|
Phật giáo không phải là
một tôn giáo có tính chính trị, cho nên
Phật giáo đồ cũng không có tham vọng
chính trị.
Thế nhưng, nguyên tắc của
chính trị là xử lý công việc của số
đông người. Phật giáo đồ là một
nhóm, một tập thể trong số đông
người đó, cho nên cũng không thể sinh
hoạt tách rời khỏi chính trị được.
Nên chia chính trị thành chính
quyền và trị quyền. Chính quyền
thuộc về nhân dân, trị quyền thuộc về
chính phủ. Phật giáo đồ, ít nhất cũng
có các quyền lợi của chính quyền, như
các quyền tuyển cử, bãi miễn, sáng
chế (pháp luật), phúc quyết, Phật giáo
đồ phải được tham gia các quyền lợi
đó. Chủ trương của đại sư Thái Hư
ở thời cận đại "vấn chính bất
can chính" là đáng được chú ý (1).
_________________
(1) Ý nghĩa là tham vấn
chính trị, nhưng không can dự chính trị.
Tăng Ni có trách nhiệm tu
hành, hoằng hóa, vì vậy không nên
trực tiếp tham gia nắm và chấp hành
chính quyền. Còn nếu chính quyền yêu
cầu tham gia ý kiến về các vấn đề có
tầm quan trọng thiết thân, thì nên tham
gia ý kiến. Căn cứ nguyên tắc đó,
Tăng Ni nên tham gia các công việc như
bầu cử, ứng cử nghị sĩ, để có thể
lấy ý kiến của Phật giáo đồ cống
hiến cho sự nghiệp dựng nước; nếu
không thì quyền lợi của Phật giáo đồ
có thể bị người khác bỏ rơi. Khì
đức Phật Thích Ca còn tại thế, Ngài
thường giúp cho quốc vương đại thần
nhiều ý kiến quý báu. Đương nhiên,
đối với những người xuất gia, tha
thiết cầu giải thoát sinh tử và 3
giới thì có thể xả bỏ mọi quyền
lợi chính trị. Tuy vậy, trong xã hội từ
nay về sau, dù là ở ẩn trong rừng
sâu, cũng khó mà tách hẳn khỏi mọi
sinh hoạt chính trị.
Còn Phật tử tại gia thì
đương nhiên phải tham gia các công tác
quân sự, chính trị. Một người Phật
tử tại gia có lý tưởng, có nhiệt
tình, có tinh thần trách nhiệm, phải
phục vụ hết sức mình cho nhân dân
quần chúng, trên mọi từng lớp và ở
mọi phương diện.
Theo giới luật nhà Phật,
Tăng Ni có thể thuyết pháp cho quân
nhận nghe.
Theo bản chất của Phật
giáo mà nói, dựa vào lịch sử Phật
giáo mà nói thì Phật giáo là tôn
giáo yêu chuộng hòa bình nhất.
Phật giáo chủ trương
thuyết từ bi. Từ là đem lại cái vui
cho mọi người, mọi chúng sinh. Bi là
cứu khổ cho mọi người, mọi chúng sinh.
Trong thực tiễn của thuyết từ bi thì
không thấy có người nào đáng giận
đáng ghét, mà chỉ có người đáng
thương, đáng yêu. Vì vậy, Phật tử xem
chiến tranh là chuyện tàn nhẫn hết
sức. Phật tử thà hy sinh, cống hiến
sinh mạng của mình để cảm hóa kẻ
cường bạo, giành lấy hòa bình, còn
hơn là chấp nhận chiến tranh. Trong lịch
sử, Phật giáo đã từng bị bức hại
bởi tôn giáo khác hay là bạo quyền
chính trị, nhưng Phật tử hoặc là ung dung
chết vì đạo, chứ không dùng bạo lực
chống đối lại. Trong thời Phật Thích Ca,
vua Lưu Ly vương nước Xá Vệ đem quân
tiêu diệt giòng họ Thích Ca. Người trị
vì xứ Ca Tỳ La Vệ lúc bấy giờ là em
của Phật Thích Ca, tên là Ma A Nam, vốn
là một Phật tử thuần thành. Về mặt
quân sự mà nói, lực lượng võ trang
của Ca Tỳ La Vệ có thể chống lại thậm
chí đẩy lùi quân đội của Lưu Ly
vương. Nhưng họ không muốn đổ máu, họ
mở cửa thành đầu hàng. Nhưng Lưu Ly
Vương vì sự đầu hàng ấy mà tha chết
cho dòng họ Thích Ca. Trong tình hình đó,
Ma A Nam yêu cầu Lưu Ly Vương cho phép ông
trẫm mình dưới nước. Trong thời gian
trẫm mình, thi thể chưa nổi lên thì
những người thuộc dòng họ Thích Ca có
thể bỏ trốn, quân của Lưu Ly Vương
không được bắt giết họ. Chỉ sau khi thi
thể ông nổi lên, mới bắt giết họ,
Lưu Ly Vương đồng ý. Nhưng sau khi Ma A Nam
nhảy xuống nước thì người ta chờ
mãi mãi rất lâu không thấy thi thể
nổi lên. Còn những người dòng họ
Thích Ca thì trốn sạch hết. Về sau, Lưu Ly
Vương cho người nhảy xuống nước mò
tìm thấy Ma A Nam đã cột tóc mình vào
rễ cây dưới nước, khiến cho thi thể
không nổi lên được. Như vậy, để
tránh chiến tranh đổ máu, dòng họ Thích
Ca đã đầu hàng và để cứu dòng họ
Thích Ca khỏi bị diệt vong, Ma A Nam đã
chịu hy sinh mạng sống của mình. Việc
này, khiến cho Lưu Ly Vương cảm động, ra
lệnh đình chỉ việc tàn sát dòng họ
Thích Ca (Tăng Nhất A Hàm, cuốn 26, Đẳng
Kiến phẩm).
Câu chuyện kể trên có
thể minh họa Phật giáo thật sự là
tôn giáo hòa bình.
Tuy nhiên, trong kinh Phật,
cũng từng có sự tích thần Kim Cương
nổi giận, hủy diệt bọn quỷ quái tà
ma. Nhưng sự tích này chỉ có giá trị
biểu trưng sức mạnh tinh thần của công
phu tu hành, không phải là chuyện thực
tế.
Thế nhưng, hành động của
các vị Bồ Tát có thể linh hoạt, dựa
vào căn tính khác nhau của chúng sinh và
yêu cầu khác nhau của hoàn cảnh thời
thế. Ví dụ trong kinh Hoa Nghiêm Ngài
Thiện Tài Đồng Tử trong 53 lần tham
vấn, cũng gặp vị Bồ Tát tham gia chiến
tranh, thực hành những hình phạt khốc
liệt v.v
Trong 33 hóa thân của Bồ
Tát Quan Thế Âm, có hóa thân làm đại
tướng quân. Trong giới bổn Du già Bồ
Tát có nói : nếu có trường hợp gặp
bọn gian ác vì tham tiền của mà giết
hại nhiều người hay giết các bậc đã
chứng quả Thánh Đại hay Tiểu thừa,
và để tránh cho bọn này khỏi đọa
địa ngục vô gián vì tội giết người
như vậy, vị Bồ Tát có thể ra tay giết
bọn này trước, thà để một mình mình
đọa địa ngục còn hơn. Phật giáo chấp
nhận những trường hợp giết người
như vậy, xuất phát từ tình thương
người, chứ không xuất phát từ lòng
giận, lòng tham.
Đó là một vấn đề tranh
luận trong Nho gia Trung Quốc : Mạnh Tử
nói bản tính người là thiện, Tuân
tử nói bản tính người là ác. Dương
Hùng chủ trương bản tính người là
thiện, ác lẫn lộn. Công Tôn Tử chủ
trương tính người không phải thiện
không phải ác.
Vậy thì, nói cho cùng, chủ
thuyết nào tương đối đúng ? Người
đời sau, nói chung, đều thiên về chủ
thuyết của Mạnh Tử, vì Khổng Mạnh là
Nho gia chính thống.
Do đó, cũng có thể nói
Phật giáo cũng chủ trương bản tính
người là thiện. Vì Phật nói
"chúng sinh đều có đầy đủ đức
tướng và trí tuệ của Như Lai. Tất cả
chúng sinh đều có Phật tính". Đó
là căn cứ của chủ trương bản tính
người là thiện của Phật giáo.
Trên thực tế, có thể
nói Phật giáo, về bản chất không
thuộc về tính thiện luận và tính ác
luận.
Chúng sinh đều có Phật
tính. Đấy là tính thiện luận. Nhưng từ
thời vô thủy đến nay, vì bị vô minh che
lấp, nên chưa thành Phật được, đó
là tính ác luận. Vì rằng, người chủ
trương tính thiện luận có thể nhờ
phóng ác mà trở nên thiện. Người
chủ trương tính ác luận có thể đoạn
trừ ác mà trở nên thiện. Quan điểm
có khác nhau nhưng cùng nhằm vào một
mục đích. Vì vậy Phật giáo có thể quay
bên trái, bên phải đều được, vì
đều cùng một nguồn tất cả. Nếu
đứng về căn bản mà nói, Nho gia nói
người bản tính là ác hay là thiện,
đều chỉ hạn chế nhìn bản tính của
người trong một đời, từ khi con
người mới chào đời bằng tiếng khóc
oe oe. Họ không thể cứu xét được
hành vi, tức là nghiệp của con người
đó trong đời sống quá khứ, cũng
không thể cứu xét được hành vi
thiện ác của con người đó trong đời
sống vị lai. Mạnh Tử vì thiên trọng lý
tính, cho nên chủ trương bản tính người
là thiện. Tuân tử coi trọng sự chuyển
biến của vật tính, cho nên nói bản tính
người là ác. Thật ra, cả hai đều chỉ
thấy một bên; thấy bên này mà không
thấy bên kia. Về điểm này mà nói,
Phật giáo không phải là tính thiện
luận, cũng không phải là tính ác luận.
Vì Phật giáo xem xét chúng sinh là từ
thời vô thủy đến nay, cho đến khi đạt
mục đích tối hậu là thành Phật. Còn
đối với con người trong một đời
sống hiện tại, thì khó luận đoán là
thiện hay ác, vì có Phật tính là thiện,
lại có vô minh là ác. Khi có Phật
tính, đã có vô minh rồi. Trong sinh tử
là vô minh, thoát khỏi sinh tử là Phật
tính. Vật tính thì xuất phát từ vô
minh, Lý tính thì nẩy mầm từ Phật tính.
Đấy là một chủ thể, nhưng có 2 mặt.
Do đó, nói bản tính người là thiện,
cố nhiên là không đúng, nhưng nói là
ác, lại cũng không đúng. Nếu xem xét
con người trong một đời thì khi mới
lọt lòng mẹ, đã có thiện có ác
rồi; nếu hướng về thiện là thiện,
nếu hướng về ác là ác (chú 10).
Nếu vậy thì phải chăng
Phật giáo, giống như thuyết của Dương
Hùng chủ trương thiện ác lẫn lộn.
Cũng không phải. Phật giáo chủ trương
vô minh phiền não có thể dần dần bị
hàng phục và đoạn trừ. Khi đoạn hết
vô minh thì Phật tính sẽ hiển lộ đầy
đủ. Đó gọi là đoạn phiền não,
chứng Bồ Đề, liễu sinh tử, nhập Niết
Bàn. Ở cương vị phàm phu trong vòng sinh
tử, phiền não là ác, Phật tính là
thiện; Một khi đã chứng đạo Bồ Đề,
đã nhập Niết Bàn thì căn bản, không
thể nói có ác và thiện; vấn đề
thiện ác là quan niệm thuộc pháp thế
gian; còn trong pháp cứu thế, không có
thiện và ác. Thiện khác với ác; có
thiện thì tất phải có ác; vì vậy, mục
đích của Phật giáo là đã không nói
ác, cũng không nói thiện. Thực ra, vấn
đề thiện ác ở trong thế gian cũng
không có giá trị tuyệt đối. Thí dụ,
thuốc độc có thể giết chết người
nhưng cũng có thể cứu sống người.
Thuốc hay có thể cứu sống người,
cũng có thể giết chết người. Vì vậy,
Phật và Bồ Tát là bậc Thánh, đối
với bản thân các Ngài, đã không thể
nói thiện hay ác, mà các Ngài quan hệ
với chúng sinh, cũng giữ tâm bình
đẳng, không phân biệt thiện, ác. Có
như vậy, mới độ khắp chúng sinh
được. Thiện ác bất quá là do chúng
sinh ngã chấp mà có; Thế nhưng, chủ
thuyết Phật giáo khác với thuyết của
Công Tôn Tử cho rằng không có thiện,
ác. Bởi vì, ở cương vị phàm phu trong
thế gian thì phải phân biệt có thiện,
có ác. Chỉ sau khi xuất thế, mới nói
không có thiện, không có ác.
Chính vì quan niệm thiện ác
của Phật giáo không có tính chất vĩnh
hằng, cần phải xóa bỏ, cho nên nếu
miễn cưỡng đặt tên cho chủ thuyết
Phật giáo thì có thể nói đó là
thiện ác giải thoát luận.
Đây là một vấn đề
không thể né tránh được. Vì rằng,
Phật Pháp tuy chỉ có một vị, nhưng do
trình độ căn cơ của người tiếp thu cao
thấp khác nhau, thời đại và hoàn cảnh
sống cũng không đồng nhất, cho nên có
sự giải thích khác nhau về Phật Pháp.
Trong Kinh có câu : "Phật dùng một
viên âm để thuyết pháp, chúng sinh tùy
loại mà hiểu lời Phật giảng. Ý tứ
là : nếu đứng ở lập trường của
Phật mà xét thì Pháp môn nào cũng
dẫn tới Niết Bàn. Nhưng đứng ở góc
độ các đệ tử Phật mà nói thì mỗi
người đều có pháp môn sở trường
của mình. Như 13 vị đệ tử nổi danh của
Phật, mọi người đều có tính cách
đặc thù nổi bật riêng, đều có bạn
đạo riêng của mình [Tạp A Hàm 16 tr.
447]. Đây có thể nói là dấu hiệu
sớm sủa nhất của phân tông, phân
phái trong Phật giáo.
Trong thời gian - 500 năm sau
khi đức Phật nhập Niết Bàn, chỉ riêng
ở Ấn Độ, Phật giáo Tiểu thừa đã
chia thành 20 bộ phái. Đôi khi chỉ vì
một điểm bất đồng rất nhỏ, cũng
tách thành một bộ phái riêng, Phật
giáo Tiểu thừa, chia thành nhiều bộ
phái, cho nên không có được chuẩn
mức thống nhất do sự nghiệp giáo hóa
của mình. Phật giáo Đại thừa Không
Tông của Mã Minh và Long Thụ cũng nhân
cơ hội này mà hưng khởi ở Ấn Độ.
Vào khoảng 1000 năm sau khi
Phật Niết Bàn, Duy Thức Hữu Tông của
Vô Trước, Thế Thân, Thanh Biện, Hộ
Pháp được thành lập. Từ đó, Phật
giáo Đại thừa ở Ấn Độ chia thành
Không, Hữu hai tông. Sau đó ít lâu,
Mật giáo lại hưng khởi, đem Phật giáo
Đại thừa chia thành Hiển giáo và Mật
giáo, đem Không tông và Hữu tông nhập
vào Hiển giáo.
Sau khi Phật giáo truyền vào
Trung Quốc, lúc đầu cũng không chia
thành tôn phái. Về sau, do sự nghiệp
phiên dịch dần dần thịnh vượng, số kinh
Phật được dịch ra chữ Hán rất nhiều,
và cũng do các nhà Phật học Trung Quốc
tiến hành phân loại và tôn phái đối
với Phật Pháp, cho nên mới có tông
phái xuất hiện ở Trung Quốc. Nhưng tông
phái Phật giáo được thành lập đầu
tiên ở Trung Quốc là Tam luận tông và
Tứ luận tông dựa vào các bản dịch
của Cưu Ma La Thập đời Đông Tấn. Đó
là những tông phái hưởng ứng với
Đại thừa Không tông ở Ấn Độ. Nhưng
tông phái này, đến thời đại sư Gia
Tường mới được thành lập hoàn
chỉnh. Đồng thời, dựa vào bộ luận
"Thành Thực" của Tiểu thừa mà
lập ra "Thành Thực tông", dựa
vào bộ luận "Câu Xá" thuộc
Hữu Bộ mà lập ra "Câu Xá
Tông". Dựa vào Niết Bàn mà lập
"Niết Bàn tông". Dựa vào bộ
"Nhiếp Đại thừa luận" mà có
"Nhiếp Luận tông". Từ khi ngài
Đại Ma từ Ấn Độ đến, truyền tâm
ấn của Phật, mà có Thiền tông, Đời
Đường, có Đạo Tuyên chuyên môn
truyền bá bộ "Luật tứ phần"
mà thành lập Luật tông ở Nam Sơn.
Với nội dung bộ Kinh Pháp Hoa được
tổng hợp và triển khai mà có Thiên
Thai Tông với Đại sư Trí Khải. Với
pháp sư Huyền Trang đi cầu pháp ở Ấn
Độ về, giới thiệu các bộ "Duy
Thức luận" mà Pháp tướng tông
được thành lập. Với nội dung bộ Kinh
Hoa Nghiêm được tổng hợp và triển
khai, Hoa Nghiêm tông được thành lập
với đại sư Hiền Thủ. Với đại sư
Tuệ Viễn tổ chức "Bạch Liên Đạo
pháp môn niệm Phật", Tịnh Độ tông
được thành lập. Sau đó có 3 cao tăng
Mật giáo được đứng đầu là Thiện
Vô Úy, dân Trung Quốc vào năm Nguyên
niên đời nhà Đường. Các vị này
dịch nhiều bộ kinh mật giáo mà thành
lập nên Mật tông ở Trung Hoa.
Tổng cộng lại, Trung Quốc
có 13 tông phái. Trong số này có 2 tông
Câu Xá và Thành Thực là thuộc về
Tiểu thừa; dư còn lại đều thuộc về
Đại thừa Phật giáo.
Về sau, do quan hệ ảnh
hưởng lẫn nhau, hoặc mâu thuẫn hoặc
hòa hợp, mà từ 13 tông ban đầu, thu
lại chỉ còn 10 tông phái : Niết Bàn
tông nhập vào Thiên Thai tông; Địa Luận
tông nhập vào Hoa Nghiêm tông; Nhiếp
Luận tông nhập vào Pháp Tướng tông;
Biểu đồ sau đây liệt kê các tông phái, và nêu mối quan hệ giữa chúng với hai bộ phái lớn Không Tông và Hữu Tông.
Qua sự giới thiệu của
tông phái như trên, Phật giáo Trung Quốc
nhìn chung mà nói là hưng thịnh. Nhưng
từ cuối nhà Đường trở đi, Tiểu
thừa không còn được coi trọng. Tam
Luận và Duy Thức đã không còn người
nghiên cứu. Mật tông xuất hiện ở
Trung Quốc như Hoa ưu đàm. Sau pháp nạn
Đường Võ Tông, niên hiệu Hội Xương
thứ 5, Mật tông chuyển từ Trung Quốc
sang Nhật, không còn có dấu vết tại
Trung Quốc nữa. Hoàn cảnh địa lý và
bối cảnh xã hội Trung Quốc khiến không
thể giữ gìn giới luật một cách thật
nghiêm túc được, vì vậy mà Luật
tông, không khác gì người thở thoi
thóp, còn cũng như mất. Thịnh nhất chỉ
có Thiền tông. Sau Lục Tổ Huệ Năng,
Thiền tông chia làm 5 phái. Trong 2 phái
này thì phái Lâm Tế và phái Tào
Động phát triển hơn cả. Tất cả Tăng
Ni Trung Quốc hiện nay, hầu hết thuộc 2
phái này. Về mặt hiển dương giáo lý
thì chỉ có hai tông Thiên Thai và Hoa
Nghiêm hoạt động cầm chừng. Đến hai
thời đại Tống và Minh, có một số cao
tăng chủ trương kết hợp Thiền và Tịnh
cùng tu, như Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ (Từ
năm thứ hai Đường Ai Đế đến Tống
Thái Tổ nguyên niên), vì vậy mà Phật
giáo Trung Quốc cận đại, ngoài Thiền
và Tịnh Độ ra, không còn có gì khác
nữa (chú 11).
Từ cuối nhà Thanh đến
những năm đầu Dân quốc, do có nhiều
kinh sách Phật được đưa từ Nhật Bản
trở về Trung Quốc, cho nên có hiện
tượng các tông Tam Luận, Duy Thức,
Luật, Mật v.v
hồi sinh trở lại ở
Trung Quốc. Đáng tiếc là, hàng mấy
trăm năm lại đây ở Trung Quốc không
có giáo dục và bồi dưỡng nhân tài
có hệ thống. Việc Phật giáo Trung Quốc
có tiếp tục được vận may hưng thịnh
lại hay không, là còn chờ đợi ở
nỗ lực chung của chúng ta.
Ngoài Trung Quốc ra, Phật
giáo ta, các vùng khác trên thế giới,
cũng có nhiều tông phái : như Phật
giáo Nam truyền ở Thái Lan chia thành
Đại tông phái và Pháp tông phái. Mật
giáo Tây Tạng chia thành Hoàng giáo,
Hồng giáo, Bạch giáo, Hắc giáo. Phật
giáo Nhật Bản cũng giống như Phật giáo
Trung Hoa, nhưng có Tịnh độ chân tông và
Nhật liên tông là đặc sắc. Hòa
thượng Ấn Thuận, gần đây có bình
giá đạo Phật Nhật Bản như sau :
"Phật giáo kiểu Nhật
Bản không phải là gia đình được Phật
giáo hóa, mà là Phật giáo bị gia đình
hóa; không phải là Phật giáo tại gia,
mà là Phật giáo xuất gia bị biến chất
[Hải Triều Âm], quyển 34, số tháng 7
bài "Phương châm xây dựng Phật
giáo tại gia". Đó chính là đặc
sắc của Phật giáo Nhật Bản.
Cuối cùng, tôi xin nói
thêm một câu : Sự phân tông, phân
phái trong Phật giáo chỉ là một vấn
đề chi tiết phân loại, không phải là
sự thay đổi trong tư tưởng cơ bản.
Chính vì vậy, trong tương lai không xa, một
nền Phật giáo thống nhất sẽ xuất hiện
trên thế giới này.
Không phải. Duy thức luận
tuy xem tinh thần là chủ thể, nhưng không
phủ định vật chất, cũng không phủ
định hiện tượng khách quan. Còn nếu
phải phủ định, thì sẽ phủ định đến
chỗ "không" triệt để. Ngay cả
thức cũng không còn, thì làm sao nói
duy thức được.
Kỳ thực, nếu bàn tới duy
tâm luận trong triết học, và nếu loại
trừ duy vật luận ra thì hầu hết các
triết phái còn lại đều thuộc duy tâm
luận. Như Ba con, Locke, Hume
v.v
đều thuộc chủ quan duy tâm luận
[Bồi căn, Lạc Khắc, Humô v.v
] Hegel
(Hách Cách Nhĩ) là duy tâm luận khách
quan, Kant (Khang Đức) là duy tâm luận ý
chí. Thiềm mẫu sĩ là duy tâm luận
kinh nghiệm. Béc kơ nây (Berkeley - Bách
cách lâm) là duy tâm luận trực giác.
La Tố là duy tâm luận hoài nghi (Sự
phân loại đối với duy tâm luận như
trên dựa vào bài "Pháp tướng duy
thức học Khái luận" của đại sư
Thái Hư).
Nói chung lại, bất kể là
loại duy tâm luận nào các triết gia
đều đưa ra một tiêu chí làm cơ sở
lập luận của họ, và với cơ sở đó,
họ khó tránh khỏi sai lầm lấy cục bộ
hay bộ phận làm toàn diện hay toàn bộ.
Thuyết duy tâm luận hoài nghi có quan
điểm tương đối "thoáng" hơn,
nhưng nó không thể vạch ra được con
đường quy kết cứu kính, cho nên cũng
không tránh làm cho người ta bàng hoàng
phân vân.
Còn duy thức luận Phật
giáo thì thế nào ? Tuy nói "3 giới
là duy thức" vạn sự vạn vật trong
ba giới đều là biến tướng của thức
thứ tám, đều là tướng phần, là
hiện hành của thức thứ tám, nhưng
không phủ định sự tồn tại của chúng
sinh ở bên ngoài tự ngã chúng ta. Nói
ba giới là duy thức là nói mọi hiện
tượng trong ba giới đều do thức thứ
tám của chúng sinh trong ba giới tập thể
biến hiện ra, tức là biến tướng của
cộng nghiệp của chúng sinh trong ba giới.
Thức thứ tám không
những chỉ cho tâm thức hiện tại, mà
còn chỉ cho tâm thức bị nghiệp huân
tập từ thời vô thỉ đến nay, vì vậy
mà cũng gọi là nghiệp thức. Hiện
hành của nghiệp thức chính là tướng
phần của thức thứ tám, là hiện
tượng ba giới, là thế giới trong đó
chúng ta đang cư trú. Thế giới của
chúng ta về vật chất là do thức thứ
tám của chúng sinh cùng loại biểu hiện
ra. Các chúng sinh hỗ tương duyên vào
nhau, tức là cũng do thức thứ tám
của chúng sinh cùng một loại biểu hiện
ra.
Vũ trụ quan của duy thức
luận được gọi là "A lại gia duyên
khởi" A lại gia thức là dịch âm
từ chữ Phạn của Thức thứ tám : A
lại gia thức có nghĩa là Tạng thức,
nó chấp chứa, tàng trữ tất cả mọi
hạt giống của Nghiệp. Khi hạt giống của
Nghiệp hiện hành thì tức là nghiệp
kết thành quả báo; cho nên quả báo
đó cũng là do thức biểu hiện. Đó
là đứng về bản thể sự vật mà
nói. Còn nếu đứng về mặt hiện
tượng của sự vật mà nói thì đó
là "Nghiệp cảm duyên khởi".
Bởi vì, quả báo - hiện tượng do Thức
thứ Tám biểu hiện, thực tế là do
nghiệp lực của từng chúng sinh tạo ra.
Nếu đứng về phương pháp mà nói, thì
dù là A lại gia duyên khởi hay là
Nghiệp cảm duyên khởi cũng đều là
nguyên lý cơ bản của Phật pháp là
"duyên sinh luận". Mục đích tối
hậu của Phật pháp chỉ là một chữ
"không" mà thôi, vì Phật pháp
không cần thiết lập một ngẫu tượng
siêu hình nào hết, do đó mà cũng
không phạm sai lầm lấy cục bộ làm
toàn thể. Do duyên sinh mà suy thành
không, ngã cũng không, pháp cũng không,
vì vậy không làm người ta phải phân
vân bàng hoàng. Đối với các nhà
triết học khác nói chung, chữ
"ngã", chữ "tôi" là
không thể xóa bỏ được, chữ
"pháp" (sự vật) lại càng không
thể xóa bỏ được. Bởi vì nếu họ
xóa bỏ cái mà họ chấp là ngẫu
tướng cơ bản của họ, thì họ sẽ
không khác gì mất nơi nương tựa, mất
chỗ đứng, trở thành lạc lõng !
Vì vậy, không thể đem so
sánh duy thức luận Phật giáo với bất
cứ một loại triết học duy tâm nào !
Không phải. Thiền tông
khác với thiền định. Bởi vì Thiền
tông tuy chủ trương tham thiền nhập định,
nhưng thiền định không phải là thiền
tông.
Từ "Thiền tông"
là do Trung Quốc đặt ra. Khi Phật còn
tại thế, không có danh từ Thiền tông,
mà chỉ có công phu thiền và nội dung
thiền. Phương pháp tu trì giải thoát của
đạo Phật lấy giữ giới làm cơ sở,
lấy thiền định làm trọng tâm, lấy trí
tuệ làm mục đích. Giới Định Tuệ là
ba môn vô lậu học, thiếu một môn là
không được. Ba môn học này liên quan
với nhau, hỗ trợ nhau; do giới mà sinh
định, do định mà phát tuệ. Nhờ tu tuệ
mà chứng đạo giải thoát. Định tức
là Thiền định.
Thực ra, thiền tông Trung
Quốc chú trọng giác ngộ chứ không
chú trọng thiền định.
Đồng thời, thiền định
cũng có rất nhiều loại. Có phép thiền
định xuất thế của đạo Phật, gọi là diệt
tận định [diệt tận hết phiền não],
lại có phép thiền định thế gian của
Ngoại đạo, phàm phu và cả của giới
súc sinh nữa; đó là cái mà tính
thường gọi là bốn thiền tám định.
Bốn thiền tám định cũng là quá trình
tu tập định xuất thế của đạo Phật.
Chỉ có khác là ngoại đạo tu tập thế
gian định để cầu sinh lên cõi Trời,
còn Phật giáo tu tập thế gian định là
để tiến lên định xuất thế gian. Vì
vậy mà Thiền ngoại đạo gọi là thế
gian thiền; thiền Phật giáo gọi là
căn bản tịnh thiền.
Thiền định Phật giáo cũng
chia làm Tiểu thừa thiền và Đại thừa
thiền. Tiểu thừa thiền nhằm mục đích
giải thoát khỏi sinh tử. Đại thừa
thiền nhằm mục đích nghệ thuật hóa
cuộc sống, ví dụ như Thiền tông Trung
Quốc, cho rằng chẻ củi, gánh nước
cũng đều là Thiền; ăn cơm, ngủ nghỉ
cũng là định tâm; chú trọng giữ gìn
được tinh thần an định, không giao
động, chứ không yêu cầu hình thức
ngồi thiền định bất động.
Hơn nữa, thiền và định
kết hợp dịch âm và nghĩa từ chữ
Phạn Dhyana, có ý nghĩa tĩnh lự [yên
lặng mà suy nghĩ] cho nên cũng có thể
dịch là định. Tuy nhiên, hai chữ thiền
định cũng nên phân biệt. Thiền là tâm
cảnh của cõi trời sắc giới, vì vậy
mà sắc giới còn có tên gọi là Tứ
thiền thiên (các cõi trời bốn
thiền). Còn định là tâm chuyên nhất.
Tâm chuyên nhất là tâm trạng có thể
có ở Dục giới, và cũng có thể là
ở cả cõi Trời vô sắc. Thậm chí, cả
xuất thế định siêu việt 3 giới, cũng
vẫn có các tâm chuyên nhất đó. Vì
vậy, phạm vi của thiền là hẹp. Phạm vi
của định là rộng. Thiền cũng là một
loại định. Nhưng cũng có người gọi
xuất thế định là xuất thế gian
thượng thượng thiền.
Và gọi định của ngoại
đạo trình độ thấp là Giã hồ thiền,
tức là thiền của cáo hoang.
Từ định trong tiếng Phạn
ngoài chữ tam muội ra, còn có những
tên gọi khác nữa là : Tam ma địa
Tam ma bát để; Tam ma tất đa
Đà na diễn na Xa ma tha
Hiện pháp an lạc. Chất đa y
ca
A yết la đa v.v
Vì rằng, phàm đã là
Thánh thì đều có định tâm, thậm chí
có người Ấn Độ gọi nam nữ giao hợp
là Tam ma bạt để, là thư hùng đẳng
chí. Bởi vì lúc giao hợp cũng có tâm
ý tập trung, niềm vui dâm dục tràn khắp
thân người, giống như hiện tượng
định tâm vậy. Đến nỗi, có người
đề xướng các thuyết như tính mạng
cùng tu, thân tâm cùng tu, cho rằng có
thể tu định trong niềm vui dâm dục của
nam nữ [xem cuốn Đạo thành Phật của
Pháp sư Ấn Thuận; tr. 144]. Ý nghĩa tu
định bị hạ thấp tới mức nhơ bẩn
đến thế, thực là đáng thương hại
vậy ! Thế nhưng, điều này cũng cho ta
thấy, Ấn Độ có một quan niệm rất
rộng rãi về định tâm, có thể nói là
khác với tôn chỉ của Thiền tông Trung
Quốc như một trời một vực vậy.
Chính vì thiền định không
phải là thiền tông, cho nên trong các
tôn giáo trên thế giới, hễ có đôi
chút hiệu nghiệm thần bí đều là do
công phu thiền định mà ra, dù rằng đó
là do trì chú, lễ bái, tụng niệm hay
là cầu đạo mà được.
Vì vậy cho nên, phàm phu và
cả đến loại súc sinh nữa như cáo
chồn, chỉ cần tâm chuyên nhất vào một
cảnh là có ngay ít nhiều hiệu nghiệm
thần bí, gọi là thần thông. Nhưng, đó
hoàn toàn không phải là thiền tông
Phật giáo. Vì Thiền tông Phật giáo
tuyệt đối không có chủ trương tự cho
có phép thần thông.
Nhiều người hiểu nhầm
trong vấn đề đốn và tiệm, cho rằng
pháp môn đốn giáo khác hẳn với pháp
môn tiệm giáo; có nhiều người ham
chuộng cái dễ dàng tiện lợi, cho nên
đề cao đốn giáo và bài bác tiệm
giáo. Mọi người đều biết, Thiền tông
chủ trương đốn ngộ. Không lập văn
tự và chỉ thẳng vào nguồn tâm, chủ
trương niệm trước mê là chúng sinh,
niệm sau ngộ là Phật. Ngoài Thiền tông
ra, không có một tông phái Phật giáo
nào khác có một quan điểm "cấp
tiến triệt để" như vậy, do đó mà
có nhiều người tu theo Thiền tông, đôi
lúc cũng phê bình những người học
theo tiệm giáo, là theo đường lối tri
giải [tri thức hiểu biết].
Thực ra, hai pháp môn tiệm
và đốn là 2 mặt của một thể : đốn
là do tiệm mà tới đốn; tiệm là nhân
đốn mà có tiệm. Không có tiệm thì
cũng không có đốn; Có đốn, tất
trước đó có tiệm. Tiệm là nhân của
đốn. Đốn là kết quả của Tiệm.
Về vấn đề này, từ năm
47 của Dân quốc, tôi đã có nhận
thức như sau : "Cái gọi là đốn là
điểm đột phá cuối cùng của một
niệm, hay là sự thành thục chín mùi
của cái duyên cuối cùng
cũng như,
một quả trứng gà đã được ấp 20
ngày rồi, nếu con gà con không đủ sức
để phá vỡ vỏ trứng, thì chỉ cần gà
mẹ mổ nhẹ một cái là con gà con thoát
ra khỏi vỏ trứng ngay. Gà mẹ mổ, là
cái duyên cuối cùng, giúp cho gà con
thoát khỏi vỏ trứng. Chúng ta học Phật
cũng vậy. Nhờ trong các đời sống
trước, căn cơ đã được bồi dưỡng
sâu dày, cho nên đến đời này, mới
nghe qua vài ba câu của đạo, đã bừng
tỉnh và vượt phàm, bước ngay vào
hàng ngũ bậc Thánh : vì vậy, cái gọi
là đốn ngộ cũng không có gì là thần
bí cả". [Phật giáo nhân sinh và tôn
giáo; tr. 78]
Do đó, nếu đứng ở quả
vị Phật mà nhìn chúng sinh thì tất cả
chúng sinh đều có đầy đủ đức
tướng trí tuệ của Như Lai, đều
có khả năng thành Phật, vì vậy Phật
xem chúng sinh là bình đẳng với Phật,
đó chính là đốn giáo. Nếu
đứng ở lập trường chúng sinh mà
nhìn Phật thì chúng sinh tuy có khả năng
thành Phật, nhưng muốn thành Phật thì
phải qua một thời gian dài tu hành, Kinh
qua 52 thứ bậc mới đạt được tới
quả vị Phật, đó là nói về tiệm
giáo. Khi công phu tiệm tu được tròn
đầy thì quả vị Phật cũng được thành
tựu, và dưới gốc cây Bồ Đề, bậc
vô thượng chính đẳng giác "ra
đời".
Nói ngược lại, đốn là
sự bắt đầu của tiệm. Tiệm chính là
đốn trong thực tiễn. Đốn là sự xuất
phát của tiệm. Tiệm là đốn kéo dài.
Bởi vì đốn ngộ mà Thiền
tông Trung Quốc nói là chữ giác ngộ
tri kiến của Phật. Kinh Pháp Hoa phân chia
sự chứng ngộ tri kiến Phật thành
"bốn giai đoạn của 2 mặt" gọi
là "Khai, thị, ngộ, nhập". Khai thị
là công việc của Phật, do Phật làm cho
chúng sinh, chỉ bày cho chúng sinh thấy.
Như vậy, gọi là khai thị. Ngộ nhập là
công việc cho chúng sinh tự làm. Chúng
sinh hiểu rõ tự tính vốn có của mình
là có thể thành Phật. Đó gọi là
ngộ. Sau khi ngộ rồi bèn tu hành đúng
pháp, mới có thể vào được cửa tri
kiến của Phật. Nếu nói về thứ bậc
thì ngộ Phật tri kiến mới là Bồ Tát
còn ở địa vị phàm phu, chưa chứng sơ
địa. Còn nhập Phật tri kiến là chỉ vị
Bồ Tát từ sơ địa trở lên, đã
đứng vào hàng Thánh. Bởi vì, chỉ có
từ sơ địa trở lên, mới có khả
năng từng phần một, đoạn trừ vô
minh, từng phần một chứng ngộ tự
tính. Từ sơ địa trở về trước, chỉ
là công phu chuẩn bị mà thôi.
Có thể thấy, đốn ngộ là
giác ngộ pháp tính tức là giác ngộ
Phật tính. Đốn ngộ chưa phải là thành
Phật. Tiệm tri là tu tập công đức sự
tướng; chỉ có tiệm tu tích lũy dần
dần mới có thể thật sự thành Phật.
Lý thì đốn ngộ, sự thì tiệm tu. Đó
chính là giải đáp vấn đề đốn tiệm.
Cái đốn mà Thiền tông nói chính là
đốn ngộ về lý.
Trên đây là đứng trên
lập trường giải thích giáo nghĩa mà
trình bày. Nếu xét theo bản thân Thiền
tông Trung Quốc mà nói, thì lại không
phải như vậy. Bởi vì Thiền tông Trung
Quốc nói tới một sự đốn ngộ không
có thứ bậc. Đốn ngộ là đốn ngộ,
tựa hồ không có quan hệ gì với tiệm
tu. Khi đốn ngộ tức là giác ngộ về
thực tính Chân Như vốn có như vậy
rồi. Nhưng đó là điều mà con người
bình thường nói chung không thành
được.
Thiền tông cho rằng, khi sử
dụng công tham thiền đã chín mùi rồi,
thì tuy chưa bước vào hàng ngũ thánh
của Bồ Tát từ sơ địa trở lên, nhưng
trong giây phút đốn ngộ, hoạt động
của thức thứ bảy và thức thứ tám
tạm thời bị ngưng chỉ, tâm không ở
trạng thái hiện tượng sáng suốt [vốn
là như vậy]. Cũng như một bầu trời
mây đen bao phủ, bỗng nhiên mù tan, mây
hết chỉ còn lại cả một bầu trời
sáng lạn không mây ! Tuy rằng, kinh
nghiệm thực chứng này chỉ xảy ra trong
thời gian hết sức ngắn ngủi, và chỉ
sau một lát lại bị phiền não vô minh bao
phủ như xưa. Thế nhưng, một người đã
được nhìn qua một lần chân như thực
tính bản lai là như vậy, so với một
người chưa từng được thấy qua, thì
khác nhau rất nhiều. Đó là cái mà
Thiền tông Trung Quốc gọi là đốn ngộ.
Nhưng, đốn ngộ rồi còn phải dụng công
tu hành, bởi vì cái vốn thành Phật
vẫn chưa được tích lũy đầy đủ vậy.
Đoạn trước đã nói, sở
dĩ có nhiều tông phái Phật giáo là do
căn tính khác nhau và thời đại hoàn
cảnh khác nhau của những người học
Phật.
Nếu phải đứng trên lập
trường căn bản của Phật giáo mà nói
rằng các tông phái là thừa, và nếu
chấp nhận như vậy, thì đó không những
thiệt thòi cho cá nhân người học Phật
mà cũng là điều bất hạnh cho Phật
giáo nói chung. Cũng như người Ninh Ba
ở Triết Giang thích ăn thức ăn hôi,
người Hồ Nam thích ăn rất cay. Người
Sơn Đông thức ăn cay vừa phải,
người Sơn Tây thích ăn chua
Vậy
thì giải quyết vấn đề nên ăn và
không nên ăn món ăn gì nào ?
Nội dung Phật giáo là bao la
rộng rãi. Tuy không phải là khoa học
nhưng không phản lại khoa học, tuy không
phải là triết học nhưng siêu việt học,
tuy không phải là văn học, nhưng lại
có văn học, tuy không phải là mỹ học,
nhưng sáng tạo và biến đổi cả mỹ
học; tuy không phải là tôn giáo, nhưng
không thiếu tố chất tôn giáo.
Chúng ta tu học Phật pháp,
nên chọn tôn phái gần gũi với căn
tính của mình, tôn phái mà mình cảm
thấy hứng thú, dùng tôn phái đó làm
phương tiện nhập môn. Trong 8 tông Đại
thừa của Trung Quốc, thì Duy Thức gần
gũi với khoa học, Tam Luận gần triết
học, Hoa Nghiêm, Thiên Thai gần văn học,
Chân Ngôn, Tịnh Độ gần mỹ học. Còn
Thiền tông là cốt lõi trung tâm của
Phật pháp, vì vậy mà đại sư Thái Hư
nói : "Đặc chất của Phật giáo Trung
Quốc là thiền". Bất cứ một tông
phái nào cũng đều có thể quy về tinh
thần Thiền. Còn Luật tông là cơ sở
của toàn bộ Phật giáo. Tầm quan trọng
của nó đối với toàn bộ đạo Phật
cũng giống như "Lục pháp toàn
thơ" đối với nước Trung Quóc vậy.
Vì vậy, nghiêm túc mà nói, Luật tông
không nên lập thành tông phái riêng.
Luật tông nên thuộc về tất cả các
tông; còn nói về tố chất tôn giáo
thì tông phái nào cũng có.
Ở Trung Quốc, từ cuối
đời nhà Đường về sau, Thiền tông
đặc biệt hưng thịnh. Sau đó Thiền Tịnh
hợp nhất lại. Gần đây, Thiền Tông
có 2 đại sư là Ký Thiền và Hư Vân
Tịnh độ tông có ngài Ấn Quang. Luật
tông có ngài Hoằng Nhất. Thiên Thai có
ngài Đế Nhàn, Hoa Nghiêm có ngài
Nguyệt Hà. Duy Thức có ngài Âu Dương
Kính Vô (Tiệm).
Thế nhưng, đại thể mà
nói, trong dân gian, hai phái Thiền và
Tịnh có ảnh hưởng mạnh nhất. Còn trong
giới học thuật thì ảnh hưởng của
Tông Duy Thức tương đối lớn. Mật
Tông tuy cũng thịnh hành, nhưng rất tạp
loạn.
Đáng chú ý nhất là việc
làm của đại sư Thái Hư và các học
trò của ông. Họ không câu nệ vào
một tông, một phái, mà dựa vào tinh
thần cơ bản của Phật pháp, xem xét lại
các tông phái, phá bỏ giới hạn giữa
các tông phái, trả mỗi tông phái về
địa vị vốn có của nó. Đại sư Thái
Hư dùng 3 hệ thống lớn, thâu nhiếp
các tông phái Đại thừa; tức là :
- Pháp tướng duy thức
tông
- Pháp tính không tuệ tông
- Pháp giới viên giác
tông
Do đó, trừ 2 tông Duy
Thức và Tam Luận ra [mỗi tông thành
một hệ], các tông phái còn lại đều
thuộc về pháp giới viên giác tông.
Học trò Thái Hư là pháp sư Ấn Thuận
sửa đổi lại 3 hệ của Thái Hư như sau
:
- Tính không duy danh luận
- Hư vọng duy thực luận
- Chân thường duy tâm luận
Đại sư Thái Hư cho rằng
Pháp giới viên giác là hoàn thiện
nhất. Pháp sư Ấn Thuận cho rằng Tính
không duy danh là rốt ráo nhất. Thái Hư
cả đời đề cao Khởi tín luận và kinh
Lăng Nghiêm. Ấn Thuận thì dựa vào
giáo nghĩa các bộ A Hàm, quán triệt tư
tưởng không của Bát Nhã. Mọi người
nói ông theo Tam Luận tông, nhưng ông cho
là không phải, bởi vì Tam Luận tông
của Trung Quốc chịu sự chi phối của tư
tưởng Trung Quốc; không còn có sắc
thái không tôn của Ấn Độ nữa.
Sự thực, dù là gọi
bằng danh từ nào, hay là đặt ở chỗ
nào thì hoa thơm vẫn là hoa thơm; các
bậc cổ đức xưa nay phán giáo hay nhiếp
giáo, đều chỉ nhằm giúp mọi người
hiểu rõ nội dung của Phật pháp, phương
pháp và hệ thống của sự nghiên cứu
mà thôi. Nếu đã muốn tu học, đã bắt
tay tu tập thì "các phái đều dẫn
đến Niết Bàn". Bởi vì trong Phật
pháp, chỉ có sự khác biệt về sâu hay
nông, thiên lệch hay là tròn đầy, chứ
không chuyện thị hay phi, tốt hay xấu.
Nông chính là cơ sở của sâu; sâu là
do từ nông tiến lên. Thiên lệch là
bộ phận của tròn đầy; tròn đầy chính
là sự tổng hợp của mọi cái thiên
lệch; thế nhưng đã bắt tay nghiên cứu
thì đường hướng phải phân minh; vì
vậy mà phải có phán giáo và nhiếp
giáo.
Thế nhưng, đến nay, chúng ta
cần chú ý là tám tông phái Đại
thừa đã rút xuống thành ba tông. Ranh
giới giữa tám tông đã bị xóa bỏ;
cả đến giới hạn giữa Đại thừa và
Tiểu thừa cũng không còn tồn tại.
Toàn bộ Phật giáo đã thống nhất lại.
Nếu có một người nào đó muốn tu theo
một lòng, một phái với hy vọng trở
thành Tổ sư thuộc thế hệ mấy đời
của Tông phái mình thì đó quả là
chuyện không cần thiết.
Trên thực tế, các cao
tăng đời trước, không phải người
nào cũng là Tổ sư của các tông phái,
và dù cho môn đệ của ông ta có ghi
tên ông vào sách "Tự pháp môn
nhân" [Học tu được truyền pháp]
thì ông ta cũng không chắc là một cao
tăng có chứng ngộ. Còn sự phân biệt
Đại thừa và Tiều thừa cũng không
được Thượng tọa Bộ Phật giáo Nam
truyền hoan nghênh. Người Trung Quốc gọi
họ là Tiểu thừa, thì họ nói Đại
thừa không phải là Phật giáo - Cái
lối chia thành các khúc sông ra để
uống nước như vậy, không thể gọi là
hợp lý được.
Đương nhiên, đối với
một người mới vào đạo Phật, hay là
chuẩn bị vào đạo Phật thì việc lựa
chọn là cần thiết. Theo quan điểm của
cá nhân tôi thì Tỳ kheo và tỳ kheo ni
mới xuất gia trước hết phải học Luật
nghi của Tăng Ni, nhưng không cần thiết
phải tham gia Luật tông. Cư sĩ tại gia
lớn tuổi nên chuyên tâm niệm Phật,
nhưng cũng không cần thiết phải dựa
vào Tịnh Độ tông; cũng bất tất phải
niệm danh hiệu Phật A Di Đà; bởi vì
còn có Phật Di Lặc ở nội viện Đâu
Xuất, Phật Dược Sư và Phật A Sơ ở
phương Đông v.v
còn nếu các vị
muốn tiếp cận Phật giáo về mặt tư
tưởng học thuật, thì nên nghiên cứu
hai hệ tư tưởng lớn "Bát Nhã
không" và "Duy Thức hữu",
bao hàm nhiều chân giá trị tư tưởng
phong phú xứng đáng được tìm hiểu
khai thác.
Đứng về hành trình tu học
đạo mà nói, có thể chia làm hai loại :
Một loại là đạo khó thực hành, một
loại là đạo dễ thực hành. Thế nào
là đạo khó thực hành ? Từ khi mới
phát Bồ đề tâm, từ đời này qua
đời khác, hành Bồ Tát đạo, hy sinh
bản thân mình để cứu độ chúng sinh.
Đó là dựa vào nguyện lực của tự
thân, tiến hành công tác độ sinh từ
kiếp này sang kiếp khác. Đó là con
đường tu hành phi thường gian khổ; nếu
nguyện lực không đủ kiên cường, thì
tái tam ba bận, nửa đường thoái lui.
Nhưng nếu so với hành trình của những
người theo đạo dễ thực hành, thì
hành trình nói trên lại nhanh chóng đưa
người tu hành đến quả vị Phật hơn.
Đạo dễ thực hành là con đường tu
hành cầu vãng sinh vào các cõi Phật
(Tịnh độ) hình thành nhờ nguyện lực
của chư Phật, đi bồi dưỡng trí tuệ
của mình, tức là vẫn giữ thân phận
phàm phu mà vãng sinh về cõi Phật rồi
ở cõi Phật mà bồi dưỡng trí tuệ,
dần dần đạt trình độ "bất
thoái" cho tới quả vị Thánh; sau đó
mới trở lại phàm giới, hành đạo
Bồ Tát, độ khắp chúng sinh. Hành đạo
theo lối này thì tương đối an toàn
vững chắc, nhưng lại chậm chạp đi
vòng.
Người không có lòng tự
tín, hay là đức tin và nguyện lực
không đủ kiên quyết, thì tốt nhất nên
tu đạo dễ hành.
Giá trị tôn giáo và tác
dụng của đạo dễ hành có thể nói là
tương đương với phép tu cầu lên Thiên
đàng của đạo Gia Tô; tuy rằng nội dung
phép tu hai bên có khác nhau, thế nhưng
cả hai bên đều nhấn mạnh đức tin. Hơn
nữa, đạo Gia Tô nói "tin tưởng, hi
vọng, tình thương", Phật giáo thì
nhấn mạnh "niềm tin, phát nguyện,
hành động"; đạo Phật và đạo Gia
Tô đều nói thế ba chân của một cái
vạc như vậy. Còn Phật giáo thì lấy
sức mạnh của bản thân chúng sinh, cảm
thông với chư Phật để được sinh vào
cõi Phật, cùng ở với Phật. Vì vậy,
ngoại trừ niềm tin mù quáng ra, còn có
sự cần thiết phải thuận theo nguyện
lực của chư Phật, mới có thể vãng
sinh xứ Phật. Về điểm này, hiện nay,
những người niệm Phật cầu vãng sinh
về cõi Phật rất ít chú ý; đồng
thời, khi chúng ta tu học Pháp môn Tịnh
Độ là pháp môn dễ tu, chúng ta phải
biểu hiện lòng chí thành khẩn thiết
trong lời nói và hành vi sinh hoạt hàng
ngày. Chúng sinh ở cõi Phật, có ý
nghĩ, lời nói và hành động đều trong
sạch. Chúng ta làm phàm phu, không thể
tuyệt đối thanh tịnh được thì cũng
phải cố gắng hết sức giữ thân tâm
thanh tịnh, tức là giữ năm giới
mười thiện. Nếu tâm cần vãng sinh cõi
Phật mà thân hành lại không trong sạch
thì hy vọng khi lâm chung được vãng sinh
cõi Phật thì đó là chuyện còn rất
đáng ngờ !
Bản chất của đạo Phật
là coi trọng trí tuệ, nhưng đứng trên
lập trường tôn giáo mà nói, trí tuệ
không phải chỉ là phương pháp nhập
đạo mà là mục đích của việc tu học
Phật Pháp. Cố nhiên, có người tiến
từ hiểu biết đến tín ngưỡng và
hành động thực tiễn; nhưng lại có
một số người đông hơn, tin Phật, học
Phật, mà không trải qua sự khảo nghiệm
của hiểu biết giáo nghĩa, và chỉ qua
thực tiễn của tín, nguyện, hành mà
cũng đạt được mục đích như mong cầu.
Bản thân tín, nguyện, hạnh lại không
cần có sự hỗ trợ của hiểu biết
bằng trí tuệ. Do đó, những người
không hiểu giáo nghĩa, hay là không có
khả năng lãnh hội giáo nghĩa, cũng có
thể tin Phật, học Phật. Tuy họ không
hiểu giáo nghĩa, nhưng vẫn đạt được
ích lợi thực tế của tín ngưỡng tôn
giáo; cùng người tu Tịnh độ có đủ
cả 3 loại trình độ cao thấp và trung
bình thậm chí cũng có người học rất
giỏi, thế nhưng về đại thể mà nói,
thì việc tu học pháp môn Tịnh độ thuộc
loại hình pháp môn dễ tu, dễ hành. Lại
như Thiền tông Trung Hoa chủ trương
"bất lập văn tự", chủ trương
"triệt đường ngôn ngữ, bỏ
hết tư duy". Thiền tông không đòi
hỏi tri thức phong phú, chỉ nhờ siêng
năng tu hành, mà có được ánh sáng
trí tuệ, được "khai ngộ". Chính
vì vậy mà Thiền tông thích hợp với
người Trung Quốc không cần "hiểu
biết sâu", chú trọng thực tiễn.
Thiền tông không phải là mê tín. Trong
ngữ lục của các cao tăng thuộc Thiền
tông, không một chữ, một lời nào
không phải là kết tinh của trí tuệ !
Vì vậy, hai tông Thiền và
Tịnh là hai tông được người Trung
Quốc hoan nghênh nhất từ hơn 1000 năm
nay; chúng không đòi hỏi một sự hiểu
biết giáo nghĩa sâu sắc để nhập đạo,
thế nhưng cũng do vậy mà sinh ra một số
tệ lậu, khiến cho một số người trình
độ thấp, tu học mù quáng, tự cho rằng
chỉ có mình là đúng, còn mọi người
khác đều sai tất cả !
Kinh điển Đại thừa và
Tiểu thừa Phật giáo nhiều không kể
xiết. Còn việc kinh Phật được kết
tập đại quy mô thành văn tự thì chỉ
xảy ra nhiều thế kỷ sau khi Phật nhập
diệt. Tuy rằng, đọc Luật tạng, chúng ta
biết vào thời Phật còn tại thế, đã
có một số kinh Phật được chép thành
văn tự rồi [xem các cuốn 44, 48 của
Luật căn bản Hữu Bộ, cuốn 4 Tạp sự,
cuốn 3 Dược sự] nhưng số kinh ấy
không nhiều. Trong thời kỳ đầu, phần
lớn kinh Phật đều được truyền tụng
bằng miệng. Bởi vì ở Ấn Độ, xưa nay,
các sách Thánh đều do thầy truyền
miệng cho trò [Xin nhắc là các kinh Phệ
đà của Bà La môn Giáo đều không
dùng văn tự ghi chép]. Do đó, tạo
thành tập quán và năng lực của dân
Ấn Độ nhớ rất giỏi. Một học giả
đọc thuộc lòng 10 vạn bài tụng là
chuyện bình thường. Hiện nay, ở Miến
Điện, có tỳ kheo đọc thuộc lòng cả 3
tạng và được gọi là pháp sư ba
tạng, ngay Hồ Thích cũng nói : "Các
vị hòa thượng Ấn Độ thật kỳ lạ,
có thể đọc thuộc lòng một lúc 2, 3
vạn câu kệ" [Văn học sử bạch
thoại].
Thế nhưng, nếu dựa vào
phương pháp thầy trò truyền đạo tụng
kinh sách cho nhau, không thể đảm bảo
không có sai sót, hơn nữa, trong tập
quán thầy trò truyền thừa của dân
tộc Ấn Độ, hình thành niềm tin tuyệt
đối với thầy. Thời gian trôi qua, đối
với một sự việc, hình thành nhiều
truyền thuyết kháu nhau, tuy cũng không
phương hại gì nhau. Trò nào tin thầy ấy.
Do đó mà có khả năng, đem một số
truyền thuyết trong nền văn hóa xưa của
Ấn Độ, du nhập thành một bộ phận của
nội dung kinh điển nhà Phật, mà người
làm việc đó cũng hoàn toàn không có
chủ tâm, dụng ý gì cả. Hơn nữa, dân
tộc Ấn Độ xưa nay vốn không xem trọng
công tác khảo chứng lịch sử. Do đó
mà trong Kinh Phật, ghi chép nhiều điều
mâu thuẫn về thời gian và sự kiện,
nhất là đối với bộ phận Luận tạng
[Phật giáo có ba tạng Kinh, Luật, Luận.
Tính chất của Kinh, Luận, giống như Kinh
Tân, cựu ước của Gia Tô, Luận giống
như sách thần học của Gia Tô]. Phần
lớn Luận tạng là do luận sư các bộ
phái trước tác cho nên kiến giải bất
đồng phải có nhiều.
Do đó, một phật tử chính
tín, đối với kinh Phật, phải có thái
độ vô cùng trân trọng, nhưng cũng bất
tất phải tiếp thu mọi câu, mọi chữ.
Phải tìm chính pháp Phật giáo ở trong
Kinh Phật, nhưng đối với sự ghi chép
trong Kinh, vẫn phải giữ thái độ suy
xét, cân nhắc [nếu như bản thân mình
có năng lực thẩm tra, suy xét].
Nhưng đứng về đại thể
mà nói, đối với những kinh Phật đang
lưu hành hiện nay và đã được lịch
sử khảo nghiệm, mọi người đều có
thể tin tưởng phụng hành; bởi vì tư
tưởng chủ yếu của các kinh đó là
chính xác. Nếu ngẫu nhiên, trong chữ
nghĩa, pháp số, truyền thuyết, kiến giải
mà có mâu thuẫn thì cũng thuộc về
những vấn đề chi tiết, không phải là
vấn đề cơ bản. Cho nên, nói chung,
chúng ta không nên hoài nghi về tính
chân thực, đáng tin cậy của các kinh
Phật. Tốt nhất là tham hỏi các pháp sư
có trình độ Phật học cao, để nhờ
hỏi giải thích những giáo nghĩa mà tự
mình không hiểu được. Bởi vì có
nhiều danh từ và khái niệm thuộc về
cảnh giới tu chứng, nếu bản thân mình
không đọc nhiều kinh Phật và không có
công phu thể nghiệm thực tiễn, thì sẽ
không tài nào hiểu được.
Kinh điển Phật giáo rất
nhiều. Trung Quốc dịch kinh điển Phật hơn
1000 năm, cũng không biết rõ đã dịch
được mấy vạn quyển ! Số kinh sách
Phật đã được dịch và lưu hành, kể
cả các bộ chú giải, giảng thuật của
người Trung Quốc gồm hơn 3000 bộ, cộng
tất cả là hơn 1 vạn 5 nghìn cuốn (chưa
kể các kinh sách Phật lưu hành ở Tây
Tạng, Nhật Bản và các nước khác
thuộc Phật giáo Nam truyền). Cho nên,
hiện nay, vẫn chưa xác định được
những kinh điển nào là chủ yếu nhất.
Đối với những người đầu tiên tìm
đọc sách Phật thì tốt nhất nên đọc
các sách về Phật giáo sử và Phật
giáo khảo luận. Loại sách nhập môn
đó, sẽ chỉ bày rõ sau khi đọc, sẽ
còn phải làm gì nữa, đọc gì nữa.
Bản này chỉ có thể giới thiệu vấn
đề một cách thông tục, cạn cợt. Còn
việc chỉ đạo nghiên cứu đi sâu hơn
thì không thuộc phạm vi bài này.
Vấn đề này nên chia thành
2 đáp án : Một đáp án là phủ định.
Một đáp án là khẳng định.
Hiện nay, nói chung, lớp
người trẻ thường trách sách Phật
giáo khó hiểu, khó đọc. Đây là do
họ đọc sách Phật quá ít, đồng thời
cũng chưa được đọc đại bộ phận Kinh
Phật, như Kinh Đại Bát Nhã, Kinh Đại
Niết Bàn, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa,
Kinh Duy Ma Cật v.v
họ đều chưa
được đọc qua. Còn các bộ Kinh A Hàm
lại càng có ít người đọc. Thực ra,
muốn đọc kinh Phật, trước hết phải
đọc bộ A Hàm, sau đó, đọc các kinh
Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Bát Nhã,
v.v
Nếu được như vậy, tôi tin
rằng họ sẽ cảm thấy kinh Phật không
khó đọc và gây nhàm chán như một số
sách khác. Nhiều người cho rằng, sách
Tân, cựu ước của đạo Gia Tô dễ
hiểu dễ đọc, nhưng thực ra, rất ít
người trong số giáo đồ đạo Cơ Đốc,
đọc hết sách cựu ước. Sách Tân
ước gồm có 4 phúc âm và dễ đọc
hơn. Trong lớp Phúc âm, thì Phúc âm
của thánh Ma Thiên là viết tốt hơn cả.
Đặc sắc của kinh Phật là
dùng thể tài cố sự [truyện xưa] để
mô tả tư tưởng và cảnh giới Phật
giáo, khéo dùng hình tượng và thí dụ
để nói lên những đạo lý siêu hình
và trừu tượng; vì vậy, Hồ Thích cho
rằng, lời văn của Kinh Phật Hán dịch,
so với văn xuôi Trung Quốc [văn biền
ngẫu] chân chất hơn nhiều. Ông nói :
"Vì kinh sách Phật giáo chú trọng
truyền đạt sự thật, cho nên lời lẽ
chú trọng tính chính xác, không chú
trọng văn vẻ, chú trọng làm cho người
đọc dễ hiểu mà không chú trọng lời
đẹp và cổ xưa. Cho nên các đại sư
phiên dịch Kinh Phật đều khuyến khích nhau
"Không thêm văn sức, cốt làm cho
dễ hiểu, không dễ mất ý nghĩa cơ bản
của nguyên tắc". Lại viết :
"Trong các bộ Kinh do Cưu Ma La Thập
dịch, quan trọng nhất là bộ Đại phẩm
Bát Nhã, nhưng lưu hành nhiều nhất, có
ảnh hưởng văn học nhiều nhất lại là
ba bộ Kinh Kim Cương, Pháp Hoa và Duy Ma
Cật". Hồ Thích đặc biệt đề cao Kinh
Duy Ma Cật là "tác phẩm nửa tiểu
thuyết, nửa hý kịch, sau khi dịch xong đã
gây ảnh hưởng rất lớn trong giới
văn học và giới mỹ thuật". Lại
viết : "Kinh Pháp Hoa tuy không phải
là tiểu thuyết, nhưng là cuốn sách có
nhiều ý vị văn học, trong đó có một
số truyện ngụ ngôn, có thể nói là
thuộc những truyện ngụ ngôn đẹp nhất
trong văn học thế giới. Và cũng đã
tạo ảnh hưởng không nhỏ đối với
nền văn học Trung Quốc". Lại viết :
"quyển "Phật sở hành tán"
là kiệt tác của nhà thơ vĩ đại Mã
Minh, dùng văn vần kể lại cuộc đời
của Phật". Thiên cuối cùng của Kinh
Hoa Nghiêm, có phẩm "nhập pháp
giới" chiếm hơn 1/4 toàn bộ cuốn
Kinh kể truyện Đồng tử Thiện Tài đi
cầu pháp, lần lượt đến thành nọ
thành kia, gặp pháp sư này, pháp sư kia,
tạo ra cả một pho trường thiên tiểu
thuyết". [Trích dẫn : "Bạch thoại
văn học sử" chương 9 và chương 10].
Chúng ta biết rằng, Hồ Thích không tin
Phật, chúng ta không thể nhất trí
được với kiến giải của Hồ Thích
đối với Phật Pháp; nhưng ông ta là
một trong những vị Tổ khai sáng ra phong
trào văn học bạch thoại của nước
Trung Quốc cận đại. Ông cho rằng Kinh
điển Phật giáo có giá trị cao quý về
loại văn học "nói chuyện". Vậy
thì hãy hỏi "Kinh Phật có thực là
khó đọc hay không ? Trừ phi là anh vốn
có thành kiến, còn thì anh không thể
trả lời là khó đọc !
Tuy nhiên, nếu đọc đến
các bộ Luận Đại thừa và Tiểu thừa
thì quả là các vị phải đau đầu nhức
óc ! Đặc biệt là các bộ Luận của
Đại thừa Hữu Tông. Trong các bộ Luận
của Hữu Tông, có những danh từ tân
kỳ, kết cấu bộ Luận rất chặt chẽ, tư
tưởng thì cao xa thâm thúy, đối với
những người thiếu trình độ Phật học
thì những bộ luận đó không khác gì
các "thiên thư" (sách trời) ngay
những nhà Phật học đã có kinh nghiệm
học Phật hàng chục năm, nếu không có
trình độ tu dưỡng nhất định về tư
tưởng triết học và phương pháp khoa
học, thì cũng chỉ nhìn sách và than thở
mà thôi. Cũng như một người mê đọc
tiểu thuyết võ hiệp mà bây giờ
chuyển sang đọc sách Hegen và Kantơ thì
không thể đọc "vào được".
Thử hỏi đối với những sách Phật
như vậy, có nên đọc hay không đọc ?
Trừ phi anh là một người có trình độ
văn hóa thấp, còn thì anh không thể
trả lời "phủ định" được.
Nhiều người cho rằng, kinh
sách đạo Gia Tô dễ đọc hơn, kỳ
thực, nếu đọc các sách Thần học -
sách triết học kinh viện của họ, các
anh cũng không hiểu ra sao cả. Các giáo
sĩ Gia Tô thời Trung Cổ, với ý đồ
điều hòa thần khải với lý trí con
người, nên khoác lên thần thoại một
bộ áo triết học, đặt tất cả mọi
vấn đề trong một tay quyền uy của chúa.
Vấn đề sách Phật khó
đọc hiện nay, tôi cho rằng đó là do
tác phong của một số ít người. Ví như
có một số nhà Phật học, đọc sách
xưa không thể tiêu hóa được, họ
không động não, chỉ làm các việc sao
đông chép tây, rồi cũng viết thành
bài văn mà chính bản thân họ cũng
hiểu không rõ, thì làm sao người đọc
lại có thể hiểu được ! Điều may là
theo chỗ tôi khảo sát, loại văn chương
đó ngày nay đã bớt nhiều. Bởi vì,
loài người gọi là bác cổ nhưng không
thông kim, ngày nay cũng tự thấy mình
đã đến tuổi về hưu rồi !
Còn các bài luận văn học
Phật học, có tính tư tưởng là nhằm
phục vụ cho việc nghiên cứu, cho nên
không thể đòi hỏi tác giả phải viết
như sách Tây du ký hay Thủy Hử được.
Tuy nhiên, giới Phật giáo của Nhật Bản
cận đại, đã thử dùng danh từ triết
học tây phương để truyền đạt tư
tưởng Phật giáo, nhưng cũng không thể
Tây phương hóa toàn bộ, nếu không thì
sẽ không thành ra Phật giáo nữa và
đánh mất bộ mặt Phật giáo.
Nói chung lại, đứng về phương thức truyền bá mà nói, Phật giáo hoàn toàn tán thành văn nghệ hóa và thông tục hóa. Nếu đứng về mặt nghiên cứu tư tưởng lý luận mà nói thì Phật giáo không thể không đòi hỏi phải thâm thúy, phải tinh mật. Do đó, chúng ta cố nhiên phải đề cao sự thông tục, nhưng cũng không được trách cứ sách Phật khó đọc.
Nguồn: www.quangduc.com