|
Vì sao tin Phật
Hòa thượng K.
Sri Dhammananda
Thích Tâm Quang
dịch Việt,
California,
Hoa Kỳ, 1997
Nguyên
tác: What Buddhists believe , Malaysia, 1987 |
---o0o---
Chương 17
BÓI TOÁN VÀ MỘNG MỊ
-ooOoo-
THUẬT CHIÊM TINH VÀ THIÊN VĂN HỌC
"Tôi tin chiêm tinh học, nhưng
không tin vào các chiêm tinh gia"
Ngay từ thuở sơ khai,
con người đã bị quyến rữ bởi các tinh tú và lúc nào cũng
cố gắng tìm một số liên hệ giữa những tinh tú này với
định mệnh con người. Quan sát tinh tú và các vận hành của
các vì sao đã phát xuất hai lãnh vực nghiên cứu quan trọng
gọi là Khoa Chiêm Tinh và Thiên Văn Học. Thiên Văn Học được
coi như một loại khoa học thuần túy chuyên vào đo đạc
khoảng cách, sự tiến hóa và sự hoại diệt, vận hành của
các vì sao vân vân ... Dĩ nhiên, tất cả những cách tính toán
này đều đặt liên hệ với hành tinh trái đất và xem
những vận hành giữa các hành tinh ảnh hưởng nhân loại trên
bình diện vật chất ra sao. Thiên Văn Học hiện đại tìm tòi
những câu trả lời cho những câu hỏi còn chưa được giải
đáp liên quan đến nguồn gốc con người và sự chấm dứt
chung cuộc có thể xẩy ra cho con người là thành phần của
giống người. Đó là một lãnh vực nghiên cứu rất hấp
dẫn, và kiến thức mới của chúng ta về vũ trụ và các
giải ngân hà đã đem nhiều áp lực đến nhiều tôn giáo để
đánh giá lại những cơ sở lập luận lâu đời liên quan đến
đấng sáng tạo và sự sáng tạo đời sống.
Phật Giáo không phải
đối đầu với việc khó xử nào, đơn giản vì Đức Phật
không khuyến khích tín đồ của Ngài ức đoán những điều
vượt khỏi tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên Ngài cũng có
một số điều ám chỉ mà dưới ánh sáng kiến thức hiện
đại đạt được qua khoa học, cho thấy Đức Phật ý thức
rõ ràng rằng bản chất thực sự của vũ trụ vốn không
phải được sáng tạo trong một phút huy hoàng nào đó, rằng
trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ chẳng quan trọng gì
trong tất cả không gian, rằng sự thành trụ và sự hoại
diệt tiếp diễn liên tục và mọi sự vật lúc nào cũng
chuyển động không ngừng nghỉ.
Tuy nhiên, nhìn chung,
Chiêm tinh lại là một lãnh vực nghiên cứu hoàn toàn khác
hẳn. Con người từ thuở sơ khai bắt đầu nghĩ ngợi xâu xa
về sự tương quan của mình với vũ trụ. Khi xã hội loài người
tiến vào các hoạt động nông nghiệp từ cách săn bắn để
sinh nhai và bắt đầu nhận thấy sự liên hệ giữa sự vận
hành của mặt trời qua nhiều năm và những sinh hoạt của mình
về trồng trọt, gặt hái, và trong những dự án tương tự.
Con người càng trở nên thông thạo có thể tiên đoán được
sự chuyển động của mặt trời, và đã sáng chế ra cách đo
lường thời gian, chia thành năm, tháng, ngày, giờ, phút và giây.
Con người liên kết
kiến thức này với cuộc sống do đó cảm thấy có một sự
tương quan giữa chu kỳ của cuộc sống của mình với cuộc
vận hành của những hành tinh. Do đó nẩy sanh ra Hoàng Đạo
- con đường biểu kiến của mặt trời. Nó gồm có mười
hai chòm sao. Nghiên cứu sự vận chuyển của các chòm sao này
trong tương quan với đời sống của con người gọi là giải
đoán tử vi.
Sự nghiên cứu chiêm
tinh liên hệ đến sự hiểu biết lớn lao về bản chất con
người gồm khả năng ước định chính xác vận hành của các
hành tinh, cùng với trí thấu hiểu bên trong vào hiện tượng
hình như không thể giải thích được của vũ trụ. Có
nhiều nhà chiêm tinh gia lỗi lạc trong quá khứ và đến ngày
nay cũng có một số. Nhưng bất hạnh thay lại có một số
lớn các kẻ bịp bợm đã làm chiêm tinh bị ô danh. Họ lừa
bịp người ta bằng cách tiên đoán những biến chuyển tương
lai giả dối. Họ kiếm được những món tiền lớn bằng cách
khai thác sự ngu dốt và sợ hãi của người cả tin. Và kết
quả là sau một thời gian dài, các khoa học gia phỉ báng chiêm
tinh và không tin vào khoa này. Tuy nhiên thái độ thù nghịch
của khoa học gia không hẳn là đúng. Mục đích chính của người
đoán tử vi là phải thấu đáo bên trong đặc tính của một
người, giống như bức hình quang tuyến X cho thấy tính chất
thân thể của con người.
Thống kê cho thấy
ảnh hưởng của mặt trời theo ký hiệu Hoàng Đạo trên sự
ra đời của những người bất thường vào một số tháng nào
đó. Nhiều các tội ác tương ứng với ký hiệu Hoàng Đạo
mà mặt trời vận hành trong vài tháng nào đó của một năm.
Cho nên sự hiểu biết về sự tương quan này sẽ giúp con người
dự tính cho đời mình có ý nghĩa hơn, hòa hợp với khuynh hướng
bẩm sinh của mình và sự va chạm sẽ ít đi qua dòng đời.
Một đứa nhỏ mới
sanh ra giống như một hạt giống. Trong thân nó chứa đựng
tất cả những chất liệu cho nó thành một cá nhân tuơng
tự nhưng khác hẳn tất cả những người đồng chủng,
giống như hạt giống tiềm năng của nó phát triển tùy
thuộc vào cách nuôi dưỡng mà nó nhận được. Bản chất
của một người được sanh khởi ngay bên trong của mình, nhưng
sự tự do của chính mình quyết định có thực sự sử
dụng được tài cán và khả năng của mình hay không. Con người
có thể khắc phục được thói xấu và nhược điểm hay không
là tùy ở lúc thiếu thời được rèn luyện ra sao. Nếu ta
nhận rõ được bản chất của mình - khuynh hướng lười
biếng, bứt rứt, lo âu, khủng hoảng, độc ác, gian xảo,
ganh ghét - chúng ta có thể có những biện pháp tích cực để
chế ngự chúng. Bước đầu tiên giải quyết vấn đề là
nhận thức được chúng như thế nào.
Giải thích chiêm tinh
cho biết sở thích và xu hướng của chúng ta. Một khi đã
vạch rõ ra được, chúng ta phải có những biện pháp cần
thiết để hoaïch định đời sống của mình trong cách
xỐế thế để trở thành người công dân hữu dụng của
thế giới. Ngay cả đến một người có khuynh hướng tội ác
cũng có thể trở nên một thánh nhân, nếu người đó nhận
thức được bản chất của mình và có những biện pháp để
sống một cuộc đời lương thiện.
Tử vi là một biểu
đồ cho thấy nghiệp lực của một người được tính từ lúc
mới sanh. Nghiệp lực quyết định giờ sanh và do biết giờ
sanh này, một chiêm tinh gia tài giỏi có thể lập một biểu
đồ chính xác về vận mệnh, trong suốt thọ mạng của một
người.
Mọi người đều
biết trái đất phải mất khoảng một năm để quay chung
quanh mặt trời. Sự vận hành này, nhìn từ trái đất, đặt
mặt trời ở nhiều vị trí hoàng đạo trong một năm. Một
người sanh ra (không phải là ngẫu nhiên mà do ảnh hưởng
của nghiệp lực) khi mặt trời di chuyển trong một của mười
hai ký hiệu Hoàng Đạo.
Qua tử vi, bạn có
thể quyết định thời gian nào đó trong cuộc đời, bạn
cần phải giảm hay tăng mức độ sáng tạo hoặc cần phải
theo dõi các hoạt động và sức khỏe của mình.
THÁI ĐỘ
PHẬT GIÁO VỚI CHIÊM
TINH
Câu hỏi mà đa số người
ta hay nêu lên là Phật Giáo chấp nhận hay bài bác khoa chiêm
tinh. Nói cho chính xác, Đức Phật không tuyên bố trực tiếp
gì đến vấn đề này vì cũng như trong nhiều trường hợp
khác, Ngài dạy là bàn cãi về vấn đề này không liên quan gì
đến việc phát triển tâm linh. Không như các tôn giáo khác,
Phật Giáo không kết án khoa chiêm tinh và con người hoàn toàn
tự do lĩnh hội được từ môn này cho cuộc sống mình có ý
nghĩa hơn. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ lời dạy của Đức
Phật, chúng ta có khả năng chấp nhận rằng một hiểu biết
chính đáng và thông minh về chiêm tinh có thể là một dụng
cụ hữu ích. Có sự liên hệ trực tiếp giữa đời sống
của một người và những vận hành rộng lớn của vũ trụ.
Khoa học hiện đại phù hợp với Giáo Lý Đạo Phật. Thí
dụ chúng ta biết có một sự liên kết chặt chẽ giữa sự
di chuyển của mặt trăng và tính khí của chúng ta. Sự kiện
này được thấy rõ ràng ở những người khủng hoảng tinh
thần hay kẻ hung bạo bất bình thường. Cũng rất đúng với
một vài chứng bệnh như suyễn và viêm cuống phổi hay bị
nặng thêm vào những tuần trăng tròn dần. Cho nên có đủ căn
cứ để tin là các hành tinh khác cũng ảnh hưởng đến đời
sống của chúng ta.
Phật Giáo chấp nhận
có một năng lượng vũ trụ rộng lớn rung động mọi sinh
vật kể cả cây cối. Năng lượng này tác động tương hợp
với năng lượng của nghiệp mà một cá nhân tạo ra và
quyết định cho tiến trình của một kiếp sống . Sự ra đời
của của một cá nhân không phải là bước sáng tạo đầu
tiên cho một kiếp sống mà chỉ là sự tiếp diễn của một
kiếp sống luôn luôn đã hiện hữu và sẽ tiếp tục hiện
hữu trong bao lâu mà nghiệp lực chưa bị dập tắt bởi sự
giải thoát cuối cùng trong tình trạng vô điều kiện. Bây
giờ để một kiếp sống tự nó biểu hiện dưới một
hiện hữu mới, một số yếu tố, như thời tiết, mầm
giống, và thiên nhiên phải hội đủ. Những thứ này được
hỗ trợ bởi năng lượng của tinh thần và của nghiệp và
tất cả những thành phần này luôn luôn ở trong sự phản
ứng liên tục, phụ thuộc lẫn nhau đưa đến kết quả là
những thay đổi không ngừng của một kiếp sống con người.
Theo các nhà chiêm tinh
học, thời gian ra đời của một con người được tiền định
bởi năng lượng vũ trụ và nghiệp lực. Cho nên, có thể
kết luận là việc sanh ra đời không phải là ngẫu nhiên mà
là kết quả của các phản ứng giữa nghiệp lực của một
cá nhân và lực của năng lượng vũ trụ. Tiến trình của đời
sống con người được tiền định, nguyên do một phần của
hành động chính của một chúng sanh trong quá khứ và những
năng lượng vận chuyển vũ trụ. Ngay khi bắt đầu, sự
sống kiểm soát bởi sự tương hợp giữa hai lực ấy ngay
cả lúc chào đời. Do đó một nhà chiêm tinh tài giỏi, là người
hiểu rõ vũ trụ cũng như thông suốt ảnh hưởng của
nghiệp, có thể lập một biểu đồ cho cuộc sống của một
người, căn cứ vào giờ sanh của người ấy.
Trong khi về một ý
nghĩa nào đó chúng ta phải gánh chịu những lực ấy thì Đức
Phật chỉ rõ cho chúng ta thấy một phương cách có thể thoát
khỏi các ảnh hưởng của chúng. Tất cả những nghiệp lực
đều tàng chứa trong tiềm thức thường được miêu tả là
những yếu tố thanh tịnh hay bất tịnh của tâm. Vì nghiệp
lực ảnh hưởng đến vận mệnh của một người nên ta có
thể phát triển tâm trí để vô hiệu hóa ảnh huởng tội
lỗi gây ra từ bất thiện nghiệp trước đây. Một người cũng
có thể thanh lọc được tâm mình và có thể tự mình quét
sạch được nghiệp lực, và ngăn không cho tái sanh tiếp
diễn. Khi không có tái sanh, sự sống không có tiềm lực, và
hậu quả là không có kiếp "tương lai" để có thể
khẳng định hay thiết lập biểu đồ (tử vi). Ở giai đoạn
phát triển tinh thần và tâm linh như thế, một người có
thể vượt qua sự cần thiết muốn biết đời mình ra sao vì
hầu hết tất cả những bất toàn và bất toại nguyện đã
được dẹp sạch. Một người tinh thần phát triển cao độ
không cần đến tử vi.
Vào đầu Thế Kỷ
Thứ Hai Mươi, những nhà tâm lý và phân tâm học đã công
nhận có rất nhiều điều về tâm ý con người hơn là các
nhà duy vật cứng ngắc đã từng chấp nhận. Có nhiều điều
hơn cho thế gian có thể nhìn thấy và xúc chạm được. Nhà
Tâm Lý Học Thụy Sĩ nổi tiếng Carl Jung, thường lấy tử vi
bệnh nhân của ông. Có một dịp khi ông nghiên cứu chiêm
tinh về 500 cuộc hôn nhân, ông thấy những khám phá của
Ptolemy mà các nhà chiêm tinh Tây Phương căn cứ vào, vẫn còn
giá trị; những phương vị thuận lợi giữa mặt trời và
mặt trăng của các cặp vợ chồng khác nhau đã đem hạnh phúc
cho các cuộc hôn nhân .
Nhà tâm lý học Pháp
nổi tiếng Michel Gauguelin khởi thủy có một quan niệm tiêu
cực về chiêm tinh học, sau khi đã khảo sát khoảng chừng
20.000 bản nghiên cứu tử vi, ngạc nhiên thấy rằng những đặc
tính của những người được nghiên cứu trùng hợp với cách
mô tả đặc tính mà phương pháp tâm lý hiện đại áp
dụng.
Việc trồng hoa, cây và
rau vào thời điểm khác nhau trong một năm đã làm cho chúng
mọc mạnh và nhanh khác nhau. Cho nên chắc chắn con người
sanh vào thời điểm nào đó trong một năm sẽ có những đặc
tính khác biệt hơn những người sanh ở thời điểm khác.
Hiểu được nhược điểm, những thất bại và các thiếu sót
của mình, một người có thể cố gắng hơn nữa để thắng
lướt chúng và tự mình sẽ làm cho mình trở thành một người
hữu dụng hơn cho xã hội. Việc hiểu biết này cũng sẽ giúp
cho người ấy rất nhiều trong việc tránh những bất hạnh và
thất bại. (Thí dụ ra đi khỏi nước mà mình đã sanh ra, đôi
khi có thể giúp cho một người tránh khỏi ảnh hưởng của
các vì sao).
Shakespeare nói rằng:
"Lỗi lầm không phải nơi các vì sao mà chính nơi chúng
ta". Một nhà chiêm tinh học nổi tiếng đã nói: "Các
vì sao chỉ thúc đẩy mà không thúc ép". St Thomas Aquinas nói:
"các hành tinh ảnh hưởng nhiều trên phần cơ bản của
con người hơn trên những đam mê", nhưng nhờ con người
tri thức có thể sắp xếp đời sống hài hòa với các hành
tinh cùng trau dồi, sử dụng tài năng bẩm sinh của mình để
cầu tiến.
Khoa chiêm tinh không
thể tự động giải quyết tất cả những vấn đề. Bạn
phải tự mình làm lấy. Giống như một bác sĩ có thể chẩn
bệnh, đoán biết tính chất của bệnh, một chiêm tinh gia
chỉ có thể cho thấy một số phương diện nào đó về
cuộc đời và cá tính của bạn. Sau đó phần còn lại chính
là bạn phải điều chỉnh lối sống của bạn. Đương nhiên,
công việc sẽ dễ dàng hơn nếu hiểu biết điều gì phù
hợp hay không phù hợp với bạn. Một số người lại quá
lệ thuộc vào thuật chiêm tinh. Họ tìm đến chiêm tinh gia
bất cứ lúc nào có một điều gì xẩy ra hay nếu họ thấy
mộng. Cần nhớ rằng thời nay khoa chiêm tinh là một môn khoa
học không toàn hảo và ngay cả đến những chiêm tinh gia
giỏi nhất cũng có những lầm lẫn quan trọng. Sử dụng chiêm
tinh học một cách thông minh giống như bạn sử dụng một
dụng cụ nào đó làm cho đời bạn thoải mái và thú vị. Trên
hết coi chừng những chiêm tinh gia giả mạo đánh lừa bạn
bằng cách không nói sự thực mà chỉ nói những điều bạn
thích nghe.
Đừng nên mong đợi
hồng vận đến với mình hay dễ dàng đến tầm tay mà phần
mình không mất chút công sức nào cả. Nếu bạn muốn có mùa
gặt tốt, bạn phải gieo giống và giống phải là loại
giống tốt. Nên nhớ: "Cơ
hội chỉ gõ cửa, nhưng không bao giờ bẻ gẫy khóa để vào".
BÓI TOÁN VÀ BÙA NGẢI
Chuyên cần là vì sao
đem may mắn nhất.
Mặc dù Phật Giáo không
bài bác tín ngưỡng nơi các chư thiên, quỷ thần, thuật chiêm
tinh, và bói toán nhưng lời khuyên của Đức Phật là không nên
lệ thuộc vào các năng lực trên đây. Một Phật Tử tốt có
thể thắng lướt tất cả những khó khăn của mình nếu người
đó hiểu biết cách sử dụng trí thông minh và sức mạnh ý
chí của mình. Những cách tin tưởng trên không có ý nghĩa
tinh thần và giá trị gì cả. Con người phải vượt qua tất
cả những vấn đề và khó khăn bằng nỗ lực của chính mình
chứ không phải qua trung gian của chư thiên, quỷ thần,
thuật chiêm tinh và bói toán. Một trong những truyện Phật Giáo
Jataka (Túc Sanh Truyện), Ngài Bồ Tát nói: "
Kẻ ngu dại trông ngóng
ngày may mắn,
Nhưng hồng vận chẳng bao giờ đến cả,
Hồng vận chính nó là hồng vận của vì sao,
Chỉ là vì sao thì làm nên được gì?
Bồ Tát tin rằng chuyên
cần là vì sao hên nhất và ta không nên phí thì giờ bằng cách
tham khảo các vì sao và ngày hồng vận để được thành công.
Nỗ lực hết sức để tự giúp mình tốt hơn là chỉ trông
vào các vì tinh tú hay những ngưồn lực bên ngoài.
Mặc dù một số
Phật Tử thực hành bói toán, và phổ biến một số hình
thức bùa ngải dưới chiêu bài tôn giáo, Đức Phật không
bao giờ khuyến khích một ai làm những điều này. Giống như
bói toán, bùa ngải là loại hình thức dị đoan, không có
một giá trị đạo giáo nào cả. Tuy thế mà ngày nay vẫn có
nhiều người, vì đau yếu và kém may mắn cho rằng nguyên nhân
đau yếu và xui xẻo là do sức mạnh của bùa ngải. Khi nguyên
nhân của đau yếu và bất hạnh không được biết chắc và
không tìm ra dấu vết, nhiều người có khuynh hướng tin là các
khó khăn đó do bùa ngải hoaëc do một số nguyên nhân bên ngoài.
Họ quên rằng họ đang sống ở thế kỷ thứ hai mươi. Đó
là thời đại tiên tiến của việc phát triển và đạt thành
quả của khoa học. Những khoa học gia lãnh đạo của chúng
ta đã dẹp qua một bên nhiều tín ngưỡng dị đoan, và họ
đã đem được cả người lên cung trăng!
Tất cả các đau yếu
đều do nguyên nhân tinh thần hay vật chất (tâm bệnh và thân
bệnh). Trong Shakespeare, Macbeth hỏi bác sĩ có một loại
thuốc nào có thể chữa được bệnh cho người vợ không,
được bác sĩ trả lời rằng: "Bà cần nhiều sự siêu
phàm hơn là các thầy thuốc". Cái mà vị bác sĩ muốn
giải thích là một số bệnh chỉ có chữa khỏi nếu tâm ý
được thanh tịnh trong sạch. Một số các bệnh xáo trộn
tinh thần nghiêm trọng tự nó trở thành thân bệnh như lở
loét dạ dầy, đau bao tử vân vân...
ĐỐơng nhiên thân
bệnh có thể được chữa khỏi bởi một bác sĩ giỏi. Và
sau cùng, một số xáo trộn không thể giải thích được có
thể do nguyên nhân mà người Phật tử gọi là do nghiệp
quả đã chín muồi. Đó có nghĩa là chúng ta phải trả một
số hành vi bất thiện mà chúng ta gây ra trong kiếp trước.
Nếu chúng ta có thể hiểu đó là trường hợp của một số
bệnh nan y, chúng ta phải hết sức kiên tâm chịu đựng vì
biết được nguyên nhân thực sự của chúng.
Ai thấy không hết
bệnh nên tìm đến một thầy thuốc chuyên môn để được
điều trị thận trọng hơn. Nếu sau khi đã được khám xét
tổng quát chữa trị mà không hết bệnh và thấy vẫn cần
đến sự điều trị, người đó có thể tìm đến một vị
đạo sư tôn giáo thích hợp hơn để được hướng dẫn.
Người Phật Tử được
khuyên bảo cẩn trọng đừng để rơi vào hố sâu mê tín
dị đoan khiến tâm bị rối loạn bởi sự sợ hãi không
cần thiết và vô căn cứ. Trau dồi một sức mạnh ý chí
mạnh mẽ bằng cách không tin vào ảnh hưởng của bùa ngải.
Một khóa thiền ngắn
giúp ích rất nhiều để thanh lọc tư tưởng bất thiện
trong tâm. Thiền định dẫn đến sự thanh lọc tâm ý. Tâm
được thanh lọc tự động dẫn đến một thân thể trong
sạch và khoẻ mạnh. Pháp Phật là một tác dụng giảm đau và
chữa khỏi các loại tâm bệnh này.
TIN COI ĐỒNG
CỐT
Tin coi đồng cốt không
phải là cách hành đạo của Phật Giáo: Đó chỉ là một
lối tin tưởng theo truyền thống và tâm lý.
Tại nhiều quốc gia,
người dân tìm lời khuyên bảo và chỉ dẫn nơi các đồng
cốt để tránh các khó khăn trong các tình huống mà họ cho là
ngoài tầm hiểu biết của họ.
Người ta tìm đến đồng
cốt trong nhiều cách và nhiều lý do. Khi đau yếu mà y khoa thì
hình như vô hiệu, một số người trở nên thất vọng và
quay về bất cứ nơi nào để tìm an ủi. Vào những lúc như
vậy, người ta tìm đến đồng cốt. Một số người cũng
quay về với đồng cốt, khi họ gặp phải vấn đề phức
tạp và không tìm ra cách giải quyết khả dĩ chấp nhận được.
Một số khác tin coi đồng cốt vì tham lam muốn làm giàu
nhanh chóng.
Một số người tin
rằng khi một con đồng trong trạng thái xuất thần, linh hồn
của một thần linh hoặc của một chư thiên nào đó nhập vào
và truyền thông qua con đồng để ban bảo các lời khuyên
hoặc hướng dẫn những ai đang cần giúp đỡ. Những người
khác tin rằng trong trạng thái lên đồng, tiềm thức nổi lên
và thay thế tâm thức.
Tin coi đồng cốt
rất phổ thông trong đại chúng. Phật Giáo có thái độ trung
lập đối với việc tin coi đồng cốt. Rất khó có thể
kiểm chứng những truyền đạt của con đồng là đúng hay
sai. Tin coi đồng cốt không phải là một cách hành đạo
của Phật Giáo; việc này chỉ là loại thực hành có tính cách
truyền thống.
Tin coi đồng cốt
chỉ là muốn được lợi lạc vật chất thế gian, Giáo lý
của Đức Phật là để phát triển tinh thần. Tuy nhiên, nếu
người ta tin tưởng điều mà đồng cốt truyền đạt là đúng,
không có lý do gì người Phật Tử lại phản đối tập tục
này.
Nếu một người
thấu hiểu và hành trì Phật Pháp, người đó có thể nhận
thức được thực chất của những vấn đề khó khăn của mình.
Người đó có thể khắc phục được khó khăn của chính mình
mà không cần phải tin coi đồng cốt.
NHỮNG GIẤC MỘNG VÀ
Ý NGHĨA VỀ MỘNG
"Đời chẳng là gì
cả mà chỉ là một giấc mộng".
Một trong những vấn
đề lớn nhất không giải quyết được của con người là
sự bí mật của các giấc mộng. Từ thuở sơ khai, con người
đã cố gắng phân tích các giấc chiêm bao, và cố giải thích
chúng bằng thuật ngữ tiên tri và tâm lý, nhưng dù có một vài
biện pháp thành công mới đây, chúng ta có lẽ vẫn không
tiến gần đến câu trả lời cho câu hỏi khó khăn trở
ngại này: "Mộng là gì?"
Một nhà thơ lãng
mạn Anh William Wordsworth có một quan niệm khá kỳ lạ : Cuộc
đời mà chúng ta đang sống chỉ là một giấc mộng và chúng
ta sẽ tỉnh daẾy với thực tại khi chúng ta chết, khi giấc
"mộng" của chúng ta chấm dứt".
"Sự sanh ra đời
của chúng ta chỉ là giấc ngủ, và lãng quên:
Linh hồn cùng sanh ra với chúng ta, vì sao của đời chúng ta
Đã lặn đi nơi nào đó,
và đến từ xa .
Một quan niệm tương
tự được giải thích trong một câu chuyện vui cổ Phật Giáo
kể một chư thiên đang vui chơi cùng với các chư thiên khác.
Quá mệt, chư thiên này nằm xuống ngủ một giấc và tịch
luôn. Chư Thiên này tái sanh thành một cô gái ở trần gian. Cô
lấy chồng, có một vài đứa con và sống rất lâu. Sau khi
chết cô lại sanh làm chư thiên giữa những chư thiên bạn
hữu mới chỉ vừa chấm dứt cuộc chơi. (Câu chuyện này cũng
làm sáng tỏ tính chất tương đối của thời gian, đó là ý
niệm thời gian của người trần thế khác biệt ra sao với
thời gian của kiếp sống ở một cõi khác).
Phật giáo đã nói gì
về những giấc mộng? Cũng giống như tất cả văn hóa khác,
Phật Giáo đã có phần đóng góp phải chăng của mình với
những người tự cho là có tài đoán mộng. Những người này
kiếm được rất nhiều tiền bằng cách khai thác cái ngu
muội của những ai tin tưởng là mỗi giấc mộng đều có ý
nghĩa tinh thần hoặc tiên tri.
Theo tâm lý Phật Giáo,
giấc mộng là những tiến trình ý tưởng diễn ra như những
hoạt động của tâm trí. Khi xét về diễn tiến của các
giấc mộng, cần nhớ rằng tiến trình ngủ có thể được
coi như rơi vào năm giai đoạn sau:
1. Buồn ngủ
2. Ngủ thiu thiu
3. Ngủ say
4. Ngủ chập chờn
5. Tỉnh ngủ
Ý nghĩa và nguyên nhân
các giấc mộng đã là đề tài thảo luận trong cuốn sách
nổi tiếng "Milinda Panha" hay "Những câu hỏi của
Hoàng Đế Milinda", trong đó Tỳ kheo Na Tiên nói mộng có
sáu nguyên nhân, ba thuộc hữu cơ, hơi (trong bao tử), mật và
đờm dãi. Nguyên nhân thứ tư do sự xen vào của sức mạnh
siêu nhiên, nguyên nhân thứ năm do phục hồi nhớ lại kinh
nghiệm quá khứ, và thứ sáu ảnh hưởng của các biến cố
tương lai. Nói rõ ràng là các giấc mộng chỉ xuất hiện
trong lúc thiu thiu ngủ giống như giấc ngủ của con khỉ.
Trong sáu nguyên nhân Tỳ Kheo Na Tiên khẳng định nguyên nhân
cuối cùng gọi là các giấc mộng tiên tri mới là quan
trọng, còn những giấc mộng khác tương đối vô nghĩa.
Mộng là hiện tượng
do tâm tạo ra và chúng là các hoạt động của tâm. Tất cả
mọi người đều nằm mộng, mặc dù có người không nhớ
được. Phật Giáo dạy một số mộng có ý nghĩa tâm lý. Sáu
nguyên nhân kể trên cũng có thể xếp loại theo cách thế sau
đây:
I.
Mỗi một tư tưởng tạo ra đều được tàng trữ trong tiềm
thức và một số các tư tưởng này ảnh hưởng mạnh mẽ đến
tâm ý tùy theo những lo âu của chúng ta. Khi chúng ta ngủ,
một số những tư tưởng này được hoạt hóa và hiện ra đến
chúng ta như những bức tranh chuyển động trước chúng ta.
Việc này xẩy ra vì trong khi ngủ, năm giác quan của chúng ta
tiếp xúc với trần cảnh tạm thời ngưng lại. Tiềm thức
được tự do trở nên ưu thế và "tái diễn" những
tư tưởng tàng trữ. Những giấc mộng này có thể có giá
trị về phần tâm nhưng không thể xếp vào loại tiên đoán.
Chúng chỉ là sự phản chiếu của tâm ý đang nghỉ ngơi.
II.
Loại mộng thứ hai cũng vô nghĩa. Loại mộng này do nguyên nhân
bởi sự kích thích trong và ngoài làm thành một chuỗi tư tưởng
thuộc thị giác nhìn thấy bởi tâm ý lúc nghỉ ngơi. Những
yếu tố bên trong nhiễu loạn cơ thể (như ăn quá no khiến
ngủ không ngon hoặc mất thăng bằng và sự va chạm giữa các
thành phần cấu tạo thành cơ thể). Kích khích bên ngoài là
khi tâm ý bị xáo trộn (mặc dù người ngủ không ý thức gì
cả) do hiện tượng thiên nhiên như thời tiết, gió, lạnh, mưa,
tiếng xào xạc của lá cây, tiếng lộp độp trên cửa sổ vân
vân...Tiềm thức phản ứng với những sự náo động ấy,
tạo thành những bức ảnh để giải thích ngay chúng. Tâm ý
điều tiết sự bực bội trong một cách có vẻ hữu lý nên
người nằm mộng vẫn tiếp tục ngủ không bị quấy rầy.
Những giấc mộng này không quan trọng nên không cần có sự
giải thích.
III.
Rồi đến các loại mộng có tính cách tiên đoán. Những
loại này quan trọng. Loại mộng này ít có và chỉ khi có
một sự kiện sắp xẩy đến rất đáng kể với người
nằm mộng. Phật Giáo dạy rằng ngoài thế giới hữu hình mà
ta có thể kinh nghiệm thấy, có các chư thiên hiện hữu ở
một cõi khác hoặc một số quỷ thần hướng về trái đất
và ta không nhìn thấy họ được. Họ cũng có thể là thân
nhân hay bạn bè của chúng ta đã quá cố và đã tái sanh.
Họ vẫn duy trì mối liên hệ tinh thần trước đây, và
quyến luyến với chúng ta. Khi người Phật Tử hồi hướng công
đức đến chư thiên và các người quá vãng, người Phật
Tử tưởng nhớ chư thiên và các thân nhân đã khuất và
mời họ chia sẻ niềm vui tích lữy công đức. Đối lại, chư
thiên hoan hỉ và theo dõi chúng ta và chỉ cho ta điều gì đó
trong mộng khi chúng ta phải đối đầu với các khó khăn
lớn và các chư thiên che chở chúng ta khỏi bị tổn hại.
Cho nên, khi có một
việc gì quan trọng sắp sẩy ra trong đời sống của chúng
ta, các chư thiên hoạt hóa một số năng lượng tinh thần
trong tâm ý, thể hiện cho ta thấy trong giấc mộng. Những
giấc mộng này có thể báo trước sự nguy hiểm sắp sẩy
tới hoặc cả đến sửa soạn cho chúng ta trước những tin
quá vui bất thần. Những thông điệp này được đưa ra trong
thuật ngữ tượng trưng (giống như âm bản của bức ảnh
chụp) và phải được giải thích khéo léo và với trí thông
minh. Bất hạnh có rất nhiều người lẫn lộn loại mộng này
với hai loại đầu, cuối cùng đã uổng phí thì giờ và
tiền bạc để tin coi các đồng cốt và những kẻ đoán
mộng giả mạo. Đức phật nhận thức rằng việc này có
thể bị khai thác để đạt lợi dưỡng riêng tư, nên Ngài
đã khuyến cáo các thầy tu chống lại các bói toán, chiêm
tinh và đoán mộng dưới danh nghĩa Phật Giáo.
IV.
Cuối cùng, tâm của chúng ta là nơi dung chứa tất cả
nghiệp lực tích lữy trong quá khứ. Đôi khi, lúc nghiệp chín
muồi, (đó là, khi hành động mà chúng ta làm trong kiếp trước
hay trong giai đoạn đầu của cuộc đời, sắp lãnh quả) tâm
ý đang trong lúc nghỉ ngơi có thể gây ra hình ảnh điều
sắp xẩy ra. Lại nữa, hành động sắp xẩy ra là một hành
động hết sức quan trọng và phải nhồi thật mạnh đến
nỗi tâm "toát" ra năng lực phụ trội dưới hình
thức một giấc mơ như thật. Những giấc mộng này rất ít
khi xẩy ra, chỉ riêng một số người với một loại tinh
thần đặc biệt mới có được. Dấu hiệu của hiệu quả
một số nghiệp cũng hiện ra trong tâm chúng ta vào những
chập tư tưởng cuối cùng khi chúng ta sắp từ giã thế
giới này.
Những giấc mộng có
thể xẩy ra khi hai người còn sống gửi cho nhau thông điệp
bằng thần giao cách cảm. Khi một người khao khát mạnh mẽ
muốn truyền đạt với một người khác, người đó tập
trung (tư tưởng) vào thông điệp và người mà mình muốn
truyền đạt. Khi tâm ý ở trong trạng thái nghỉ ngơi, đó là
lúc ở trong một trạng thái lý tưởng để nhận những thông
điệp được nhìn thấy như giấc mộng. Thường thường
những giấc mộng này chỉ xuất hiện trong lúc cường độ
mạnh vì tâm con người không đủ mạnh để nhận được
những thông điệp trong một thời gian dài.
Những người trần đều
là những kẻ nằm mơ, và họ thấy là thường còn cái gì
thực sự là vô thường. Họ không nhìn thấy trẻ rồi cũng
cuối cùng đi đến già, đẹp rồi cũng xấu, khỏe rồi cũng
bệnh, và chính đời sống cũng chấm dứt với cái chết.
Trong cõi trần mộng ảo này, cái thật sự chẳng có thực
chất lại được nhìn thấy như thực thể. Chỉ những ai
tỉnh thức như các Đức Phật và A La Hán mới nhìn thấy
được thực thể.
Các Đức Phật và A
La Hán không bao giờ nằm mộng. Ba loại mộng đầu không bao
giờ xuất hiện trong tâm các Ngài, vì tâm các Ngài bao giờ cũng
"tĩnh lặng", và không thể bị các giấc mộng hoạt
hóa. Loại mộng sau chót cũng không thể xuất hiện với các
Ngài vì các Ngài đã nhổ hết năng lực tham dục, và không còn
"mảy may" năng lực lo âu hay khát vọng bất toại
nguyện để hoạt hóa tâm phát sanh mộng mị. Đức Phật cũng
được gọi là Đấng Tỉnh Thức vì cách Ngài cho cơ thể
nghỉ ngơi không phải là cách mà chúng ta ngủ để rồi
mộng mị.
Những nghệ sĩ và và
các nhà tư tưởng vĩ đại như Goethe, người Đức, thường
được nói đến là có cảm hứng tốt nhất do các giấc
mộng. Điều này có thể là đúng vì khi tâm ý họ tách hẳn
năm giác quan lúc ngủ, những tư tưởng trong sáng phát xuất,
những tư tưởng này sáng tạo đến mức độ cao nhất.
Wordsworth cũng giải thích như vậy khi ông nói những vần thơ
hay là do kết quả từ "những cảm xúc mạnh mẽ được
nhớ ra trong tĩnh lặng'.
CHỮA
BỆNH BẰNG ĐỨC TIN
Chữa bệnh bằng đức tin - một phương pháp
tâm lý.
Cách trị bệnh bằng
đức tin được phổ biến tại nhiều quốc gia. Nhiều người
cố gắng gây ảnh hưởng trong công chúng bằng sự thu phục
tình cảm gọi là chữa bệnh bằng đức tin. Để gây ấn tượng
với bệnh nhân về hiệu quả của sự trị liệu bằng thần
thông, một số lang y dùng danh nghĩa một vị thần hoặc một
đối tượng tôn giáo để giới thiệu hương vị của tôn giáo
vào phương pháp trị liệu bằng đức tin của họ. Sự dẫn
nhập tôn giáo vào cách trị liệu này hiện nay là chiêu bài
hay một cái bẫy để lừa dối bệnh nhân vào việc khai
triển tâm thành tín và đề cao lòng tin tưởng của người
bệnh hơn nữa vào lang y trị bệnh bằng đức tin. Thi hành cách
chữa trị này trong quần chúng có dụng ý quy nạp họ vào
một loại tôn giáo đặc biệt nào đó.
Cho đến bây giờ,
sự kiện thực tế liên quan đến việc trị liệu bằng đức
tin, yếu tố tôn giáo không quan trọng đến như thế. Có
rất nhiều trường hợp các lang y thi triển cách điều trị
bằng đức tin không dùng đến danh nghĩa tôn giáo. Một trường
hợp đáng kể là khoa thôi miên, áp dụng thuật thôi miên không
cần xen vào khía cạnh nào của tôn giáo cả. Những kẻ liên
kết tôn giáo với thuật dùng đức tin để chữa bệnh muốn
dùng một hình thức tinh vi tạo ảo tưởng hấp dẫn mong quy
nạp người vào tôn giáo của họ bằng cách sử dụng cách
trị liệu này, và mô tả các trường hợp được chữa lành
như do phép lạ.
Người dùng đức tin
để trị bệnh áp dụng các phương pháp về điều kiện hóa
tâm ý bệnh nhân vào một thái độ tinh thần đem đến kết
quả vài thay đổi tâm lý và sinh lý thuận lợi sẽ diễn ra.
Việc này ảnh hưởng được điều kiện của tâm thần, tim
mạch, lưu thông máu huyết và nhiều chức năng của cơ quan
khác; do đó tạo ra được một cảm giác mạnh khỏe. Nếu
ốm đau mà do điều kiện của tâm trí, thì chính tâm trí
chắc chắn có thể tạo điều kiện thích hợp để trợ
lực diệt trừ bất cứ bệnh não nào có thể xẩy ra.
Trong phạm vi này, điều
cần ghi nhớ là sự tu tập thiền định kiên trì và đều đặn
có thể giúp giảm thiểu nhiều hình thức của ốm đau nếu
không trừ tiệt được chúng. Có nhiều bài pháp trong Giáo Lý
của Đức Phật cho thấy nhiều loại bệnh được diệt trừ
do điều kiện của tâm. Do đó đáng cho ta cố gắng tu tập
thiền định để thân tâm được an lạc.
MÊ TÍN VÀ GIÁO ĐIỀU
Người ta hay
"diễu cợt dị đoan của người khác trong khi lại yêu
dấu mê tín của mình."
Ốm đau bệnh tật có
thể chữa khỏi nhưng dị đoan không thể chữa khỏi. Và
nếu vì lý do này hay lý do khác, bất cứ một dị đoan nào
đã kết tinh vào một tôn giáo, thì dị đoan đó rất dễ dàng
trở thành một căn bệnh hầu như bất trị. Trong khi thi hành
chức năng tôn giáo, một số người, ngay cả đến những người
có giáo dục hiện đại, đã quên mất nhân phẩm mà đi
chấp nhận những hình thức mê tín lố bịch nhất.
Các loại tín ngưỡng
và nghi lễ có tính dị đoan được áp dụng để trang trí
một tôn giáo hầu lôi cuốn quần chúng. Nhưng đôi khi cây
leo trồng lên để tô điểm điện thờ lại mọc quá lớn
che khuất cả điện thờ đi đến kết quả là giáo lý của
tôn giáo đã bị loại bỏ nhường chỗ cho tín ngưỡng và
nghi lễ dị đoan trở thành ưu thế - cây leo làm lu mờ điện
thờ.
Cũng giống như dị đoan,
niềm tin giáo điều cũng làm tắc nghẽn sức phát triển
của tôn giáo. Niềm tin giáo điều luôn luôn đi đôi với
sự cố chấp. Ta cũng nhớ lại thời đại Trung Cổ với
những tòa án dị giáo, những vụ tàn sát tàn bạo, bạo động,
lăng nhục, cực hình và những vụ thiêu sống người vô
tội hết sức tàn nhẫn. Ta cũng nhớ đoàn quân viễn chinh
thập tự giá dã man tàn bạo.
Tất cả những biến
cố ấy đều bị khích động bởi niềm tin giáo điều trong
quyền năng tôn giáo và đi đến kết quả bất khoan dung.
Trước kia khi kiến
thức khoa học chưa phát triển, người ngu muội có nhiều
niềm tin dị đoan. Chẳng hạn rất nhiều người tin rằng
nhật thực hay nguyệt thực mang điềm xấu và bệnh dịch. Ngày
nay chúng ta biết những cách tin như vậy không đúng. Vài nhà
tôn giáo thiếu lương tâm khuyến khích người dân tin vào
dị đoan để họ có thể sử dụng các tín đồ cho lợi ích
riêng của mình. Khi thực sự thanh lọc được hết tâm vô
minh, ta sẽ nhìn thấy vũ trụ đúng bản chất của nó và
sẽ không còn khổ đau bởi dị đoan và giáo điều. Đó là
sự cứu độ mà người Phật Tử mong muốn.
Quả là hết sức khó
khăn để loại trừ được cảm xúc gắn bó với mê tín hay
giáo điều. Ngay cả đến ánh sáng của kiến thức khoa học
cũng không đủ mạnh khiến cho chúng ta xa lìa được những
quan niệm sai lầm. Chẳng hạn, chúng ta đã có kiến thức
từ bao nhiêu thế hệ qua là trái đất chuyển động chung
quanh mặt trời; nhưng trên kinh nghiệm chúng ta vẫn thấy
mặt trời mọc, di chuyển qua bầu trời, và lặn vào buổi
chiều. Chúng ta cần phải có có một bước nhẩy vọt của
trí thức mới tưởng tượng được là thật ra chúng ta đang
chuyển động mạnh với một tốc độ phi thường chung quanh
mặt trời.
Chúng ta phải hiểu là
những nguy hiểm của tín điều và dị đoan đi tay trong tay
với tôn giáo. Đây là lúc những người trí nên tách rời tôn
giáo khỏi tín điều và dị đoan. Nếu không, danh nghĩa đẹp
đẽ của tôn giáo sẽ bị hoen ố, và làm gia tăng số người
không đức tin như chúng ta đã từng thấy.
- HẾT -
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002
|