LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o----

 

PHẦN I

NHỮNG CHUẨN BỊ THÔNG THƯỜNG HAY BÊN NGOÀI

-------------------

CHƯƠNG I

SỰ KHÓ TÌM ĐƯỢC NHỮNG TỰ DO VÀ THUẬN LỢI

 

Chủ đề chính của chương này, giáo lý về sự khó khăn biết bao để tìm được những sự tự do và thuận lợi, thì được đi trước bới việc giải thích về cách lắng nghe đúng đắn bất kỳ giáo huấn tâm linh nào. 

I.        CÁCH THỨC ĐÚNG ĐẮN ĐỂ NGHE GIÁO LÝ TÂM LINH

Cách thức đúng đắn để lắng nghe các giáo lý có hai phương diện: thái độ đúng đắn và hành vi đúng đắn. 

  1. Thái độ:

Thái độ đúng đắn kết hợp thái độ bao la của bodhicitta (Bồ Đề Tâm), là tâm giác ngộ, và sự thiện xảo vô hạn trong phương tiện của Mantra Thừa Bí Mật. 

1.1  Thái độ bao la của Bồ Đề Tâm:

Không có một chúng sanh nào trong luân hồi, đại dương đau khổ mênh mông này, mà trong tiến trì thời gian từ vô thuỷ chưa từng là cha hay mẹ của chúng ta.  Khi họ là cha mẹ của chúng ta, suy nghĩ duy nhất của họ là nuôi nấng ta với thiện tâm to lớn nhất có thể có được, bảo vệ chúng ta với lòng từ vĩ đại và cho ta thứ tốt nhất trong thực phẩm và quần áo của họ.

Tất cả những chúng sanh này, là những người đã quá tử tế với chúng ta, đều muốn được hạnh phúc, tuy nhiên họ không biết làm thế nào áp dụng vào thực hành điều mang lại hạnh phúc, là mười hành vi tích cực (thập thiện).  Không ai trong số họ muốn đau khổ, nhưng họ không biết cách từ bỏ mười hành vi tiêu cực là gốc rễ của mọi đau khổ.  Vì thế mong muốn sâu xa nhất của họ và điều họ thật sự làm thì trái nghịch nhau.  Những chúng sanh khốn khổ, lạc loài và mê lầm này giống như một người mù bị bỏ rơi giữa cánh đồng hoang!

Hãy tự nhủ: “Chính vì hạnh phúc của họ mà tôi sắp lắng nghe Giáo Pháp sâu xa và đưa nó vào thực hành.  Tôi sẽ dẫn dắt tất cả chúng sanh này là những cha mẹ của tôi, bị hành hạ bởi những nỗi khổ trong sáu cõi luân hồi tới trạng thái Phật quả toàn giác, giải thoát họ khỏi tất cả những hiện tượng thuộc về nghiệp, những tập khí và những đau khổ trong mỗi một của sáu cõi.”  Điều quan trọng là phải có thái độ này mỗi khi bạn nghe các giáo lý hay thực hành chúng.

Bất cứ khi nào bạn làm điều gì tích cực, dù quan trọng hay không, rất cần phải nâng cấp nó với ba phương pháp siêu việt.  Trước khi bắt đầu hãy khơi dậy Bồ Đề Tâm như một phương tiện thiện xảo để chắc chắn rằng hành vi sẽ trở thành một suối nguồn của điều thiện lành trong tương lai.  Trong lúc thực hiện hành vi, nên tránh vướng mắc vào bất kỳ sự khái niệm hoá [1] nào để công đức không bị phá huỷ bởi những hoàn cảnh. [2]  Vào lúc kết thúc, hay niêm phong hành vi một cách đúng đắn bằng cách hồi hướng công đức, việc đó sẽ bảo đảm rằng hành vi tiếp tục phát triển còn lớn lao hơn nữa.[3]

Cách bạn lắng nghe Pháp rất quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn nữa là động cơ khiến bạn lắng nghe nó. 

Điều gì tạo nên một hành vi tốt hoặc xấu?

Không phải bởi nó có vẻ thế nào, cũng không phải bởi nó lớn hay nhỏ

Mà bởi động cơ xấu hay tốt đằng sau nó. 

Cho dù bạn đã được nghe nhiều Giáo Pháp tới đâu chăng nữa, nhưng nếu bạn bị thúc đẩy bởi những mối quan tâm tầm thường - chẳng hạn như một ham muốn trở nên vĩ đại, danh tiếng – thì đó không phải là con đường của Giáo Pháp chân chính.  Vì thế, trước tiên, điều hết sức quan trọng là bạn phải xoay chuyển vào trong và thay đổi động cơ của ban.  Nếu bạn có thể chỉnh sửa thái độ của bạn, phương tiện thiện xảo sẽ thấm nhuần những hành động tích cực của bạn, và bạn sẽ đi trên con đường của những bậc vĩ đại.  Nếu bạn không thể thì bạn có thể nghĩ rằng mình đang học tập và thực hành Giáo Pháp nhưng nó sẽ hông khác gì hơn một sự che đậy của một sự thực.  Do đó, bất kỳ khi nào bạn lắng nghe giáo lý và thực hành, dù nó là sự thiền định về một Bổn Tôn, lể lạy và đi nhiễu, hay trì tụng một mantra (thần chú) – cho dù chỉ một mani duy nhất – thì luôn luôn điều cốt yếu là để phát khởi Bồ Đề Tâm.

 

1.2  SỰ THIỆN XẢO BAO LA TRONG PHƯƠNG TIỆN: THÁI ĐỘ CỦA MANTRA THỪA BÍ MẬT. 

Quyển Ngọn Đuốc của Ba Phương Pháp nói về Mantra Thừa Bí Mật trình bày:

Nó có cùng mục tiêu nhưng tự tại với mọi mê lầm, [4]

Nó phong phú trong phương pháp và không có những khó khăn,[5]

Nó dành cho những người có khả năng nhạy bén. [6]

Mantra Thừa thì tối thượng.

 

Mantra Thừa có thể được đi vào bằng nhiều con đường.  Nó gồm có nhiều phương pháp để tích tập công đức và trí huệ, và phương tiện thiện xảo để làm cho tiềm năng trong chúng ta hiển lộ [7] mà không cần phải trải qua những gian khổ lớn lao.  Nền tảng của những phương pháp này là cách thức chúng ta hướng dẫn những nguyện ước của mình: 

Mọi sự tuỳ theo hoàn cảnh

Và hoàn toàn tuỳ thuộc vào nguyện ước của ta. 

Không nên coi nơi giảng Pháp, vị Thầy, Giáo lý và v.v..như một nơi chốn bình thường và bất tịnh.  Khi bạn lắng nghe, hãy giữ năm viên mãn thật rõ ràng trong tâm:

Nơi chốn viên mãn là thành trì của sự rộng mở tuyệt đối, được gọi là Akanistha, “sự Vô song.”  Vị Thầy viên mãn là Samantabhadra (Đức Phổ Hiền), Pháp Thân.  Tăng đoàn viên mãn bao gồm các vị Bồ Tát nam và nữ và những Bổn Tôn [8] của dòng truyền tâm các Đấng Chiến Thắng và dòng truyền biểu tượng của các bậc Vidyadhara (Trì Minh Vương)

Hoặc bạn có thể nghĩ rằng nơi giảng Pháp là Cung điện Liên Hoa quang của Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ, vị Thầy giảng Pháp là Đức Liên Hoa Sanh xứ Oddiyana, và chúng ta, thính chúng, là Tám Trì Minh Vương, hai mươi lăm Đệ tử, và các Daka và Dakini.

Hoặc bạn nghĩ tưởng rằng nơi chốn viên mãn này là Cõi Phật Phương Đông, Hỷ Lạc Hiển Lộ, ở đó vị Thầy viên mãn Vajrasattva (Đức Kim Cương Tát Đoả), Báo Thân viên mãn, đang giảng dạy cho tập hội gồm những bậc linh thánh thuộc Kim Cang Bộ và chư Bồ Tát nam và nữ.   Tương tự, nơi chốn viên mãn để giảng Pháp có thể coi là Cõi Phật Phương Tây, cõi Cực Lạc, vị Thầy viên mãn là Đức Phật A Di Đà, và tập hội các Bồ Tát nam và nữ và các Bổn Tôn thuộc Liên Hoa Bộ.

Trong mọi trường hợp, Giáo lý là Giáo lý của Đại Thừa và thời gian là bánh xe vĩnh cửu thường chuyển.

Những sự quán chiếu [9] này là để trợ giúp chúng ta hiểu được những sự vật ra sao trong thực tế.  Nó không phả ilà chúng ta đang tạm thời tạo tác điều gì đó không thực sự hiện hữu. 

Vị Thầy hiện thân tinh tuý của tất cả chư Phật khắp ba thời.  Ngài là sự hợp nhất của Tam Bảo: thân Ngài là Tăng đoàn, khẩu Ngài là Pháp, ý Ngài là Phật.  Ngài là sự hợp nhất của Ba Gốc: thân Ngài là vị Thầy, khẩu Ngài là Bổn Tôn, ý Ngài là Dakini.  Ngài là sự hợp nhất của ba Thân (kaya): thân Ngài là Hoá Thân, khẩu Ngài là Báo Thân, ý Ngài là Pháp Thân.  Ngài là hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, suối nguồn của tất cả chư Phật trong tương lai và đại diện cho tất cả chư Phật ở hiện tại.  Bởi Ngài nhận làm đệ tử các chúng sanh suy đồi như chúng ta, là những kẻ mà không vị nào trong hàng ngàn vị Phật trong thời Hiền Kiếp [10] có thể cứu giúp, nên lòng bi mẫn và sự rộng rãi của Ngài thì trội vượt hơn tất cả chư Phật. 

Vị Thầy là Phật, vị Thầy là Pháp

Vị Thầy cũng là Tăng Đoàn

Vị Thầy là bậc thành tựu mọi sự

Vị Thầy là Đức Kim Cương Trì Quang Vinh 

Chúng ta, là tập hội những người lắng nghe giáo lý, hãy sử dụng nền móng là Phật tánh của riêng ta, trụ cột là đời người quý báu, hoàn cảnh là có một vị thầy tâm linh và phương pháp là tuân theo lời chỉ dạy của Ngài, để trở thành những vị Phật trong tương lai. Như Tantra Hevajra nói:

Tất cả chúng sanh là các vị Phật,

Nhưng họ bị những ô nhiễm bất định che lấp.

Khi những ô nhiễm được tịnh hoá,

Phật quả của họ sẽ hiển lộ.

 

  1. Hành vi:

Chánh hạnh trong khi lắng nghe giáo lý được mô tả trong phạm vi điều gì nên tránh và điều gì nên làm.

 

2.1  ĐIỀU NÊN TRÁNH

Hành vi nên tránh bao gồm ba khiếm khuyết của một bình chứa, sáu điều nhiễm ô và năm cách nhớ tưởng sai lạc.

2.1.1 Ba Khiếm khuyết của Bình chứa:

Không nên lắng nghe như một bình lật úp. Không có khả năng nhớ được điều bạn nghe thì giống như một cái bình bị thủng lỗ.  Trộn lẫn những cảm xúc tiêu cực với những điều bạn nghe thì giống như một cái bình trong có chất độc.

Bình lật úp. Khi bạn đang nghe Giáo lý, hãy lắng nghe điều được nói ra và đừng để bản thân bị xao lãng bởi bất kỳ điều gì khác.  Nếu không, bạn cũng như cái bình lật úp không thể rót gì vào được.  Mặc dù thân bạn đang hiện diện, nhưng bạn lại không nghe được một lời nào của giáo lý.

Bình thủng lỗ. Nếu bạn chỉ nghe mà không nhớ được bất kỳ điều gì bạn nghe hay hiểu, bạn sẽ giống như một cái bình có một chỗ rò rĩ: cho dù có đổ vào đó bao nhiêu nước cũng không giữ lại được chút nào.  Dù bạn có được nghe bao nhiêu giáo lý chăng nữa, bạn chẳng bao giờ có thể tiêu hoá được chúng hay đưa chúng vào thực hành.

Bình chứa chất độc. Nếu bạn lắng nghe giáo lý với thái độ sai lầm, chẳng hạn như tham vọng trở nên nổi tiếng hay vĩ đại, hoặc một tâm thức tràn đầy năm độc, thì Giáo pháp không chỉ không giúp được gì cho tâm bạn; nó cũng sẽ bị biến đổi thành một điều gì đó hoàn toàn không phải Phật Pháp, như chất cam lồ được rót vào một bình chứa chất độc.

Đó là lý do tại sao Ngài Padampa Sangye, bậc hiền nhân của Ấn Độ đã nói:

 

Hãy lắng nghe các giáo lý giống như một con nai nghe nhạc;

Hãy suy niệm về chúng giống như người du cư phương Bắc xén lông cừu;*

Hãy thiền định về chúng giống như người câm thưởng thức thực phẩm;**

Hãy thực hành chúng giống như con bò Yak háu đói đang ăn cỏ;

Hãy đạt được kết quả của chúng, giống như mặt trời lộ ra từ sau những đám mây.

 

Khi lắng nghe giáo lý, bạn phải giống như con nai bị mê hoặc bởi âm thanh của đàn vina tới nỗi không hề chú ý tới người thợ săn ẩn núp đang bắn mũi tên có tẩm độc.  Hãy chắp hai bàn tay lại và lắng nghe, mỗi lỗ chân lông trên thân bạn đều bị rung động và đôi mắt bạn đầy lệ, chớ để bất kỳ tư tưởng nào gây chướng ngại.

Là cách nghe không tốt khi chỉ có thân bạn là hiện diện, trong khi tâm lại lang thang theo các niệm tưởng và ngữ của bạn thả lỏng cả một kho chuyện tầm phào, nói bất kỳ điều gì bạn thích và nhìn quanh quẩn khắp nơi. Khi lắng nghe giáo lý, thậm chí bạn nên ngưng cầu nguyện, niệm mantra, hay bất kỳ những hoạt động tốt lành nào có thể bạn đang làm.

Sau khi lắng nghe giáo lý một cách đúng đắn theo cách này, thì điều quan trọng không kém là nhớ lại ý nghĩa của điều được nói ra mà không bao giờ quên nó, và liên tục áp dụng chúng trong thực hành.  Như chính Bậc Đại Thánh đã nói:

 

Ta đã chỉ cho các ông những phương pháp

Dẫn tới giải thoát

Nhưng các ông nên biết

Sự giải thoát tuỳ thuộc vào chính các ông.

 

Vị thầy ban cho đệ tử những giáo huấn giảng về cách nghe Giáo Pháp và cách áp dụng nó; cách thức từ bỏ những hành động tiêu cực, thực hiện những hành vi tích cực, và làm thế nào để thực hành.  Người đệ tử có nhiệm vụ phải ghi nhớ những giáo huấn đó, không lãng quên điều gì; áp dụng chúng vào thực hành; và chứng ngộ chúng.

Việc chỉ lắng nghe Pháp thì tự nó có thể có một ít lợi lạc.  Nhưng trừ phi bạn nhớ được những gì bạn nghe, còn không bạn sẽ không hiểu chút nào về ngôn từ hoặc ý nghĩa của Giáo lý - điều này thì chẳng khác gì việc không được nghe gì hết.

Nếu bạn ghi nhớ Giáo lý nhưng lại trộn lẫn chúng với những cảm xúc tiêu cực của bạn, thì chúng sẽ không bao giờ là Giáo Pháp thuần tịnh.  Như Ngài Dagpo Rinpoche vô song đã nói: 

Trừ phi bạn thực hành Pháp phù hợp với Giáo Pháp

Nếu không, bản thân Giáo Pháp sẽ trở thành nguyên nhân của  những sự tái sanh xấu.

 

Hãy tự tống khứ mỗi niệm tưởng sai lạc liên quan tới vị Thầy và Giáo Pháp, đừng phê bình hay lăng mạ các huynh đệ tâm linh và những người bạn đồng hành của bạn, hãy thoát khỏi sự kiêu căng và khinh miệt, hãy từ bỏ mọi niệm tưởng xấu xa.  Bởi vì tất cả những điều này gây ra sự tái sanh nơi các cõi thấp.

 

2.1.2 Sáu sự nhiễm ô:

Trong “Lý lẽ được Giải Thích Hợp lý” nói: 

Kiêu mạn, thiếu niềm tin và không nỗ lực,

Bên ngoài thì xao lãng,

Bên trong thì căng thẳng và chán nản;

Đây là sáu sự nhiễm ô.

 

Hãy tránh sáu điều này: tin rằng bản thân bạn giỏi hơn vị Thầy đang giảng Pháp, không tin tưởng vị Thầy và Giáo lý của Ngài, không chuyên tâm thực hành Pháp, xao lãng bởi những sự kiện bên ngoài, bên trong tập trung năm giác quan quá căng thẳng, và chán nản nếu bài giảng quá dài.  Chẳng hạn thế.

Trong tất cả những cảm xúc tiêu cực thì kiêu mạn và ganh tị là những thứ khó nhận ra nhất.  Vì vậy, hãy khảo sát tâm bạn một cách tỉ mỉ.  Bất kỳ cảm tưởng nào cho rằng các phẩm tính của mình có điều gì đặc biệt cho dù hết sức nhỏ bé, dù thuộc thế gian hay tâm linh, cũng sẽ khiến cho bạn mù quáng với những lỗi lầm của chính mình và không thấy được những phẩm tính tốt đẹp của người khác.  Vì thế, hãy từ bỏ sự kiêu mạn và luôn luôn giữ một vị trí thấp kém.

Nếu bạn không có niềm tin thì lối vào Giáo Pháp đã bị khoá chặt.  Trong bốn loại niềm tin, [11] hãy hướng tới niềm tin không thể thay đổi.

Sự quan tâm[12] của bạn về Giáo Pháp là nền tảng của những gì bạn sẽ đạt được.  Vì thế, tùy theo mức độ quan tâm của bạn là cao cấp, trung bình hay thấp kém, mà bạn sẽ trở thành một hành giả siêu việt, trung bình, hay thấp thỏi.  Và nếu bạn hoàn toàn không quan tâm tới Pháp thì sẽ chẳng có chút kết quả nào.  Như ngạn ngữ có nói: 

Giáo Pháp không phải tài sản của riêng một người nào.

Nó thuộc về bất kỳ ai có nỗ lực to lớn nhất. 

Để có được Giáo Pháp, bản thân Đức Phạt đã phải trả bằng cái giá của hàng trăm gian khó.  Để có được một bài kệ chỉ có bốn dòng, Ngài đã khoét thịt làm những chiếc đèn cúng dường; đổ đầy dầu và đặt vào đó hàng ngàn tim đèn cháy đỏ.  Ngài đã nhảy vào những hầm lửa, cắm hàng ngàn đinh sắt vào thân thể.[13] 

Cho dùn phải đối diện với hỏa ngục nóng đỏ hay những lưỡi dao sắc nhọn.

Hãy tìm cầu Giáo Pháp cho tới khi bạn chết. 

Vì thế, hãy lắng nghe Giáo lý với nỗ lực to lớn, quên đi nóng, lạnh và tất cả mọi thử thách khác.

Khuynh hướng của tâm thức mải mê trong các đối tượng của sáu giác quan[14] là gốc rễ của tất cả những ảo giác trong luân hồi và là nguồn gốc của mọi đau khổ.  Đây là cách mà con thiêu thân chết trong ngọn lửa đèn vì nhãn thức của nó bị các hình tướng lôi cuốn; cách con hươu bị thợ săn giết chết vì nhĩ thức bị âm thanh lôi cuốn; cách những con ong bị những cây ăn thịt nuốt chửng vì bị mùi của chúng hấp dẫn; cách những con cá bị bắt vì vị giác bị nhử bởi hương vị của mồi câu; cách những con voi chết đuối trong đầm lầy vì chúng thích cảm giác thân thể ngập trong bùn.  Cũng thế, bất kỳ khi nào bạn đang lắng nghe Pháp, đang nghe giảng dạy, đang thiền định hay thực hành, điều quan trọng là không chạy theo những khuynh hướng trong quá khứ, không ấp ủ những cảm xúc về tương lai, và không để những tư tưởng hiện tại bị xao lãng bởi bất kỳ điều gì quanh bạn.  Như Gyalse Rinpoche nói:

 Những niềm vui và nỗi muộn phiền trong quá khứ của bạn

giống như những bức tranh trên nước:

Chẳng còn lại dấu vết gì.  Chớ chạy theo chúng!

Nhưng nếu chúng xuất hiện trong tâm, hãy quán chiếu về sự thành công hay thất bại đến và đi ra sao.

Ngoài Pháp ra, bạn còn có thể tin vào thứ gì khác, hỡi những hành giả trì tụng mani?[15]

Những kế hoạch và dự án trong tương lai của bạn giống như lưới thả nơi sông cạn.

Chúng sẽ không bao giờ đem lại được những gì bạn muốn.  Hãy hạn chế những khát khao và ước muốn của bạn!

Nhưng nếu chúng xuất hiện trong tâm, hãy nghĩ rằng bất định biết bao khi bạn chết:

Hỡi những hành giả tụng niệm Lục Tự! Bạn còn có thời giờ nào khác ngoài Giáo Pháp?

Bạn có thời giờ để làm điều gì khác ngoài Pháp không, hỡi những hành giả trì tụng mani?

Việc bạn làm hiện tại giống như một công việc trong giấc mơ,

Bởi mọi nổ lực như thế đều vô nghĩa, hãy ném chúng sang một bên.

Hãy xem xét không chút vướng mắc ngay cả những món tiền chân chính bạn kiếm được.

Mọi hoạt động đều không có thực chất, hỡi những hành giả trì tụng mani!

Giữa những thời thiền định, hãy học cách kiểm soát theo cách này mọi niệm tưởng khởi lên từ tam độc;

Cho đến khi tất cả những niệm tưởng và tri giác hiển lộ như Pháp Thân,

Điều này rất cần thiết, hãy nhớ lại bất cứ khi nào bạn cần nó.

Chớ thả lỏng những niệm tưởng mê lầm, hỡi những hành giả trì tụng mani!

 

Cũng có nói: 

Đừng dệt mộng tương lai, vì nếu làm như vậy;

Bạn cũng giống như người cha của Mặt Trăng Nổi Tiếng!

Điều này muốn nói tới câu chuyện của một người nghèo khổ đi ngang qua một đống lúa mì lớn.  Ông ta cho lúc mạch vào một bao lớn, treo nó lên xà nhà, rồi nằm bên dưới nó và bắt đầu mơ mộng hão huyền.

“Số lúa mạch này sắp làm ta giàu có thực sự,” ông ta nghĩ: “Khi đã giàu, ta sẽ lấy vợ…Nhất định là cô ta sẽ sinh một đứa con trai..Ta nên gọi nó là gì nhỉ?”

Ngay lúc đó mặt trăng xuất hiện, và ông ta quyết định đặt tên đứa con là Mặt Trăng Nổi Tiếng.  Tuy nhiên vào lúc đó một con chuột đang gặm sợi dây đỡ cái túi.  Đột nhiên sợi dây đứt, cái túi rớt lên người làm ông ta chết ngay.

Những giấc mơ về tương lai và quá khứ như thế chẳng bao giờ có kết quả và chỉ là một sự xao lãng.  Hãy từ bỏ hết thảy chúng.  Hãy tỉnh thức và lắng nghe với sự chú tâm và cẩn trọng.

Không nên tập trung quá căng thẳng, chọn ra những ngôn từ và vấn đề đặt biệt, giống như một con gấy dremo bới tìm các mạc mối - mỗi lần bạn nắm bắt được một đề mục, bạn lại quên đi đề mục trước đó, và sẽ chẳng bao giờ hiểu được cái toàn thể.  Tập trung quá nhiều cũng làm bạn buồn ngủ.  Thay vào đó hãy giữ một sự bình quân giữa căng thẳng và buông lỏng.

Có lần Ngài Ananda đang dạy Ngài S’rona thiền định. S’rona rất khó có thể hiểu điều đó thật đúng đắn.  Đôi khi ông ta quá căng thẳng, đôi lúc lại quá buông lỏng.  Srona đem vấn đề hỏi Phật, Đức Phật bảo: “Khi còn là cư sĩ, ông là người đánh đàn vina rất hay phải không?”

“Vâng, con chơi rất hay.”

“Vậy âm thanh đàn vina của ông hay nhất khi lên dây thật căng hay thật chùng?”

“Nó kêu hay nhất khi giây không căng quá mà cũng không chùng quá.”

“Tâm ông thì cũng tương tự như thế,” Đức Phật bảo; và nhờ thực hiện theo lời khuyên này Ngài Srona đạt được kết quả.

Ngài Machik Labdron nói:

Hãy tập trung vững chắc và thư dãn lơi lỏng:[16]

Đây là điểm trọng yếu đối với cái Thấy. 

Đừng để tâm bạn quá căng thẳng hay quá tập trung hướng vào trong; hãy để các giác quan bạn thoải mái tự nhiên, cân bằng giữa buông lỏng và căng thẳng

Bạn không nên mệt mỏi khi lắng nghe Giáo lý. Đừng nên chán nản khi bạn cảm thấy đói hay khát một bài giảng quá dài, hay khi bạn phải chịu đựng những phiền toái gây nên bởi nắng, mưa, gió và v.v...Hãy hoan hỷ rằng giờ đây bạn có được tự do và thuận lợi của đời người, rằng bạn đã gặp được một vị Thầy chân chính, và bạn có thể lắng nghe những giáo huấn sâu xa của Ngài.

Sự kiện bạn đang được nghe Giáo Pháp sâu xa vào thời điểm này là kết quả của những công đức được tích lũy từ vô lượng kiếp.  Nó giống như bạn ăn một bữa ăn khi bạn chỉ có thể ăn được một lần trong hàng trăm bữa ăn suốt cả đời bạn.  Vì vậy, để tiếp nhận Giáo lý này, hãy khẩn thiết lắng nghe với lòng hoan hỷ; thệ nguyện chịu đựng nóng, lạnh và bất kỳ thử thách và khó khăn nào có thể xảy ra. 

2.1.3 Năm Cách Sai lạc trong việc Nhớ tưởng:

Hãy tránh việc nhớ chữ mà quên nghĩa,

Hoặc nhớ nghĩa mà quên lời.

Hãy tránh việc nhớ cả hai mà không hiểu ý;

Nhớ lộn xộn, hay nhớ không chính xác. 

Không nên gán một tầm quan trọng thái quá cho những sự biến hoá tao nhã của câu cú mà không cố gắng phân tích ý nghĩa sâu xa của những ngôn từ, giống như một đứa bé đang nhặt hoa.  Chỉ có từ ngữ không thì chẳng ích lợi gì cho tâm thức.  Ngược lại, chớ xem thường cách thức trong đó Giáo lý được biểu lộ, coi nó hoàn toàn chỉ là những ngôn từ và vì thế không cần thiết.  Bởi khi đó, mặc dù bạn thấu hiểu được ý nghĩa sâu xa, nhưng bạn sẽ không còn phương tiện mà nhờ đó bạn có thể diễn tả nó. Ngôn từ và ý nghĩa sẽ mất đi sự liên kết.[17]

Nếu bạn nhớ Giáolý mà không nhận ra những cấp độ khác nhau – ý nghĩa thích hợp, thực nghĩa và ý nghĩa gián tiếp - bạn sẽ bị nhầm lẫn về những gì các từ ngữ muốn nói tới.[18] Điều này có thể dẫn bạn xa rời Giáo Pháp chân thực.  Nếu nhớ lộn xộn, bạn sẽ làm rối tung sự liên tục đúng đắn của bài giảng, và mỗi lần bạn lắng nghe nó, giải thích hay thiền định về nó, sự nhầm lẫn sẽ tăng lên gấp bội.  Nếu bạn nhớ không chính xác những điều đã được nói ra, vô số ý niệm sai lạc sẽ gia tăng.[19] Điều này sẽ làm hư hỏng tâm bạn và làm giảm giá trị của Giáo lý.  Hãy tránh tất cả những lỗi lầm này và hãy ghi nhớ mọi sự - từ ngữ, ý nghĩa và thứ tự của bài giảng - một cách đúng đắn và không có bất kỳ sai lầm nào.

Dù bài giảng dài và khó tới đâu chăng nữa, bạn chớ nên ngã lòng và đừng tự hỏi chừng nào nó kết thúc; hãy kiên trì.  Và dù bài giảng có ngắn và đơn giản tới đâu, đừng đánh giá thấp nó như điều hoàn toàn sơ đẳng.  Như thế việc nhớ được cả từ ngữ lẫn ý nghĩa một cách hoàn hảo, đúng trình tự và với mọi sự cùng một kết nối một cách đúng đắn, là điều hết sức cần thiết. 

2.2  ĐIỀU NÊN LÀM:

Hành vi nên theo trong lúc lắng nghe Giáo Pháp được giải thích như bốn ẩn dụ, sáu hoàn thiện siêu việt, và những phương cách hành xử khác.

 

2.2.1 Bốn Ẩn dụ:

Kinh Sắp Xếp như Một Thân Cây nói: 

Người đáng kính, bạn nên nghĩ bản thân bạn như người bị bệnh,

Giáo Pháp là phương thuốc,

Vị Thầy tâm linh của bạn là một thầy thuốc khéo léo,

Và sự thực hành tinh tấn là cách thức để hồi phục. 

Chúng ta bị bệnh.  Từ vô thuỷ, trong biển khổ vô biên là vòng luân hồi này, chúng ta bị hành hạ bởi bệnh tật của ba độc và hậu quả của chúng, là ba loại đau khổ.

Khi người ta bị bệnh nặng, họ đi tham vấn một bác sĩ giỏi.  Họ nghe theo lời khuyên của bác sĩ, dùng bất kỳ loại thuốc nào mà ông ta cho, và làm tất cả những điều có thể để vượt qua bệnh tật và trở nên khỏe mạnh.  Tương tự, bạn nên tự mình điều trị những bệnh tật của nghiệp, những cảm xúc tiêu cực và đau khổ bằng cách tuân theo hướng dẫn của vị bác sĩ có kinh nghiệm đó, là vị Thầy chân chính, và bằng cách dùng loại thuốc Giáo Pháp.

Việc đi theo một vị Thầy mà không làm theo những điều Ngài nói thì cũng giống như không vâng lời bác sĩ, điều đó làm cho ông không có cơ hội để chữa bệnh cho bạn. Không uống thuốc của Giáo Pháp – có nghĩa là không áp dụng nó vào thực hành – thì cũng giống như có vô số thuốc men và chỉ dẫn bên giường bạn mà không bao giờ bạn chạm tới chúng.

Ngày nay, người ta nói với đầy vẻ lạc quan: “Lạt ma, xin quan tâm tới con với lòng bi mẫn!” Khi nghĩ rằng cho dù có làm nhiều điều khủng khiếp, họ sẽ không bao giờ chịu hậu quả.  Họ đoán rằng vị Thầy, với lòng bi mẫn, sẽ tung họ lên cõi Trời như thể Ngài ném một viên sỏi.  Nhưng khi ta nói rằng vị Thầy đang nâng đỡ chúng ta với lòng bi mẫn thì cái mà điều này thực sự muốn nói tới là việc Ngài đã chấp nhận chúng ta là đệ tử của Ngài với tràn đầy lòng thương yêu, và Ngài ban cho chúng ta những giáo huấn sâu xa, khai thị cho chúng ta điều gì cần làm và điều gì nên tránh và chỉ cho chúng ta con đường giải thoát đã được Đấng Chiến Thắng giảng dạy. Có thể có lòng bi mẫn nào to lớn hơn thế không? Điều này tuỳ thuộc vào việc chúng ta có tận dụng được lòng bi mẫn này và thực tâm theo đuổi con đường giải thoát hay không.

Giờ đây là lúc chúng ta được sinh ra làm người tự do và được phú bẩm nhiều thuận lợi, giờ đây là lúc chúng ta biết điều gì nên làm và điều gì không nên, sự quyết định của chúng ta vào lúc này khi ta có sự tự do để chọn lựa đánh dấu bước ngoặt nó sẽ định rõ số phận của chúng ta tốt hơn hoặc xấu hơn mãi về sau này.[20] Điều tối quan trọng là chún ta hãy chọn lựa một lần cho mãi mãi giữa sinh tử và Niết bàn, và hãy đưa những giáo huấn của vị Thầy của chúng ta vào thực hành.

Những người hướng dẫn các buổi lễ trong làng sẽ bắt bạn tin rằng trên tử sang bạn vẫn có thể đi lên hay đi xuống, như thể bạn điều khiển một con ngựa bằng dây cương.  Nhưng vào lúc đó, trừ phi bạn đã thành thạo con đường, cơn gió dữ dội của những hành vi trong quá khứ của bạn sẽ săn đuổi theo bạn, trong khi phía trước một bóng tối đen kịt khủng khiếp đổ xô tới khi bạn bị lôi xuống con đường dài đầy nguy hiểm của trạng thái trung trung ấm.  Vô số những thuộc hạ của Thần Chết sẽ đuổi bắt bạn với những tiếng kêu thét: “Giết!Giết! Đánh! Đánh!” Làm thế nào có thể ở một khoảng khắc như thế, khi không có nơi để chạy tới và không có chổ để ẩn náu, không nơi nương tựa và không chút hy vọng, khi bạn tuyệt vọng và không biết phải làm gì – làm thế nào vào một thời điểm quyết định như thế mà bạn có thể kiểm soát được là mình đi lên hay đi xuống? Như Đấng Vĩ đại xứ Oddiyana nói:

 

Đợi tới lúc được phép ghi tên[21] vào tấm bảng thì đã quá muộn! Khi ấy tâm thức bạn hoàn toàn lang thang trong trạng thái trung gian như một con chó mê muội, sẽ thấy được rằng thậm chí khó có thể nghĩ tưởng về những cảnh giới cao hơn.

Thật ra thì bước ngoặt quyết định, là thời điểm duy nhất mà bạn thực sự có thể hướng dẫn mình đi lên hay đi xuống như thể điều khiển một con ngựa bằng dây cương, là ngay lúc này đây, trong khi bạn còn sống.

Là một con người, những thiện hạnh của bạn còn mạnh mẽ hơn các hành vi tích cực của các loài chúng sanh khác.  Mặt khác, điều này cho bạn một cơ hội vào lúc này và ngay tại đây trong chính đời này để ném việc tái sanh quan một bên một lần và mãi mãi.[22] Nhưng những ác hạnh của bạn cũng mạnh hơn, do đó bạn cũng hoàn toàn có thể quả quyết rằng mình sẽ không bao giờ thoát khỏi bề sâu của những cõi thấp.  Vì thế giờ đây là lúc bạn đã gặp được một vị thầy, một vị bác sĩ khéo léo, và Giáo Pháp là thần dược chiến thắng cái chết, đây là lúc để áp dụng bốn phép ẩn dụ, đưa giáo lý bạn đã được nghe vào thực hành, và du hành trên con đường dẫn tới giải thoát.

Quyển “Kho Tàng Của Những Phẩm Tính Quý Báu” mô tả bốn ý niệm sai lạc phải tránh, chúng là sự đối nghịch của bốn ẩn dụ chúng ta đã đề cập tới.

 

Người miệng lưỡi nông cạn, với bản tánh xấu ác.

Tiếp cận với vị thầy như thể Ngài là một con hươu xạ.

Rút tỉa xạ hương, Giáo Pháp viên mãn,

Tràn đầy khoái lạc, họ phỉ bang giới nguyện.

 

Những người như thế coi vị thầy tâm linh của họ như một con hươu xạ, Giáo Pháp như xạ hương, bản thân họ là người đi săn, và sự thực hành mãnh liệt là cách thức để giết một con hươu với một mũi tên hay một cái bẫy.  Họ không thực hành giáo lý mà họ đã thọ nhận và không tỏ lòng biết ơn vị thầy.  Họ sử dụng Giáo Pháp để tích luỹ các ác hạnh, để điều này sẽ như một cối đá kéo lôi họ xuống những cõi thấp.

 

2.2.2. Sáu Toàn thiện Phi thường (Sáu Ba La Mật)

Trong Tantra Sự Hoàn toàn Thấu Suốt các Giáo huấn về tất cả những sự Thực hành Pháp có nói:

 

Hãy thực hiện những cuộc cúng dường tối hảo chẳng hạn như hoa và các tấm đệm,

Hãy thứ tự và kiểm soát cách hành xử của bạn,

Chớ làm tổn thương bất kỳ chúng sanh nào,

Hãy chân thành tin tưởng vị thầy của bạn,

Hãy lắng nghe các giáo huấn của Ngài mà không xao lãng

Và hãy hỏi Ngài để xua tan các nghi ngờ của bạn;

Đây là sáu sự hoàn thiện siêu việt của một thính giả.

 

Một người đang nghe giáo lý nên thực hành sáu hoàn thiện phi thường như sau:

Hãy chuẩn bị chổ ngồi cho vị thầy, sắp xếp các tấm đệm lên đó, hãy dâng cúng một mandala, hoa, và các món cúng dường khác.  Đây là sự thực hành bố thí.

Hãy quét dọn sạch sẽ nơi chốn hay căn phòng sau khi đã cẩn thận rửa sạch bằng nước, và hãy tự chế mọi hànhvi thiếu tôn kính.  Đây là sự thự hành trì giới.

Tránh làm tổn hai chúng sanh, ngay cả những con côn trùng nhỏ nhất, và hãy chịu đựng sự nóng lạnh và mọi gian khó khác.  Đây là sự thực hành nhẫn nhục.

Đặt sang một bên bất kỳ quan niệm sai lạc nào liên quan tới vị thầy và giáo lý, hãy hoan hỷ lắng nghe với niềm tin chân thật.  Đây là sự thực hành tinh tấn.

Hãy lắng nghe những giáo huấn của Lạt ma mà không xao lãng.  Đây là sự thực hành thiền định.

Và hãy đặt những câu hỏi để xua tan bất kỳ sự do dự và nghi ngờ nào.  Đây là sự thực hành trí tuệ.

2.2.3  Những Cách thức khác của Hành vi.

Nên tránh tất cả những cách hành xử thiếu tôn kính.  Vinaya (Luật tạng) nói:

 

Không dạy cho những người thiếu tôn kính,

Những người không bệnh mà trùm khăn đội đầu,

Những người mang gậy gộc, vũ khívà dù,

Hay những người quấn khăn trên đầu.

 

Và các Jataka (Truyện Tiền Thân Đức Phật) có nói:

 

Hãy chọn chỗ ngồi thấp nhất

Hãy trau dồi thái độ trang nghiêm của giới luật hoàn hảo.

Với đôi mắt tràn đầy hoan hỷ,

Hãy uống từng lời như chất cam lồ,

Và hãy hoàn toàn chú tâm.

Đó là cách lắng nghe giáo lý.

 

II.     BẢN THÂN CỦA GIÁO LÝ: MỘT GIẢI THÍCH VỀ VIỆC KHÓ TÌM ĐƯỢC NHỮNG SỰ TỰ DO VÀ THUẬN LỢI

 

Chủ đề chính của chương được giải thích trong bốn phần: sự quán chiếu về bản tánh của sự tự do, quán chiếu về những thuận lợi đặc biệt liên quan tới Pháp, quán chiếu về những hình ảnh cho thấy việc khó tìm được sự tự do và thuận lợi ra sao, và quán chiếu về những so sánh bằng số lượng.

 

1.      Quán chiếu trên bản tánh của sự tự:

Ở đây, một cách tổng quát thì “tự do” có nghĩa có cơ hội để thực hành Pháp và không bị sanh và một trong tám trạng thái không có cơ hội đó. “Thiếu tự do” ám chỉ tám trạng thái ở đó không có cơ hội như thế:

 

Sinh ra trong các địa ngục, trong cõi ngạ quỷ,

Như một thú vật, một vị trời trường thọ hay một người man rợ,

Có quan điểm sai lạc (tà kiến), sinh ở nơi không có Phật

Hay sinh ra bị câm và điếc; đây là tám trạng thái không có tự do.

 

Chúng sanh bị tái sinh trong địa ngục khôg có cơ hội để thực hành Pháp vì họ thường xuyên bị hành hạ bởi sự nóng hay lạnh dữ dội.

Các preta (ngạ quỷ) không có cơ hội thực hành Pháp do bởi nỗi đau khổ họ phải chịu đựng từ sự đói khát.

Các súc sinh không có cơ hội thực hành Pháp bởi chúng phải trải qua sự nô lệ và chịu đựng những cuộc tấn công của những thú vật khác.

Các vị trời trường thọ khôg có cơ hội thực hành Pháp bởi họ tiêu phí thời giờ của mình trong một trạng thái tâm thức trống không.[23]

Những người sinh ra ở các nơi biên địa không có cơ hội thực hành Pháp bởi giáo lý của Đức Phật không được biết tới ở những nơi như vậy.

Những người sinh ra làm các tirthika* hoặc những người có các tà kiến tương tự không có cơ hội thực hành Pháp vì tâm thức họ bị ảnh hưỡng quá nhiều bởi những tin tưởng sai lầm đó.

Những người sinh ra trong một thời kiếp tối tăm không có cơ hội thực hành Pháp vì họ chưa từng được nghe đến Tam Bảo, và không thể phân biệt được tốt, xấu.

Những người sinh ra bị câm hay khiếm khuyết về tinh thần không có cơ hội thực hành Pháp vì các khả năng của họ không đầy đủ.

Những cư dân trong ba cõi thấp phải chịu đựng liên tục sự nóng, lạnh, đói, khát và những đau khổ khác, là kết quả của những hành động bất thiện trong quá khứ của họ; họ không có cơ hội để thực hành Pháp.

Những “người man rợ” là những người sống ở ba mươi hai biên địa như Lo Khatha,[24] và tất cả những ai coi việc làm tổn hại người khác là một hành vi của niềm tin hoặc những người có niềm tin hoang dã coi việc sát sinh là tốt đẹp.  Những người này sống ở những nơi xa xôi hảo lánh có được thân người nhưng tâm trí họ thiếu sự định hướng đúng đắn và bản thân họ không thể hoà hợp với Pháp.  Thừa kế từ tổ tiên họ những phong tục đồi bại như cưới mẹ của mình, họ sống thật sự đối nghịch với sự thực hành Pháp. Mọi sự họ làm điều xấu ác, và chính trong các kỹ thuật của những ác hạnh như giết côn trùng và săn bắt thú hoang của họ như thế thì họ thật sự vượt trội.  Nhiều người trong số họ sinh vào những cõi thấp ngay khi họ chết.  Đối với loại người như thế thì không có cơ hội để thực hành Pháp.

Các vị trời trường thọ là những vị miệt mài trong một trạng thái tâm thức trống không.  Chúng sinh bị sinh vào cõi này là một kết quả của việc tin rằng giải thoát là một trạng thái trong đó tất cả những hoạt động tâm thức, dù thiện hay ác, đều vắng bặt, và của việc thiền định về trạng thái đó.  Họ ở yên trong trạng thái thiền định như vậy liên tục trong nhiều đại kiếp.  Nhưng một khi kết quả của những hành vi trong quá khứ đã tạo ra điều kiện đó chính nó bị tiêu hao, họ bị tái sanh vào những cõi thấp vì những tà kiến của họ.  Những người này cũng không có bất kỳ cơ hội nào để thực hành Pháp.

Nói chung, thuật ngữ “các tà kiến” bao gồm những niềm tin vào sự vĩnh cữu và hư vô, là những quan niệm ở bên ngoài và đối nghịch với giáo lý của Đức Phật.  Những quan niệm như vậy làm hư hỏng tâm thức và ngăn trở chúng ta trong việc khao khát Giáo Pháp chân chính, tới nỗi chúng ta không còn cơ hội nào nữa để thực hành Pháp.  Ở đây nơi xứ Tây Tạng, bởi Đức Phật thứ hai, Đức Padmasambhava xứ Oddiyana, đã giao phó việc bảo vệ xứ sở cho mười hai Tenma, nên bả thân những tirthika thực sự không thể xâm nhập.  Tuy nhiên, bất kỳ những ai mà sự hiểu biết giống như những hiểu biết của các Tirthika và mâu thuẫn với sự hiểu biết của Chánh Pháp và những vị Thầy chân chính, vì lý do đó sẽ bị tước mất cơ hội  thực hành theo những giáo lý chân chính đó.  Tu sĩ Sunaksatra trải qua hai mươi lăm năm làm thị giả của Đức Phật, nhưng vì khô g có chút đức tin nào và chỉ ôm giữ những tà kiến, nên cuối đời bị tái sinh làm một ngạ quỷ trong một vườn hoa.

Sinh trong một thời kiếp tối tăm có nghĩa là bị tái sanh vào một thời đại không có Phật. Trong một vũ trụ không có Phật xuất hiện, thậm chí chưa ai từng được nghe đến Tam Bảo.  Bởi không có Pháp, nên không có cơ hội để thực hành nó.

Tâm thức của người câm điếc không thể hoạt động đúng đắn và tiến trình lắng nghe giáo lý, trình bày, quán chiếu về chúng, và đưa chúng vào thực hành bị trở ngại. Sự mô tả “ câm, điếc” thường để ám chỉ một khả năng nói năng khác thường.  Khi khả năng thông thường của con người để sử dụng và hiểu biết ngôn ngữ bị thiếu vắng thì người ta bị rơi vào tình trạng không có cơ hội cho Pháp.  Thế nên, phạm trù này cũng bao gồm những người mà năng lực tinh thần yếu kém khiến họ không thể thấu hiểu các giáo lý và vì vậy họ bị tước mất cơ hội thực hành chúng.

 

2.      Quán chiếu về những thuận lợi đặc biệt liên quan đến Pháp:

 

Đề mục này bao gồm năm thuận lợi cá nhân và năm thuận lợi về hoàn cảnh.

 

2.1  NĂM THUẬN LỢI CÁ NHÂN:

Ngài Long Thọ liệt kê chúng như sau:

 

Sinh ra là một người, ở nơi trung tâm, đầy đủ các khả năng,

Cuộc sống không xung đột, và có niềm tin vào Giáo Pháp

 

Không có một đời người thì thậm chí không gặp được Giáo Pháp.  Vì vậy thân người này là sự thuận lợi trợ giúp.

Nếu bạn bị sinh ra ở nơi hoang vu nơi Pháp chưa từng được nghe tới, bạn sẽ chẳng bao giờ gặp được Pháp.  Nhưng vùng mà bạn sinh ra ở nơi trung tâm là nơi Giáo Pháp được quan tâm và vì thế bạn có thuận lợi về nơi chốn.

Nếu bạn không có đầy đủ các năng lực giác quan thì đó sẽ là một chướng ngại cho việc thực hành Pháp.  Nếu bạn có đầy đủ, bạn có thuận lợi sở hữu các năng lực giác quan.

Nếu bạn có một lối sống đầy xung đột, bạn luôn đắm chìm vào những hành động tiêu cực và mâu thuẫn với Pháp.  Bởi giờ đây bạn mong muốn làm các thiện hạnh, nên đây là sự thuận lợi về ý định.

Nếu không tin vào giáo lý của Đức Phật, bạn sẽ cảm thấy không có bất kỳ thiên hướng nào về Pháp.  Việc bạn có khả năng xoay chuyển tâm thức về Pháp như giờ đây bạn đang làm, tạo nên sự thuận lợi về niềm tin.

Bởi năm thuận lợi này cần thiết để hoàn thiện bản chất của riêng ta nên chúng được gọi là năm sự thuận lợi cá nhân.

Để thực hành Giáo Pháp đích thực, chân xác, thì điều tuyệt đối cần thiết là phải là một con người.  Giả dụ bạn không có sự trợ giúp của một thân người, mà có hình tướng cao cấp nhất của đời sống trong ba cõi thấp, là hình tướng của một con thú – ngay cả con vật đẹp đẽ nhất và được đánh giá cao mà con người biết được.  Nếu có ai đó nói với bạn: “Hãy nói một lần câu Om mani padme hum, và bạn sẽ thành Phật,” bạn sẽ hoàn toàn không thể hiểu  được lời họ nói hay nắm được ý nghĩa của nó và bạn cũng không thể thốt ra được một lời.  Trong thực tế, cho dù bạn đang chết vì lạnh, bạn sẽ chẳng nghĩ ra điều gì để làm mà chỉ nằm một đống – trong khi với một người, cho dù họ có yếu ớt tới đâu chăng nữa họ cũng biết cách trú ẩn trong một hang động hay dưới một gốc cây, và có thể nhặt củi và đốt ngọn lửa để sưởi ấm mặt và tay.  Nếu loài vật kh6ng thể làm ngay cả những việc đơn giản như vậy, thì làm sao chúng có thể hình dung được việc thực hành Pháp?

Chư Thiên và chúng sinh đại loại như vậy, mặc dù họ có hình tướng siêu việt hơn, nhưng lại không đáp ứng được yêu cầu được đặt ra để thọ các giới nguyện Pratimoksha (Biệt giải thoát giới), do đó không thể hấp thu Giáo Pháp trong toàn bộ của nó.

Đối với điều mà một “vùng trung tâm” muốn truyền đạt, ta nên phân biệt giữa một vùng trung tâm có tính chất địa lý và một nơi là trung tâm trong phạm vi Giáo Pháp.

Nói về mặt địa lý, vùng trung tâm thường được nói là Toà Kim Cương tại Bồ Đề Đạo Tràng[25] ở Ấn Độ, tại trung tâm của Jambuvipa - Lục địa Phương Nam (Nam Thiệm Bộ Châu). Hàng ngàn vị Phật trong thời Hiền Kiếp đã hoàn toàn giác ngộ ở đây.  Thậm chí trong sự huỷ hoại của vũ trụ vào cuối thời kiếp, bốn nguyên tố (tứ đại) cũng không thể huỷ hoại nó, và nó tồn tại ở đó như thể được treo trong không gian. Ở trung tâm của nó mọc lên Cây Giác Ngộ (Cây Bồ Đề).  Do đó, vị trí này với tất cả những thành phố của Ấn Độ ở chung quanh, được coi là vùng trung tâm về mặt địa lý.

Trong phạm vi Giáo Pháp, một vị trí trung tâm là bất cứ nơi nào mà Pháp – giáo lý của Đức Phật - hiện hữu.  Tất cả những vùng khác được gọi là vùng ngoại vi.

Trong quá khứ xa xôi, từ thời Đức Phật đến với thế gian này, và chừng nào mà giáo lý của Ngài vẫn còn hiện hữu ở Ấn Độ, thì xứ đó là trung tâm về cả hai mặt địa lý và Giáo Pháp.  Tuy nhiên, giờ đây là lúc nó đã rơi vào tay những tirthika và Pháp của Đấng Chiến Thắng đã biến mất ở xứ sở đó, nếu xét ở việc Pháp được quan tâm ra sao thì ngay cả Bồ Đề Đạo Tràng cũng được coi là một nơi ngoại vi.

Ở thời Đức Phật, Tây Tạng, Xứ Tuyết, được gọi là “Xứ Tây Tạng biên địa,” bởi nó là một xứ thưa dân mà Giáo Pháp chưa được truyền bá.  Sau này dân số tăng dần và một vài vị vua trị vì là những hoá thân của chư Phật.  Trước tiên, Giáo Pháp xuất hiện ở Tây Tạng trong triều đại vua LhaThothori Nyentse, khi Kinh Một Trăm Lời Khẩn Nguyện và Lễ Lạy, một khuôn tsa-tsa và những vật khác rơi xuống mái cung điện.

Năm thế hệ sau, Vị Vua Pháp Songtsen Gampo, một hoá thân của Đấng Đại Bi Siêu Phàm,* xuất hiện phù hợp với những tiên tri rằng Ngài sẽ thông suốt yếu nghĩa của Kinh văn (Sutra).  Trong triều đại của Ngài, dịch giả Thonmi Sambhota được gởi tới Ấn Độ để học ngôn ngữ và văn tự Ấn Độ.  Khi trở về, Ngài giới thiệu bản mẫu tự đầu tiên cho Tây Tạng.  Ngài phiên dịch sang tiếng Tây Tạng hai mươi mốt bản Kinh và các Tantra Đức Avalokiteshvara, Điều Ẩn Mật Mãnh Liệt, và nhiều loại bản văn khác.  Bản thân Đức vua phô diễn nhiều thân tướng, và cùng với thừa tướng Gartongtse, Ngài sử dụng nhiều phương tiện kỳ diệu để bảo vệ đất nước.  Ngài tấn phong hoàng hậu cho hai công chúa, một của Trung Quốc và một của Nepal, hai vị này đã mang theo nhiều biểu tượng của thân, khẩu, ý của Đức Phật bao gồm các pho tượng được gọi là Jowo Mikyo Dorje và Jowo Sakyamuni, là những biểu tượng thật sự của Đức Phật.[26] Nhà vua xây dựng một loạt điện thờ được gọi là Thadul và yangdul, trong đó điện chính là Rasa Trulnang.[27] Ngài đã thiết lập Phật Giáo ở Tây Tạng theo cách này.

Vị kế nghiệp thứ năm của Ngài là Vua Trisong Detsen đã mời thỉnh một trăm lẻ tám vị học giả đến Tây Tạng, kể cả Đức Liên Hoa Sanh, Đạo Sư xứ Oddiyana, bật trì giữ mantra vô song, vĩ đại nhất khắp tam giới. Để giữ gìn những biểu tượng của thân tướng chư Phật, vua Trisong Detsen đã xây dựng chùa chiền gồm tu viện Samye “sự hiển lộ tự nhiên bất biến”.  Để duy trì ngữ của chư Phật (Giáo Pháp chân chính), một trăm lẻ tám dịch giả gồm cả Ngài Vairotsana vĩ đại, đã học nghệ thuật phiên dịch và đã dịch tất cả các Kinh, Luận, Tantra chính mà sau đó được thông dụng ở xứ Ấn Độ cao quý. “Bảy Người Thể Nghiệm” và những người khác đã thọ giới làm những vị tu sĩ, tạo thành Tăng Đoàn để giữ gìn tâm của chư Phật.

Từ lúc đó cho đến nay, giáo lý của Đức Phật toả sáng như mặt trời ở Tây Tạng và mặc dù có lúc thinh lúc suy, Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng chưa từng bi mai một trong các lãnh vực, dù là truyền dạy, hay chứng ngộ của nó.  Do đó, xét ở mặt tại xứ Tây Tạng Giáo Pháp được quan tâm, cho nên Tây Tạng là một xứ trung tâm.

Một người thiếu bất kỳ cái nào trong năm năng lực của giác quan đều không thể đáp ứng các yêu cầu được đưa ra để thọ giới nguyện của tu viện.  Ngoài ra, những ai không may mắn để có thể được nhìn thấy những biểu tượng của Đấng Chiến Thắng nhằm khơi dậy lòng sùng mộ của họ, hoặc để đọc hay nghe những giáo lý quý báu và tuyệt hảo như những chất liệu cần thiết cho việc nghiên cứu và quán chiếu, sẽ hoàn toàn không thể tiếp nhận Giáo Pháp.

Nói đúng ra, “kiểu sống xung đột” ám chỉ những cách sống của những người sinh ra trong cộng đồng các thợ săn, gái điếm và v.v…những người dính liếu vào những hành vi tiêu cực này từ tuổi thanh xuân.  Nhưng trong thực tế cũng bao gồm bất kỳ những ai mà mỗi tư tưởng, lời nói và hành vi của họ trái nghịch với Pháp - thậm chí đối với những người không sinh vào những kiểu sống như vậy cũng có thể dễ dàng lọt vào những lối sống đó sau này. Vì thế, điều quan trọng là tránh làm bất cứ điều gì đối nghịch với Giáo Pháp chân chính.

Nếu bạn không đặt niềm tin nơi Phật Pháp mà lại tin vào các vị Trời, naga (Rồng) đầy năng lực và v.v…hay tin vào những học thuyết khác như giáo thuyết của các tirthika, thì vì thế, dù bạn có thể đặt niềm tin nơi họ nhiều tới đâu chăng nữa, không ai trong số họ có thể bảo vệ bạn thoáit khỏi những đau khổ trong luân hồi hoặt khỏi sự tái sinh vào những cõi thấp.  Nhưng nếu bạn đã có được niềm tin đúng đắn hợp lý nơi giáo lý của Đấng Chiến Thắng, nó hợp nhất sự truyền dạy và chứng ngộ, thì không còn nghi ngờ gì nữa bạn là một bình chứa thích hợp cho Giáo Pháp chân chính.  Và đó là điều vĩ đại nhất trong năm sự thuận lợi cá nhân.

 

2.2  NĂM THUẬN LỢI THUỘC HOÀN CẢNH:

 

Một vị Phật đã từng xuất hiện và thuyết giảng Giáo Pháp

Giáo lý của Ngài vẫn hiện hữu và có thể được tuân theo,

Đó là những bậc có thiện tâm đối với những người khác.

 

Những người không được sinh ra trong một thời kiếp chói sáng, là thời có một vị Phật xuất hiện, thậm chí không bao giờ được nghe nói tới Giáo Pháp.  Nhưng giờ đây chúng ta đang sống trong một kiếp đã có một vị Phật xuất hiện, và vì vậy chúng ta sở hữu thuận lợi có sự hiện diện của vị thầy đặc biệt.

Mặc dù một vị Phật đã xuất hiện, nhưng nếu Ngài không giảng dạy thì sẽ chẳng có ai được lợi ích gì.  Nhưng bởi Đức Phật đã chuyển Pháp Luân phù hợp với ba cấp độ nên chúng ta có sự thuận lợi của việc giảng dạy Giáo Pháp

Dù Ngài đã giảng dạy, nhưng nếu giáo lý của Ngài đã tàn lụi thì nó sẽ không còn hiện diện ở đó để giúp ích gì cho chúng ta.  Nhưng bởi thời kỳ mà giáo lý còn tồn tại chưa chấm dứt, nhờ đó chúng ta có sự thuận lợi về thời gian.

Dù giáo lý còn tồn tại, nhưng trừ phi chúng ta tuân theo, còn không chúng chẳng thể đem lại lợi ích gì cho ta.  Nhưng bởi chúng ta đã hiểu biết Giáo Pháp, nên ta có sự thuận lợi về vận may của riêng ta.

Dù chúng ta có hiểu biết Giáo Pháp nhưng nếu không có hoàn cảnh thuận lợi được một vị thầy tâm linh chấp nhận thì chúng ta sẽ không bao giờ biết được Giáo Pháp thật sự là gì.  Nhưng bởi một vị thầy đã chấp nhận ta nên chúng ta có sự thuận lợi về lòng bi mẫn phi thường của Ngài.

Bởi năm yếu tố này cần được đầy đủ trọn vẹn về mặt hoàn cảnh hơn là chính chúng ta, nên chúng được gọi là năm thuận lợi thuộc hoàn cảnh. Thời gian để vũ trụ hình thành, hiện hữu, bị huỷ diệt và tồn tại trong một trạng thái của sự trống không (thành, trụ, hoại, không) được gọi là một kalpa.  Một kalpa trong đó một vị Phật Toàn Giác xuất hiện trên thế gian được gọi là một “kiếp chói sáng;” trong khi thời kiếp không có một vị Phật xuất hiện được gọi là một “kiếp tối tăm.”  Từ xa xưa, trong Đại Kiếp Hỷ Lạc Hiển Lộ có ba mươi ba ngàn vị Phật xuất hiện.  Tiếp theo là một trăm kiếp (kalpa) tối tăm.  Sau đó, trong Kiếp Viên Mãn, tám trăm triệu vị Phật đã xuất hiện, rồi lại tiếp theo là một trăm kiếp không có Giáo Pháp.  Rồi tới tám trăm bốn mươi triệu vị Phật xuất hiện trong Kiếp Tối Hảo, sau đó là năm trăm kiếp tối tăm.  Trong Kiếp Hỷ Kiến, tám trăm triệu vị Phật xuất hiện và sau đó là bảy trăm kiếp tối tăm.  Sáu mươi tư ngàn vị Phật xuất hiện trong Hỉ Kiếp.  Rồi tới kiếp của chính chúng ta, Hiền Kiếp.

Trước khi kiếp của chúng ta xuất hiện, vũ trụ gồm một tỳ thế giới này là một đại dương bao la mà trên bề mặt của nó xuất hiện một ngàn hoa sen ngàn-cánh.  Khi tự hỏi làm thế nào điều này có thể xảy ra, nhờ sự thấu thị chư Thiên của Trời Phạm Thiên đã minh xác được điều này để tuyên bố rằng trong kiếp này một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện.  Họ nói: “Đây sẽ là một kiếp tốt lành,” và “Hiền” (tốt lành) trở thành tên của nó.

Từ thời đại khi thọ mạng của chúng sinh là tám mươi ngàn năm và Đức Phật Người Tiêu Diệt Luân Hồi xuất hiện, và cho tới khi chúng sinh sẽ sống lâu không thể tính đếm và Đức Phật Ước Nguyện Vô Tận sẽ xuất hiện, một ngàn vị Phật sẽ an trụ trong thế gian này trên Toà Kim Cương tại trung tâm Châu Jambudvipa (Diêm Phù Đề).  Mỗi vị Phật trong chư Phật này sẽ đạt được Phật quả viên mãn ở đó và chuyển Pháp Luân.  Vì thế, kiếp hiện tại của chúng ta là một kiếp chói sáng.

Theo sau nó là sáu mươi kiếp xấu, ngoại vi, và sau đó, trong Kiếp Vô Số, mười ngàn vị Phật sẽ xuất hiện.  Rồi mười ngàn kiếp xấu khác sẽ xảy ra sau đó.  Trong sự luân phiên của những kiếp chói sáng và tối tăm này, nếu ngẫu nhiên chúng ta được sinh ra trong một kiếp tối tăm, thì thậm chí chúng ta sẽ không bao giờ nghe được rằng một điều là Tam Bảo.

Ngoài ra, như Đấng Vĩ Đại xứ Oddiyana đã chỉ rõ, riêng Mantra Bí Mật Kim Cang Thừa chỉ được truyền dạy một cách hiếm hoi:

 

Từ lâu xa về trước, ngay trong kiếp đầu tiên là Kiếp Mạng Lưới Toàn Thiện, giáo lý Mantra Thừa Bí Mật được Đức Phật có danh hiệu là Pháp Vương-Từng-Xuất Hiện truyền bá và hết sức lừng danh.  Giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà hiện nay chúng ta đang có cũng bao gồm Mantra Thừa Bí Mật.  Trong thời gian mười triệu kiếp, trong Kiếp Mạng Lưới Hoa, Đức Phật Mansjushri (Văn Thù) sẽ xuất hiện, như ta đang xuất hiện, để khám phá giáo lý Mantra Bí Mật trên một phạm vi rộng lớn. Đây là bởi vì chúng sanh trong ba kếp này là những người thích hợp để lãnh hội Mantra Thừa Bí Mật, và lý do mà giáo lý Mật Thừa không xuất hiện vào những thời điểm khác là bởi chúng sanh ở những thời đó không có khả năng sử dụng những giáo lý này.[28]

 

Trong Hiền Kiếp này, vào thời hiện tại khi thọ mạng của con người là một trăm năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni viên mãn đã xuất hiện trên thế gian, vì thế nó là một kiếp chói sáng.

Giả sử một vị Phật đã xuất hiện, nhưng Ngài vẫn còn ở trong thiền định và chưa giảng dạy Giáo Pháp.  Chừng nào mà ánh sáng Giáo Pháp của Ngài chưa hiển hiện thì sự xuất hiện của Ngài kh6ng tác động gì tới chúng ta.  Điều đó cũng giống như thể Ngài chưa từng xuất hiện.

Khi đạt được Phật quả hoàn toàn và viên mãn trên Toà Kim Cương, Bậc Thầy của chúng ta đã thốt lên:

 

Ta đã tìm ra một Giáo Pháp giống như chất cam lồ,

Sâu xa, an bình, giản dị, chói sáng, dể hiểu.

Nếu Ta giảng nó, sẽ chẳng ai hiểu nổi,

Vì thế Ta sẽ ở đây, tịch lặng trong rừng.

 

Do đó, Ngài không giảng dạy trong bảy tuần cho tới khi Trời Phạm Thiên (Brahma) và Đế Thích (Indra) khẩn cầu Ngài chuyển Pháp Luân.

Ngoài ra, nếu những ai nắm giữ giáo lý chân chính mà không giảng dạy nó, thì Giáo Pháp khó có bất kỳ lợi ích thực sự nào cho chúng sanh.  Ví dụ Ngài Smrtijnana vĩ đại xứ Ấn Độ đã đến Tây Tạng vì mẹ Ngài tái sinh ở đây trong một địa ngục phù du.  Người thông dịch của Ngài đã chết trong cuộc hành trình, và Ngài đã lang thang khắp tỉnh Kham và không thể nói được một tiếng Tây Tạng, sau đó Ngài trở thành một người chăn cừu rồi chết ở đó mà không đem lại thật nhiều lợi ích cho bất kỳ ai.  Sau này khi Ngài Jowo Atisha đến Tây Tạng và biết được điều gì đã xảy ra, Ngài than khóc: “Đáng buồn thay! Dân Tây Tạng quí vị kém phước quá! Không đâu ở Ấn Độ, dù Đông hay Tây mà kcó được một học giả uyên thâm hơn Ngài Smrtijnana,” và chắp hai bàn tay lại, Ngài khóc.

Đối với chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp Luân trên ba cấp độ và khi hiển lộ vô số hình tướng phù hợp với nhu cầu và khả năng của những người được cứu giúp, Ngài dẫn dắt đệ tử qua chín thừa của giáo lý để đạt được sự trưởng thành và giải thoát.

Ngay cả trong một kiếp có Đức Phật xuất hiện và ban giáo lý, một khi thời gian để giáo lý này tồn tại đã tới lúc chấm dứt và Giáo Pháp chân chính mà Ngài đã dạy biến mất thì hoàn toàn giống như một kiếp tối tăm.  Thời kỳ giữa sự biến mất giáo lý của một vị Phật và giáo lý được truyền dạy của một vị Phật tương lai được mô tả là “không có Pháp.”  Ở những nơi chốn may mắn mà chúng sanh có đầy đủ công đức thì có các vị Phật Độc Giác xuất hiện, nhưng kinh điển không được giảng dạy hay thực hành.

Ngày nay, chúng ta vẫn còn có những giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.  Sự tồn tại của chúng đi theo một chuỗi gồm mười cấp độ.  Trước tiên, có ba thời kỳ, mỗi một thời kỳ gồm năm trăm phần.[29]  Trong thời gian này xuất hiện “Giáo lý tâm yếu của Đức Phổ Hiền,” đó là Quả.[30] Sau đó là ba thời kỳ, mỗi một thời kỳ gồm năm trăm phần cho sự thành tựu.[31] Tiếp theo là ba thời kỳ mà mỗi một thời kỳ gồm năm trăm phần cho sự trao truyền.  Cuối cùng, một thời kỳ gồm năm trăm phần xuất hiện khi chỉ còn lại những biểu tượng.  Nói chung, điều này tạo nên mười thời kỳ, mỗi thời kỳ gồm năm trăm phần.  Hiện chúng ta ở thời kỳ thứ bảy hay thứ tám.  Chúng ta hiện đang sống trong một thời đại phát triển năm sự suy hoại: những sự suy hoại thuộc thọ mạng, lòng tin, cảm xúc, thời gian và chúng sinh.  Tuy nhiên, giáo lý về sự trao truyền và chứng ngộ vẫn còn hiện hữu.  Bởi chúng không mai một nên chúng ta vẫn sở hữu sự thuận lợi có được toàn bộ Giáo Pháp.

 

Tuy nhiên, sự kiện Giáo Pháp vẫn còn hiện diện sẽ không thích hợp trừ phi bạn tận dụng được chúng - giống như mặt trời mọc, mặc dù nó chiếu sáng khắp thế gian nhưng cũng không tạo được một tác động nhỏ bé nhất cho một người mù.  Và bản thân Giáo Pháp của sự trao truyền và thực hành không thể thâm nhập vào tâm thức bạn, cũng như nước trong một cái hồ lớn không thể làm người lữ hành đang đi tới bờ hết khát trừ phi họ thực sự uống nước. 

Việc đi vào Giáo Pháp chỉ nhằm bảo vệ bản thân bạn thoát khỏi bệnh tật và những ảnh hưởng xấu trong cuộc đời này, hoặc vì bạn sợ hãi những đau khổ của ba cõi thấp trong những đời sau, được gọi là “Giáo Pháp như sự bảo vệ chống lại sợ hãi,” và không phải là cách thức đúng đắn để khởi hành trên con đường.

Việc đi vào Giáo Pháp chỉ để có thực phẩm, quần áo và v.v…trong đời này, hoặc để có được phần thưởng dễ chịu là một tái sanh linh thánh hay lày người trong đời sau, được gọi là “Giáo pháp như việc tìm kiếm sự ưu việt”.

Việc đi vào Giáo Pháp mà hiểu rằng toàn bộ sự luân hồi đều không có ý nghĩa, nỗ lực tìm ra một con đường để giải thoát khỏi nó thì được gọi là “áp dụng giáo lý bằng cách đạt tới khởi điểm của con đường.”

 

Cho dù bạn bắt đầu thực hành Giáo Pháp, nhưng điều ấy cũng sẽ chẳng ích lợi gì trừ phi bạn được một vị thầy tâm linh chấp thuận.  Trong Trí Tuệ Siêu Việt Cô Đọng nói:

Đức Phật và Giáo Lý thì thuộc về vị thầy tâm linh

Đấng Chiến Thắng, hiện thân của mọi phẩm tính tốt lành đã nói như thế.

 

Giáo lý của Đức Phật thì bao la, sự trao truyền thì vô số kể, và nó bao trùm một phạm vi gồm những chủ đề vô tận.  Nếu không nương tựa và những giáo huấn cốt tuỷ của một vị thầy, chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được làm cách nào để cô đọng các điểm trọng yếu của tất cả những giáo lý đó và đưa chúng vào thực hành.

Có một lần, khi Ngài Jowo Atisha đang ở Tây Tạng thì Khu, Ngok và Drom* hỏi: “Đối với những người đạt giải thoát và sự toàn giác thì những kinh điển, những luận giải của chúng, hay những giáo huấn khẩu truyền của vị Thầy, cái nào quan trọng hơn?”

Ngài Atisha trả lời:

“Các giáo huấn của vị Thầy”.

“Tại sao vậy?”

“Bởi khi đi vào thực hành – cho dù các ông có thể giảng được hơn toàn bộ Tripitaka (Tam Tạng) bằng trí nhớ và hết sức thiện xảo trong khoa siêu hình – nhưng nếu không có hướng dẫn thực tế của vị Thầy thì các ông và Giáo Pháp sẽ không thể hợp nhất được.”

Họ tiếp tục: “Như vậy thì có phải điểm chính của những giáo huấn của vị Thầy là để trì giữ ba giới nguyện và để nổ lực làm việc tốt lành với thân, khẩu và ý?”

“Điều đó chẳng có chút lợi ích nào,” Ngài Atisa trả lời.

“Làm sao có thể như vậy được?” họ kêu lên kinh ngạc.

“Các ông có thể giữ ba giới nguyện một các toàn hảo, nhưng trừ phi ông nhất quyết giải thoát bản thân khỏi tam giới trong vòng luân hồi, còn không nó chỉ tạo thêm những nguyên nhân cho luân hồi sinh tử.  Các ông có thể nỗ lực với thân, khẩu, ý cả ngày lẫn đêm để làm việc tốt lành, nhưng trừ phi các ông biết cách hồi hướng công đức cho sự giác ngộ viên mãn, nếu không thì hai hay ba niệm tưởng sai lạc cũng đủ để phá hủy toàn bộ nỗ lực đó.  Các ông có thể là những thầy và thiền giả, đầy đủ sự sùng mộ và uyên bác, nhưng trừ khi tâm các ông được xoay chuyển khỏi tám mối quan tâm tầm thường, còn không thì bất kỳ điều gì các ông làm cũng sẽ chỉ là để cho cuộc đời hiện tại này, và các ông sẽ không thể gặp được con đường đem lại lợi ích cho những đời sau.”

Điều này minh hoạ tầm quan trọng của việc được một vị Thầy, một thiện tri thức quan tâm chăm sóc.

 

Hãy tra xét cuộc đời và những hoàn cảnh của riêng bạn đối với mỗi một trong tám sự tự do và mười thuận lợi, nếu bạn nhận ra rằng mọi điều kiện thuận lợi này đều đang hiện diện, thì bạn có cái được gọi là “đời người được phú bẩm mười tám sự tự do và thuận lợi.”  Tuy nhiên, Đấng Pháp Vương Toàn Giác Longchenpa, trong tác phẩm Kho Tàng Ngọc Như Ý của Ngài đã phân định mười sáu điều kiện phụ ngăn cản bất kỳ cơ hội thực hành Pháp nào – tám hoàn cảnh xâm phạm,[32] và tám thiên hướng không thích hợp[33]- mà dưới thế lực của những điều này, điều quan trọng là không để bị suy sụp. Ngài giảng:

Sự rối loạn bởi năm cảm xúc, sự ngu si, bị những ảnh hưởng độc hại thống trị,

Sự biếng lười, bị tràn ngập bởi hậu quả của những hành vi xấu trong quá khứ,

Sự lệ thuộc vào người khác, tìm kiếm sự bảo vệ thoát khỏi những nguy hiểm, và sự thực hành giả dối.

Đây là tám hoàn cảnh xâm hại khiến không được giải thoát.

Bị cột trói bởi những ràng buộc của ta, sự truy lạc trắng trợn,

Không bất mãn với luân hồi, hoàn toàn thiếu niềm tin,

Sự vui thích trong những hành vi xấu ác, thiếu quan tâm đến Giáo Pháp,

Lơ là các giới nguyện và samaya:

Đây là tám thiên hướng không thích hợp khiến không được giải thoát.

 

2.3  TÁM HOÀN CẢNH XÂM HẠI KHIẾN KHÔNG ĐƯỢC TỰ DO THỰC HÀNH PHÁP

Những người mà trong họ năm độc –đó là những cảm xúc tiêu cực như căm ghét kẻ thù, si mê bạn bè và những người thân thuộc và v.v..hết sức mạnh mẽ, đôi khi có thể mong ước rằng họ có thể thực hành một ít Pháp chân chính.  Nhưng năm độc quá mạnh, thường xuyên thống trị tâm thức họ và ngăn cản họ không bao giờ thành tựu Giáo Pháp một cách đúng đắn.

Những người rất ngu đần, thậm chí không có chút thông tuệ nào, có thể đi vào Giáo Pháp nhưng bởi không thể hiểu được một từ duy nhất của giáo lý hay ý nghĩa của nó, nên họ không thể học tập hay quán chiếu và thiền định về Pháp.

Một khi người ta được nhận làm đệ tử của một vị thầy giả mạo là người giảng dạy quan điểm và hành động trong một cách thế lầm lạc, tâm thức họ sẽ bị dẫn dắt trên con đường sai lạc và không phù hợp với Giáo Pháp chân chính.

Những người muốn học Pháp nhưng quá lười biếng, không có lấy một chút kiên nhẫn nào, sẽ chẳng bao giờ thành tựu nó bởi họ bị sập bẫy quá nặng trong sự lười nhác và do dự của chính mình.

Những chướng ngại và hành động tiêu cực của một số người mạnh mẽ tới nỗi, mặc dù sự nỗ lực mà họ đưa vào Giáo Pháp, họ sẽ thất bãi trong việc phát triển bất kỳ phẩm tính đúng đắn nào trong tâm thức họ.  Sự chồng chất những ác hạnh làm họ choáng ngợp, và họ sẽ đánh mất tín tâm vào giáo lý mà không nhận ra rằng tất cả là do những hành vi trong quá khứ của chính họ.

Những người nô lệ, cho người nào khác và đánh mất sự tự chủ có thể muốn thực hành Pháp; nhưng người làm chủ họ không cho phép họ thực hành.

Một số người hiểu được Giáo Pháp thoát khỏi sự sợ hãi cuộc đời này - đến nỗi họ có thể thiếu thực phẩm hay quần áo, hoặc phải trải qua những phiền não khác.  Nhưng bởi họ không có sự xác tín sâu xa nơi Pháp, nên họ tự nộp mình cho những tập quán xưa cũ của mình và dính mắc vào những sự việc không phải là Pháp.

Những người giả mạo khác, qua việc khoe khoang Giáo Pháp, cố gắng thâu đoạt những của cải, sự cung phụng và uy tín.  Đứng trước người khác họ đội lốt hành giả, nhưng trong tâm thức thì họ chỉ quan tâm tới cuộc đời này, vì thế họ đã cách xa con đường giải thoát.

Đây là tám hoàn cảnh khiến không thể tiếp tục thực hành Pháp.

 

2.4  TÁM THIÊN HƯỚNG KHÔNG THÍCH HỢP KHIẾN KHÔNG CÓ TỰ DO ĐỂ THỰC HÀNH PHÁP:

Những người bị trói buộc chặt chẽ vào những giao kết, tài sản, khoái lạc, con cái, thân quyến và v.v..thuộc thế gian, quá bận tâm với những nỗ lực căng thẳng gây ra bởi những sự việc này tới nỗi họ không có thời gian để thực hành Pháp.

Một số người không có chút nhân tính nào, và bản chất họ suy đồi tới nỗi họ không thể sửa đổi cách hành xử của họ.  Ngay cả một vị thầy chân chính cũng sẽ nhận ra rằng thật khó đặt họ trên con đường cao quý.  Như những đấng siêu phàm trong quá khứ đã nói: “Những năng lực của một đệ tử có thể được định hình, nhưng tánh khí căn bản của họ thì không thể.”

Người không cảm thấy khiếp sợ chút nào khi nghe nói tới việc tái sanh vào những cõi thấp và những bất hạnh trong vòng luân hồi, hay khi đối diện với những đau khổ của cuộc đời hiện tại này, đã không có bất kỳ quyết tâm nào để giải thoát chính mình khỏi vòng sinh tử luân hồi, và vì thế không có lý do gì để dấn mình vào sự thực hành Pháp.

Những người hoàn toàn không có niềm tin nào, dù tin nơi Giáo Pháp hay vị Thầy, đóng chặt bất kỳ lối vào giáo lý nào và ngăn chặn cổng dẫn tới con đường giải thoát.

Những người thích thú trong hành động gây tổn hại hay tiêu cực, và những người thất bại trong việc kiểm soát tư tưởng, ngôn ngữ và hànhvị của họ, thì không có bất kỳ phẩm tính cao quý nào và đã xa rồi Giáo Pháp.  Một số người không quan tâm tới những giá trị tâm linh và Giáo Pháp hơn một con chó đang ăn cỏ.  Bởi họ không cảm thấy nhiệt thành với Giáo Pháp, nên những phẩm tính của Pháp sẽ không baogiờ phát triển trong tâm thức họ.

Bất kỳ ai khi đã đi vào Thừa Căn Bản (Tiểu Thừa) mà lại vi phạm giới nguyện và cam kết Bồ Đề Tâm, thì chẳng còn chổ nào khác để tới ngoài những cõi thấp.  Họ sẽ không thoát khỏi những trạng thái ở đó không có cơ hội để thực hành Pháp.

Bất kỳ ai khi đã đi vào Mantra Thừa Bí Mật mà lại vi phạm những cam kết samaya với vị Thầy và các huynh đệ tâm linh của họ, sẽ gây nên sự huỷ hoại của chính họ và của những người kia (vị Thầy và huynh đệ) khi huỷ diệt bất kỳ triển vọng thành tựu nào.

Đây là tám thiên hướng làm xa rời Giáo Pháp và thổi tắt ngọn đèn giải thoát.

Trước khi mười sáu yếu tố khiến không có cơ hội thực hành này bị loại trừ một cách thận trọng, con người trong những thời đại suy đồi này có thể tỏ ra như thể họ có đầy đủ những sự tự do và thuận lợi và là những hành giả đích thực của Giáo Pháp.  Tuy nhiên, vị thủ lãnh ngự trên chiếc ngai và vị lạt ma ngồi dưới chiếc lọng,[34] vị ẩn sĩ trong chốn núi non cô tịch, người đã từ bỏ những chính sự, bà bất kỳ ai có thể có một đánh giá cao về giá trị của bản thân ông ta - mỗi người có thể nghĩ rằng ông đang thực hành Pháp, nhưng chừng nào mà ông ta còn ở dưới thế lực của những điều kiện phụ thuộc đầy giới hạn này thì ông ta vẫn không ở trên con đường thực sự.

Vì thế, trước khi mù quán mang lấy những hình tướng của Giáo Pháp, trước tiên hãy cẩn thận kiểm tra tình trạng của bản thân bạn xem bạn có đủ ba mươi bốn phương diện của sự tự do và thuận lợi hay không.  Nếu bạn có đầy đủ chúng, hãy hoan hỷ và quán chiếu sâu xa về chúng nhiều lần.  Hãy tự nhắc mình rằng giờ đây khi mà cuối cùng bạn đã có đầy đủ những sự tự do và thuận lợi rất khó có thể tìm được, thì bạn sẽ không lãng phí chúng ra sao; cho dù bất kỳ điều gì xảy ra, bạn cũng sẽ thực hành Giáo Pháp chân thực.  Tuy nhiên, bạn nên tìm kiếm một số khía cạnh bị thiếu sót, cố gắng đạt được chúng bằng bất kỳ phương tiện nào có thể có được.

Trong mọi lúc, bạn nên chú tâm khảo sát cẩn thận xem bạn có tất cả những yếu tố của tự do và thuận lợi hay không.  Nếu bạn không kiểm tra, và bất kỳ một trong những yếu tố này bị thiếu sót, thì bạn sẽ bị mất cơ hội để thực sự hành Pháp. Cuối cùng, ngay cả việc thực hiện duy nhất một công việc thứ yếu hàng ngày cũng đòi hỏi nhiều chất liệu và điều kiện phụ thuộc lẫn nhau được hội tụ đồng thời.  Không đáng kinh ngạc sao khi sự chứng ngộ mục đích tối hậu của chúng ta – Giáo Pháp – thì không thể có được nếu không có sự tiếp hợp của nhiều yếu tố liên kết với nhau?

Hãy hình dung một lữ khách muốn pha một ít trà.  Việc pha trà liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau – cái bình, nước, cũi, lửa và v.v…Trong những yếu tố này, chỉ riêng việc đánh lửa sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu đá lửa, thép, bùi nhùi, hai bàn tay của lữ khách và v.v…Nếu chỉ thiếu một yếu tố chẳng hạn như bùi nhùi, thì sự thực là dù người lữ khách có đủ mọi thứ khác thì cũng chẳng ích lợi gì.  Cũng thế, nếu thậm chí một yếu tố của những sự tự do và thuận lợi bị thiếu sót thì sẽ không có chút cơ hội nào để thực hành Giáo Pháp chân thực.

Nếu kiểm soát cẩn thận tâm bạn, bạn sẽ thấy rằng ngay cả tám sự tự do và mười thuận lợi căn bản cũng rất khó đạt được, và nhận ra là có đủ mười điều thuận lợi thì thậm chí còn hiếm hoi hơn việc có tám sự tự do.

Một số được sinh ra làm người, với đầy đủ mọi năng lực nguyên vẹn và ở trong vùng trung tâm, nhưng lại là những người trở nên dính mắc vào một lối sống mâu thuẫn với Giáo Pháp và không có lòng tin vào giáo lý của Đấng Chiến Thắng, thì chỉ có ba thuận lợi.  Nếu họ có được một trong hai thuận lợi kia thì họ vẫn chỉ có bốn điều.  Giờ đây, để có được một cách sống hoàn toàn không mâu thuẫn với Giáo Pháp thì cực kỳ khó khăn.  Nếu bất kỳ tư tưởng, lời nói và hành vi nào của một người đều tiêu cực và những động cơ của họ chỉ nhằm tới cuộc đời này, thì trong thực tế cho dù họ nổi tiếng là một người tốt và uyên bác, cách sống của họ cũng mâu thuẫn với Giáo Pháp.

Cũng áp dụng tương tự cho năm thuận lợi thuộc về hoàn cảnh.  Nếu một vị Phật xuất hiện, giảng dạy Giáo Pháp và giáo lý vẫn còn hiện hữu, nhưng nếu một người không đi vào Giáo Pháp, thì người đó chỉ có ba trong số các thuận lợi đó.  Ở đây một lần nữa, “đi vào Pháp” không đơn giản có nghĩa là thỉnh cầu một vài giáo lý và được ban cho giáo lý đó.  Điểm khởi đầu của con đường giải thoát là sự xác tín rằng toàn bộ vòng luân hồi là vô nghĩa và sự quyết tâm chân thật giải thoát khỏi nó.  Để đi trên con đường Đại Thừa, điều cốt yếu là thành thật khơi dậy Bồ Đề Tâm. Điều tối thiểu là phải có niềm tin không thể lay chuyển được nơi Tam Bảo đến nỗi bạn không bao giờ từ bỏ những điều này cho dù để cứu mạng mình.  Không có điều đó thì việc chỉ đơn giản trì tụng những lời cầu nguyện và mặc những chiếc y vàng không phải là bằng chứng bạn đã đi vào Giáo Pháp.

Hãy bảo đảm rằng bạn biết cách nhận ra mỗi một thứ trong những sự tự do và thuận lợi này, và hãy tự kiểm tra là bạn có chúng hay không.  Đây là vấn đề trọng yếu.

3.   Quán chiếu về những hình ảnh cho thấy khó tìm được sự tự do và thuận lợi ra sao:

Đức Phật nói rằng việc có được thân người còn khó hơn việc một con rùa trồi lên từ đáy biển ngẫu nhiên chui đầu vào cái lỗ của một cáci ách bằng gỗ dập dình trên mặt đại dương bởi những cơn sống khổng lồ.

Hãy hình dung toàn thể vũ trụ gồm một tỉ thế giới như một đại dương bao la. Một cái ách trôi nổi trên mặt biển, đó là một miếng gỗ có khoét một cái lỗ để tròng quanh sừng trâu bò được dùng kéo xe.  Cái ách này bị song biển làm cho nó trôi nổi đó đây, khi thì hướng đông khi thì hướng tây, không bao giờ ở một chỗ dù trong chốc lát. Ở đáy sâu của đại dương có một con rùa mù cứ một trăm năm lại nổi lên mặt nước một lần.[35] Việc con rùa và cái ách có thể gặp được nhau thì cực kỳ khó xảy ra.  Bản thân cái ách là vật vô tri; con rùa thì không có ý định tìm ra cái ách. Con rùa bị mù không thể dùng mắt để nhận ra cái ách.  Nếu cái ách đứng yên ở một chỗ, thì có thể có một cơ hội để chúng gặp gỡ nhau; nhưng nó lại di chuyển liên tục.  Nếu con rùa phải sử dụng toàn bộ thời gian để bơi quanh mặt biển thì có lẽ nó có thể gặp cái ách; nhưng nó chỉ nổi lên duy nhất một lần trong một trăm năm.  Do đó những cơ hội để con rùa và cái ách gặp nhau thì hết sức nhỏ nhoi.  Tuy nhiên, nhờ cơ hội mỏng manh ấy mà con rùa vẫn hoàn toàn có thể chui đầu vào cái ách.  Nhưng Kinh điển nói rằng so với điều đó thì việc có được hiện hữu làm người với những sự tự do và thuận lợi thì thậm chí còn khó hơn. Tổ Long Thọ mô tả điều này trong Lời Khuyên cho Vua Surabhibhadra.[36]

 

Thật khó xảy ra việc một con rùa mù có thể ngẫu nhiên trồi lên chui đầu vào một cái ách dập dình trên một đại dương bao la;

 

Và tuy thế so với việc có được một đời người thì việc tái sanh vào cõi súc sinh còn kém may mắn xa

Do đó, Ôi Đức Vua,

Hãy thực hành Giáo Pháp chân chính để vận may của Ngài kết thành quả!

 

Và Ngài Santideva nói:

Đức Phật đã tuyên bố rằng giống như một con rùa ngẫu nhiên có thể

Đặt đầu nó trong một cái ách trôi dạt trên đại dương không bờ bến,

Việc sinh ra làm người này thật khó tìm được.

 

Sự khó khăn của việc sinh làm thân người cũng được so sánh với việc ném những hạt đậu khô vào một bức tường trơn láng mà hạt đậu lại dính được vào đó, hay việc đặt cân bằng một nhúm đậu trên đầu mũi kim dựng đứng - một việc mà thậm chí chỉ làm với một hạt đậu duy nhất cũng đã đủ khó! Điều quan trọng là phải hiểu rõ những sự so sánh này, chúng được rút ra từ Kinh Niết Bàn, và những so sánh tương tự ở trong các bản văn khác.

 

3.      Quán chiếu trên những sự so sánh bằng số lượng

Khi bạn khảo sát những con số tương đối các loại chúng sanh khác nhau, bạn có thể  cảm kích rằng để được sinh ra làm một con người thì hoàn toàn khó có thể có được.  Qua cách minh hoạ, ta được biết rằng những cư dân trong các địa ngục thì nhiều như sao trong bầu trời đêm, những ngạ quỷ thì không nhiều hơn những ngôi sao được thấy ban ngày; và nếu ngạ quỷ nhiều như sao ban đêm, thì súc sanh chỉ nhiều như những vì sao ban ngày; và nếu súc sanh nhiều như sao ban đêm, thì chư thiên và con người chỉ như sao ban ngày.

Cũng có nói rằng chúng sanh trong địa ngục nhiều như bụi trong toàn thể thế giới, ngạ quỷ nhiều như các sông Hằng, súc sanh nhiều như những hạt lúa mạch trong một thùng bia,[37] và Atula nhiều như những bông tuyết trong một trận bão tuyết – nhưng chư thiên và con người thì ít như những hạt đất trong một móng tay.

Đẩ có được thân tướng như bất kỳ chúng sanh nào trong các cõi cao cũng đã là hiếm có, nhưng có được một đời người với đầy đủ những sự tự do và thuận lợi thì lại càng hy hữu hơn nữa.  Chúng ta có thể tự thấy rằng vào bất kỳ lúc nào nếu so với loài vật thì loài người ít ỏi hơn biết bao.  Hãy nghĩ xem có bao nhiêu sâu bọ sống trong một cục đất và mùa hè, hay có bao nhiêu con kiến trong một tổ kiến duy nhất - mới chỉ nhiều bằng số người trong toàn thể thế giới.  Nhưng ngay trong nhân loại, chúng ta có thể thấy rằng so với tất cả những ai sinh trong những miền xa xôi hẻo lánh nơi mà Giáo Pháp chưa từng xuất hiện, thì những người sinh ra ở những nơi Giáo Pháp đã được truyền bá thì đặc biệt hiếm hoi.  Và ngay cả trong những người đó cũng chỉ có một số rất ít người có đủ những sự tự do và thuận lợi.

Với tất cả những viễn cảnh này trong tâm, bạn nên tràn đầy hoan hỷ rằng bạn thực sự có được đầy đủ mọi sự tự do và thuận lợi. 

Một đời người có thể được gọi là một “đời người quý báu” chỉ khi nào nó đầy đủ mọi khía cạnh của những sự tự do và thuận lợi, và từ đó trở đi nó mới thực sự trở nên quý báu.  Nhưng chừng nào mà những khía cạnh đó chưa đầy đủ, thì cho dù sự hiểu biết, kiến thức và tài năng trong những sự việc thông thường của bạn có rộng lớn tới đâu chăng nữa, bạn cũng không có được một đời người quý báu.  Bạn có cái được gọi là một đời người bình thường, một đời người đơn thuần, đời người không may mắn, đời người vô nghĩa, hay đời người trở về tay không. Nó cũng giống như một việc tay cầm ngọc như ý mà không biết sử dụng nó, hay từ một xứ sở ngập đầy châu báu mà trở về trắng tay.

 

Tình cờ gặp được một viên ngọc quý

Thì chẳng đáng gì đối với việc tìm được đời người quý báu này.

Hãy nhìn xem những kẻ không ngao ngán luân hồi

Lãng phí cuộc đời ra sao!

 

Chiếm đoạt toàn thể một vương quốc

Thì chẳng đáng gì đối với việc gặp được một vị Thầy toàn hảo.

Hãy nhìn những người không có lòng sùng kính

Đối xử với vị Thầy như ngang hàng với họ ra sao!

 

Được đứng đầu một tỉnh

Thì chẳng đáng gì đối với việc thọ Bồ Tát giới.

Hãy nhìn những người không có lòng bi mẫn

Ném bỏ những giới nguyện của họ ra sao!

 

Cai trị cả thế giới

Thì chẳng đáng gì đối với việc nhận lãnh quán đảnh Mật thừa,

Hãy nhìn những kẻ không tuân giữ các samaya

Vứt bỏ những hứa nguyện của họ ra sao!

 

Thấy được Đức Phật

Thì chẳng đáng gì đối với việc thấy được chân tánh của tâm.

Hãy nhìn những kẻ không quyết tâm

Lại chìm sâu trong mê lầm ra sao!

 

Những sự tự do và thuậnlợi này không đến tình cờ hay ngẫu nhiên.  Chúng là kết quả của một sự thâu thập công đức và trí tuệ tích luỹ trong nhiều kiếp.  Đại học giả Trakpa Gyaltsen nói:

 

Sự hiện hữu làm người tự do và thuận lợi này

Không phải là kết quả của tài xoay sở của bạn

Mà đến từ công đức bạn đã tích tập được.

 

Có được đời người chỉ để đắm mình trong những hành động xấu ác mà không có chút ý niệm nào về Pháp thì còn thấp kém hơn cả những cõi thấp. Như ngài Jetsun Milarepa nói với người thơ săn Gonpa Dorje:

 

Có được những sự tự do và thuận lợi của việc sinh ra làm người thường được nói là quý báu,

Nhưng khi ta nhìn những người như ông thì chẳng có vẻ quý báu chút nào.

 

Không gì lôi kéo bạn mạnh mẽ xuống những cõi thấp hơn là cuộc sống con người.  Điều mà bạn liên quan tới thì ngay bây giờ, nó tuỳ thuộc vào một mình bạn:

 

Khéo sử dụng thì thân này là chiếc bè đưa tới giải thoát,

Sử dụng tồi, thân này neo chúng ta vào luân hồi,

Thân xác này tuân lệnh cả điều tốt lẫn điều xấu.

 

Chính là nhờ năng lực của tất cả công đức bạn đã tích luỹ trong quá khứ mà giờ đây bạn có được thân người với đầy đủ mười tám sự tự do và thuận lợi này.  Việc sao lãng điều cốt tuỷ - Giáo Pháp siêu việt – và thay vào đó hoàn toàn trải đời bạn trong việc thâu hoạch thực phẩm, quần áo và mê đắm tám mối quan tâm thế gian sẽ là một lãng phí vô ích những sự tự do và thuận lợi đó.  Thật vô ích biết bao khi chờ cho tới khi cái chết vồ chụp lấy bạn và khi đó bạn đấm ngực với sự ăn năn hối tiếc!  Hẳn là bạn đã có một chọn lựa sai lầm, như có nói torng Bồ Tát Đạo:

 

Do đó, khi đã tìm được những tự do của một đời người,

Nếu giờ đây tôi không tu tập bản thân trong đức hạnh,

Thì liệu còn có sự điên rồ nào to lớn hơn?

Làm sao tôi có thể lừa dối chính mình hơn được nữa?

 

Như thế, cuộc đời hiện tại này là bước ngoặt nhờ đó bạn có thể lựa chọn giữa cái thiện trường cửu hay cái ác lâu dài. Nếu ngay bây giờ bạn không tận dụng nó để chiếm lĩnh thành luỹ của bản tánh tuyệt đối trong đời này, thì trong những đời sau bạn sẽ rất khó có được sự tự do như thế một lần nữa. Một khi bạn tái sinh trong bất kỳ thân tướng nào nơi những cõi thấp, thì sẽ chẳng bao giờ có ý niệm nào về Pháp loé lên cho bạn.  quá hoang mang không biết điều gì nên làm và điều gì không nên, bạn sẽ không ngừng rơi xuống càng lúc càng sâu tới những cõi thấp. Vậy, hãy tự nhủ rằng bây giờ là lúc để thực hện một sự nỗ lực, thiền định liên tục, áp dụng ba phương pháp tối cao: hãy bắt đầu với sự suy niệm về Bồ Đề Tâm, hãy thực hiện chính sự thực hành mà không có bất kỳ sự khái niệm hoá nào, và hãy hồi hướng công đức vào lúc kết thúc.

Như một đo lường về việc thực hành này đã thực sự thuyết phục chúng ta nhiều tới mức độ nào, chúng ta phải giống như Ngài Geshe Chengawa, người đã sự dụng toàn bộ thời gian để thực hành và thậm chí không bao giờ ngủ.  Geshe tonpa nói với Ngài: “Tốt hơn con nên nghỉ ngơi, con của ta. Con sẽ làm mình bị bệnh đấy.”

“Vâng, con sẽ nghỉ,” Ngài Chengawa trả lời.  “Nhưng khi con nghĩ về sự khó khăn biết bao để tìm được những tự do và thuận lợi ra sao mà chúng ta có, thì con không có thời gian để nghỉ.” Ngài trì tụng chín trăm triệu lần thần chú của Miyowa và không ngủ suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta phải thiền định cho đến khi loại xác tín này thực sự xuất hiện trong tâm thức chúng ta.

 

Dù con đã thâu đạt những tự do này, con vẫn nghèo khốn trong Pháp, là tinh tuý của chúng

Dù con đã đi vào Pháp, con đã lãng phí thời gian khi làm những công việc khác

Xin ban phước cho con và những kẻ xuẩn ngốc như con

Để chúng con có thể đạt được tinh tuý đích thực của những tự do và thuận lợi.    


 

[1] Với những người sơ cơ, điều này có nghĩa là tránh một thái độ duy vật hay tham vọng khi thực hành.  Trong thực tế; chỉ những hành giả chứng ngộ mới có thể thực hành hoàn toàn thoát khỏi những khái niệm, mà khi thực hành của họ thuần thục, sự giải thoát khỏi bám chấp sẽ tăng dần lên.

[2] Năng lực tích cực của sự thực hành cũng có thể bị chuyển từ sự giác ngộ vào những sự vật khác. Những chú thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi đề cập tới bốn hoàn cảnh phá huỷ những cội nguồn công đức của ta. (dege rtsa):1) Không hồi hướng hành vi nhắm tới sự thành tựu Phật Quả viên mãn vì lợi ích của người khác. 2) Sự sân hận: người ta nói rằng một chốc lát sân hận có thể huỷ hoại những hành vi tích cực trong nhiều kiếp. 3) Hối tiếc: hối tiếc những hành vi lợi ích mà ta đã làm, dù chỉ một phần nào. 4) Khoe khoang những hành vi tích cực đã làm cho người khác.

[3] Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi giải thích rằng cũng như khi một giọt nước trở thành một phần của đại dương, nó sẽ tiếp tục hiện hữu chừng nào đại dương còn hiện hữu, khi công đức của các hành vi của ta hoàn toàn được hồi hướng cho “quả, đại dương của sự Toàn Giác,” nó sẽ không bị mất đi cho tới khi ta thành tựu Phật Quả viên mãn.

[4] “Đối tượng của cái thấy (lta yul) của các sutra (Kinh điển) và Tantra đều như nhau, tức là Pháp giới tuyệt đối (chos kyi dbyinsg, Phạn: dharmadhatu – Pháp Giới). Nhưng đối với bản thân cái thấy, một sự phân biệt có thể được thiết lập như khi người ta nói nhìn thấy một hình tướng ‘rõ ràng’ hay thấy ‘lờ mờ’.  Thừa của Những Tính chất (các sutra) thiết lập sự hổ trợ, sự tinh tuý, chân lý tuyệt đối, tánh Không vĩ đại vượt lên tám thái cực thuộc khái niệm (spros mtha), nhưng nó không thể nhận ra rằng bản tánh của nó là sự hợp nhất bất khả phân của Pháp giới và trí tuệ nguyên sơ (dbying ye zung ‘jug). Đối với cái được hổ trợ, là các hiện tượng của thực tại tương đối.  Thừa của Những Tính chất thiết lập chúng như cái gì tương thuộc (duyên sinh) và giống như một tuồng huyễn hoá.  Nhưng nó không đi xa hơn sự phô bày huyền diệu bất tịnh này, để thiết lập các kaya (thân) và các trí tuệ.  Trái lại, Mật Chú Thừa thiết lập một dharmakaya (Pháp Thân) vĩ đại cao cả hơn, mạng lưới của các kaya và các trí tuệ thì luôn luôn không thể phân cách, là hai chân lý tuyệt đối.” Những Chú thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi

[5] “Trong Thừa của Những Tính chất không dạy rằng ta có thể đạt được Giác ngộ mà không cần từ bỏ năm đối tượng của tham dục (‘dod pai yon tan lnga) Nhưng ở đây (trong Thừa Kết Quả) ta xử sự với tâm một cách mau lẹ và dễ dàng, đưa nó vào những con đường ở đó ta không từ bỏ năm đối tượng này, và ta có thể đạt được cấp độ của sự Hợp Nhất, cấp độ của Đức Vajradhara (Kim Cương Trì), trong một đời và trong một thân duy nhất.”

[6] Những người có khả năng nhạy bén là người : “đủ thông tuệ để có thể chứng ngộ cái thấy xâu xa của Kim Cương Mật Chú Thừa và là những người có đủ tín tâm không e sợ những hành vi mạnh mẽ và lớn lao.”

[7] Theo Mật Chú Thừa ta không tạo tác hay phát triển bất kỳ điều gì bằng cách đi theo con đường.  Ta chỉ đơn giản làm hiển lộ điều đã sẵn có – đó là Phật tánh của chính mình.

[8] Ta không nên coi các Ngài như chúng sinh bình thường (rags pa) mà là những hiện thể vi tế (phraba) hoặc cực kỳ vi tế (shin tu phra ba). Dilgo Khyentse Rinpoche “Tất cả đều trong một tập hội, cho dù họ có nhận ra điều đó hay không, bị Phật tánh thâm nhập giống như những hạt mè bị tràn ngập bởi dầu.. Vì thế tất cả chúng sanh đều là những vị Phật, bản tánh thanh tịnh tuyệt đối của họ là bản tánh của Phật Quả, tinh tuý nguyên sơ của họ là tinh túy nguyên sơ của Phật Quả, và những phẩm tính hiện diện tự nhiên của họ là những phẩm tính của Phật Quả… họ là những vị Phật thực sự, được quán tưởng như những Daka và Dakini thuộc gia đình (bộ) thích hợp.  Nếu cả vị Thầy lẫn các quyến thuộc là những vị Phật, thì cõi Phật của các Ngài cũng thanh tịnh và phải được quán tưởng như cõi Akanistha hay cõi tịnh độ khác.” Những Chú thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi

[9] Gsal btab pa có nghĩa là quán tưởng, nhưng cũng có nghĩa làm cho lưu tâm nhận biết một cách trong sáng trong tâm thức ta, làm cho tươi mới ký ức của ta.  “Quán tưởng theo cách này không có nghĩa là tự nhủ rằng con lừa là con ngựa, hay một cục than là cục vàng; nó có nghĩa là nhận biết một cách sinh động trong tâm ta những gì luôn luôn hiện hữu như thế từ lúc khởi đầu (từ vô thuỷ), đó là những hình tướng và hiện thể xuất hiện từ nền tảng nguyên sơ, nó là trạng thái Phật Quả.”  Những Chú thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi

[10] “Trong kiếp này có một ngàn vị Phật xuất hiện.  Tuy nhiên, chúng ta không gặp được những vị Phật đã xuất hiện – hay nếu như ta đã gặp các Ngài nhưng các Ngài không thành công trong việc đưa chúng ta đến giải thoát.  Đối với chư Phật trong tương lai thì việc chúng ta gặp các Ngài vẫn còn quá sớm. Vì thế nếu không có những vị Thầy tâm linh thì sẽ chẳng có một ai cứu giúp ta.” Dilgo Khyentse Rinpoche

* Điều đó có nghĩa là tỉ mỉ, toàn bộ, và không xao lãng.

** Một người câm có thể nếm, nhưng không mô tả được những hương vị mà anh ta đang nếm.  Cũng thế, việc nếm trải của thiền định chân thật thì vượt qua bất kỳ sự mô tả hay khái niệm nào.

[11] Ba niềmtin đầu tiên được giải thích trong Phần Hai, Chương Một. Niềm tin thứ tư, niềm tin bất thối chuyển, thì đôi khi được thêm vào để biểu thị sự tột đỉnh của niềm tin, khi nó đã trở thành một bộ phận trọn vẹn của đời sống ta. Những Chú thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi

[12]  Những Chú thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi nói: “Dù ta có nhận lãnh Giáo Pháp hay không, nếu ta không quan tâm tới Pháp thì ta sẽ giống như một con ngựa được ban cho một cục xương, hay một con chó được một nắm cỏ. don gnyner, “sự quan tâm,” cũng có nghĩa là “sự nỗ lực” tức là không chỉ là sự quan tâm trong tâm thức mà còn tham gia tích cực.

[13] Những ví dụ này lấy ra từ những câu chuyện về các tiền kiếp của Đức Phật dùng để minh hoạ mức độ thệ nguyện của Ngài, và không nên coi đó như sự giới thiệu phái tu khổ hạnh cực đoan.

[14] Giác quan thứ sáu là tâm (ý) thức, vì những phản ứng tâm lý tương tự được tạo ra bởi những đối tượng  là những gì chỉ xuất hiện trong tư tưởng như những đối tượng được tri giác bằng năm giác quan vật lý.

[15] Điều này ám chỉ những người Tây Tạng bình thường, là những người có niềm tin thật đặt trưng nơi Giáo Pháp và việc tụng niệm thần chú nổi tiếng: Om mani padme hum, nhưng họ có thể không có chút hiểu biết cặn kẽ nào về giáo lý của Đức Phật. Ở đây, Gyalse Rinpoche đang sử dụng thuật ngữ theo một cách thức hơi xúc phạm để khích động thính giả của Ngài.

[16] Grims kyis sgrim la lhod kyis glod. Điều này có nghĩa là không có sự xao lãng, những đồng thời hết sức thư thái. Dilgo Khyentse Rinpoche. Ngoài ra, trước tiên phải kiểm soát những niệm tưởng lộn xộn để đạt được sự an định (zhi gnas), sau đó ta thư lỏng tâm để phát triển sự nội quán sâu xa (lhag mthong).

[17] “Bởi cách giáo lý được biểu lộ hoàn toàn là những ngôn từ và vì thế những gì mà người ta nói – là những người nghĩ rằng mình là những thiền giả Nyingma vĩ đại – thì không cần thiết. Họ nghĩ rằng họ có thể nắm bắt ý nghĩa cốt tuỷ hiển nhiên mà không bận tâm về ngôn từ. Khi chỉ thẳng vào trái tim chắc hẳn họ nói rằng sự giải thích này chỉ là những ngôn từ không có thực chất, và chỉ cần thấu hiểu bản chất của tâm.”

[18] Ý nghĩa chân thật (thực nghĩa) diễn ta chân lý từ quan điểm của những bậc giác ngộ. Ý nghĩa thích hợp ám chỉ các giáo lý có ý định dẫn dắt những người chưa giác ngộ đến chân lý đó, là những người không thể chấp nhận hay thấu hiểu giáo lý nếu nó được nói một các trực tiếp. Ý nghĩa gián tiếp ám chỉ những giáo lý được ban cho chúng sinh nhằm giới thiệu với họ một cách gián tiếp một ý nghĩa không được trực tiếp nói ra.

[19] “Đó là sự ngộ nhận về ý nghĩa, chẳng hạn như tưởng tượng rằng rừ khi ta thọ nhậngiáo lý của Mật Chú Thừa thì ta có thể hưởng thụ rượu và tình dục, và thực hiện những thực hành về sự hợp nhất và giải thoát.  Để  tránh lỗi lầm này, hành vi (công hạnh) của ta phải hợp thời (có nghĩa là phù hợp với mức độ của sự phát triển tâm linh mà chúng ta đã thực sự đạt được trong giây phút hiện tại).”

[20] Theo cách phiên dịch khác “một sự hứng khởi tốt hay xấu vĩnh viễn.” Ở đây chúng ta theo giải thích của Dilgo Khyentse Rinpoche.

[21] Điều này ám chỉ một thực hành tịnh hoá cho người chết trong đó người chết được tượng trưng bằng một tấm bìa ghi tên họ.

[22] Thành ngữ thod pa bor chog ma nghĩa đen là “sự tống khứ một cái sọ,” có nghĩa là loại bỏ thân xác ta, trong ý nghĩa giải thoát chính mình khỏi những tái sanh trong tương lai. Dilgo Khyentse Rinpoche.

[23] ‘du shes med pa. Theo cách dịch khác “không có tri giác, vô tri.” Chúng ta theo giải thích của Dilgo Khyentse Rinpoche: “Chư Thiên vô tri đã tạo ra một sự trống không trong tâm thức họ và không nhận thức được điều gì, như trong trạng thái ngủ sâu không mộng.”

* Tirthika, (mu rtegs pa): một môn đồ của các truyền thống tôn giáo hay triết học phi-Phật Giáo, ám chỉ các tà kiến được mô tả ở Phần Một, Chương Bốn.

[24] Klo kha khra ám chỉ vùng rộng lớn mà những cư dân bộ lạc cư trú nằm ở miền nam của trung tâm và miền đông Tây Tạng.  Ngày nay nó bao gồm Arunachal Pradesh, Nagaland và những phần của Assam ở đông-bắc Ấn Độ cũng như những phần của tây-bắc Miến Điện.

[25] Những người Tây Tạng quen gọi Bodh Gaya rdo rje tdan, Toà Kim Cương, ám chỉ nơi Đức Phật ngồi khi Ngài đạt được Giác ngộ.  Nó cũng được coi là trung tâm của thế giới.

* Đức Avalokitesvara, Bồ Tát của lòng Bi Mẫn.

[26] Công chúa Wen-Ch’eng Kung-chu, (người Tây Tạng gọi là Kongjo) là con gái của Hoàng đế Đường Thái Tông đời Đường. Pho tượng bà đem theo là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni mươi hai tuổi, và từng được một vị vua Phật tử xứ Bengal tặng cho Hoàng đế Trung Hoa; điện Ramoche được xây năm 641 để an vị pho tượng này nhưng về sau được di chuyển sang điện Rasa Trulnang (Jokhang), là nơi hiện nay có tượng Jowo Rinpoche nổi danh.  Hoàng hậu Tritsun là con gái vua amsuvarman xứ Nepal; pho tượng bà đem theo là tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tám tuổi hiện thờ trong Điện Ramoche.

[27] Những ngôi chùa này được xây dựng tại những điểm chính xác để khuất phục những thế lực tiêu cực ở Tây Tạng. Ở giữa quần thể này là Rasa Trulnang, tên ban đầu của Jokhang.  Xem phần II, Chương Sáu, mục IV và chú thích 294

[28] Theo Chú Thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi, Đức Liên Hoa Sanh muốn nói rằng chỉ trong ba thời kỳ  này mà Kim Cương Thừa được khám phá trong phạm vi rộng lớn.

[29] Nghĩa đen: “ những năm,” nhưng điều này không ám chỉ những đơn vị thời gian chính xác mà muốn nói tới những thời kỳ phát triển hay suy tàn bị ảnh hưởng bởi những nguyên nhân khác nhau chẳng hạn như sự xuất hiện của một thánh nhân hay, ngược lại, ảnh hưởng có hại của những tinh linh xấu ác.  Dilgo Khyentse Rinpoche.

[30] Trong thời kỳ lập tức theo sau sự truyền bá giáo lý, những người thực hành Pháp hầu như đạt được kết quả tức thì.

[31] Trong thời kỳ thành tựu thì có những người thực hành Giáo Pháp, nhưng ít người hơn, và kết quả của họ tới chậm hơn.

* Ba đệ tử chính của Ngài Atisa (xem Thuật ngữ).

[32] Theo Chú Thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi (NT) giải thích rằng những hoàn cảnh này có thể nảy sinh bất ngờ giữa một thời thực hành và thời khoá kế tiếp, hay trong một thời khoá, và huỷ hoại một hay vài yếu tố trong mười tám sự tự do và thuận lợi, giống như một con sói đi vào bãi nhốt cừu và tha đi một hoặc hai con trong số mười tám con cừu.

[33] “Những điều này tách rời tâm thức ta với sự giải thoát và giác ngộ.  Khi một trong những điều này xảy ra, nó làm khô héo chồi giác ngộ và cắt lìa ta khỏi gia đình giải thoát.” (NT)

[34] Một cái lọng nghi lễ được mang đi trước một vị lạt ma cao cấp như biểu tượng của sự tôn kính.

[35] “Đại dương tượng trưng cho đáy sâu và sự bao la của ba cõi tái sanh thấp và những nỗi khổ vô biên của chúng.  Con rùa mù tượng trưng chúng sanh trong ba cõi này, họ không có đôi mắt để tuân theo những gì lợi ích và từ bỏ điều hại. Việc con rùa mù chỉ nổi lên mặt biển một trăm năm một lần tượng trưng cho sự khó có thể thoát khỏi những trạng thái trên.  Một cái lỗ trong cái ách tượng trưng cho sự hiếm hoi của việc được sinh làm người và trời.  Gió xô dạt cái ách theo cách này và điều đó tượng trưng cho sự phụ thuộc vào những hoàn cảnh thuận lợi.”

[36] Chúng ta đã chọn ‘Surabhibhadra’ như một sự tái tạo có thể chấp nhận được từ Phạn ngữ của tiếng Tây Tạng bde spyod bzang po, danh hiệu của một vị vua mà Ngài Long Thọ viết tặng bản văn này.  Thực ra, mặc dù đa số những bài tường thuật đều đồng ý Ngài là bạn thân và là người bảo trợ của Ngài Long Thọ, nhân dạng của vị vua trong phạm vi lịch sử vẫn còn mù mờ. Có thể Ngài là dòng dõi Satavahana của các vị vua ở Andhra, và trong khi một số học giả đồng nhất Ngài với Gautamiputra Satakarni, người trị vì vào đầu thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên; những người khác gọi Ngài là Udayana hay Udayi, hoặc coi Ngài là các vua Yajnasri hay Vikramaditya.

[37] Điều này ám chỉ một thứ bia Tây Tạng được chuẩn bị bằng cách đổ nước nóng lên những loạt hạt đã lên men.  Theo cách này thì thùng chứa vật liệu này sẽ đầy ngập hạt

 

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o---

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

ò văn Tạp bút Tham thực sà c ß 清华间谍 å æžœ Mùa Vu lan 律的大篆 大悲咒的威力有多强 禅と世界文化のオンライン講座 tong nguồn gốc của khổ đau cổ Gánh çƒ¹ä½ ç テス យក សច ត តអប រ យ Ð Ð Ð ï½ ç å æžœå žå¾ 大学生申请助学金的申请理由怎么写 墓 購入 願力的故事 bẠgiå 人生是 旅程 風景 nhÃƒÆ 心经全文 六因四缘五果的来源和作用 hãy Tình 佛法怎样面对痛苦 青瓷周传雄歌曲主要想表达什么 túm 忿怒相 塩谷八幡宮 课程表鼓励孩子的话 CẠæˆåšæ năm điều Mách bạn địa chỉ quán cơm chay ngon ในรายาใ 8คมนา Dấu hiệu và một số cách phòng tránh 佛观音 สโตร ส รา 義交