biết
thẹn)
đối
nghịch
với
vô
tàm
và
vô
quí. Mười
chín
tâm
hành
thiện
lành
thỉnh
thoảng
kèm
theo
6
tâm
hành
khác:
3
giới
điều
(chánh
ngữ,
chánh
nghiệp,
chánh
mạng);
2
vô
lượng
tâm
(bi
và
hỉ);
và
lý
trí
hay
trí
tuệ.
Khi
6
cái
hợp
lại
chung
với
nhau,
có
tất
cả
25
tâm
hành
thiện
lành. Trí
tuệ
chiếm
một
vị
trí
trong
các
tâm
hành
thiện
tương
đương
với
vị
trí
dục
trong
các
tâm
hành
vô
ký.
Cũng
như
dục
có
thể
bất
thiện
hay
thiện
tùy
theo
đối
tượng
của
nó,
trí
tuệ
cũng
có
thể
là
thế
gian
hay
siêu
thế
gian
tùy
theo
đối
tượng
của
nó
là
kiến
thức
thông
thường
hay
thực
tướng
siêu
thường. Ðể
củng
cố
những
gì
tôi
đã
nói
về
sự
liên
hệ
rất
gần
giữa
các
loại
thức
và
các
tâm
hành,
tôi
xin
dẫn
chứng
đến
sự
phân
loại
chủ
quan
của
thức
đã
được
đề
cập
trong
chương
33.
Ở
đó,
chúng
ta
đã
nói
đến
các
loại
thức
tùy
theo
giá
trị
nghiệp
báo
của
chúng--thiện,
bất
thiện,
gây
kết
quả
hay
thực
dụng.
Ðặc
biệt
trong
phạm
vi
dục
giới,
chúng
ta
đã
nói
đến
thêm
một
loại
thức
về
mặt
thọ,
tưởng
và
hành. Kết
hợp
với
nhau,
chúng
ta
có
trong
phạm
vi
dục
giới
một
loại
thức
chủ
quan
bốn
mặt
tùy
theo
giá
trị
nghiệp
báo,
cảm
xúc,
tri
thức
và
hành--nói
một
cách
khác,
1.
nói
theo
cái
thiện,
bất
thiện
hay
trung
tính;
2.
nói
theo
cái
vui,
cái
buồn
hay
bình
thản;
3.
nói
theo
việc
hợp
với
kiến
thức
hay
không
hợp
với
kiến
thức
và
4.
nói
theo
việc
được
thúc
đẩy
hay
không
được
thúc
đẩy. Trang
318.
Với
4
mặt
này,
ta
có
thể
thấy
các
loại
thức
được
quyết
định
như
thế
nào
do
sự
hiện
diện
của
các
tâm
hành.
Chẳng
hạn,
trong
loại
giá
trị
nghiệp
báo,
các
loại
thức
thiện
được
quyết
định
bởi
các
tâm
hành
thiện.
Trong
loại
giá
trị
cảm
xúc,
các
loại
thức
được
quyết
định
bởi
sự
hiện
diện
của
các
tình
trạng
thuộc
về
nhóm
thọ
(vui
thú
tinh
thần,
đau
khổ
tinh
thần,
vui
thú
vật
chất,
đau
khổ
vật
chất
và
bình
thản).
Trong
loại
giá
trị
tri
thức,
sự
hiện
diện
hay
vắng
mặt
của
si
quyết
định
hoặc
là
một
loại
thức
biệt
cảnh
được
đồng
hóa
với
kiến
thức,
không
đồng
hóa
với
kiến
thức,
hay
đồng
hóa
với
sự
tin
tưởng
sai
lầm.
Và
trong
loại
giá
trị
hành,
sự
hiện
diện
hay
vắng
mặt
sự
nghi
ngờ
và
quyết
tâm
hoặc
là
một
loại
thức
biệt
cảnh
được
thúc
đẩy
hay
không
thúc
đẩy,
tự
phát
hay
không
tự
phát. Vì
thế
bốn
loại
thức
chủ
quan
làm
sáng
tỏ
các
loại
thức
khác
nhau
được
quyết
định
như
thế
nào
bởi
sự
hiện
diện
của
các
tâm
hành
liên
hệ--thiện,
bất
thiện,
liên
hệ
với
kiến
thức,
v.v... Cuối
cùng,
tôi
xin
xét
đến
cách
các
tâm
hành
vận
hành
trong
việc
đối
phó
với
mỗi
loại
thức.
Ðây
là
điều
đáng
quan
tâm
bởi
vì
sự
phân
tích
của
Vi
diệu
pháp
về
thức
đôi
khi
được
so
sánh
với
sự
phân
tích
của
Bảng
Tuần
hoàn
sắp
xếp
các
nguyên
tố
(theo
trọng
lượng
nguyên
tử
hóa
học
của
Menđêlếep)
theo
các
giá
trị
nguyên
tử
liên
hệ.
Ta
không
thể
nào
không
bị
ảnh
hưởng
bởi
các
thuộc
tính
hoá
học
của
các
tâm
hành:
thí
dụ
như
trong
hóa
học,
một
chất
thí
dụ
như
kiềm
có
thể
trung
hòa
hay
kết
hợp
với
một
axit
để
tạo
nên
muối,
và
ngược
lại.
Vì
thế
trong
sự
phân
tích
các
thức,
một
tâm
hành
thường
đương
đầu
với
các
tâm
hành
nào
đó,
và
ngược
lại. Trang
319.
Chẳng
hạn,
trong
các
pháp
định
(xem
chương
34),
5
tâm
hành
đương
đầu
với
5
chướng
ngại
(‘tầm’
đương
đầu
với
‘lười
biếng,
giải
đãi’;
‘sát’
đối
phó
với
‘nghi
ngờ’;
‘hỉ’
với
‘sân’;
‘lạc’
với
‘bồn
chồn’
(trạo
cử)
và
‘lo
lắng’;
‘tịnh’
với
‘ái
dục’).
Nếu
không
có
sự
liên
hệ
một
đối
một
thì
các
nhóm
của
pháp
thiện
đương
đầu
với
từng
pháp
bất
thiện
hoặc
đương
đàu
với
nhóm
của
pháp
bất
thiện
(‘tín’
đương
đầu
với
‘nghi
ngờ’
và
‘si’,
‘bình
tâm’
và
‘tĩnh
lặng’
với
‘ngờ’
và
‘lo’;
‘nhẹ
nhàng,
linh
động,
thích
nghi,
tâm
thành
thạo
và
các
yếu
tố
tâm
linh’
đối
đầu
với
‘lười
biếng
và
giải
đãi’;
v.v...).
Một
lần
nữa,
khi
tính
quyết
tâm
có
mặt,
lòng
nghi
ngờ
vắng
mặt. Bằng
cách
ấy,
các
tâm
hành
thiện
lành
đương
đầu
và
chống
lại
các
thức
bất
thiện.
Sự
có
mặt
của
các
tâm
hành
nào
đó
diệt
trừ
các
tâm
thức
chống
đối
và
nhờ
vậy
dọn
chỗ
cho
các
tâm
hành
thích
nghi.
Qua
sự
hiểu
biết
sự
liên
hệ
giữa
thức
và
các
tâm
hành
và
qua
sự
vun
trồng
các
tâm
hành
thiện
lành
này,
chúng
ta
có
thể
dần
dần
thay
đổi
và
cải
thiện
tướng
trạng
của
kinh
nghiệm
tâm
thức
chúng
ta.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002