Trong
chương
này,
tôi
tiếp
tục
nói
về
một
đề
tài
rất
quan
trọng
của
Phật
học:
thuyết
Duyên
khởi.
Tôi
biết
một
điều
là
nhiều
người
tin
rằng
thuyết
Duyên
khởi
hay
Duyên
sinh
là
một
môn
học
rất
khó.
Tôi
không
muốn
nói
là
không
có
sự
thật
trong
sự
tin
tưởng
đó.
Khi
Ananda
có
một
lần
nhận
xét
rằng,
dù
khó
khăn
nhưng
thuyết
Duyên
khởi
thực
sự
khá
giản
đơn,
đức
Phật
đã
khiển
trách
ông,
và
nói
rằng
thuyết
này
thực
sự
rất
sâu
xa. Thuyết
Duyên
khởi
là
một
trong
những
lời
dạy
quan
trọng
và
sâu
sắc
nhất
trong
Phật
giáo.
Tuy
thế
thỉnh
thoảng
tôi
cảm
thấy
lo
là
thuyết
này
ở
một
mức
nào
đó
không
được
bảo
đảm
chắc
chắn.
Ðể
bắt
đầu
với
chính
cái
từ
này
thì
thấy
không
có
gì
là
khó
cả.
Nói
chung,
tất
cả
chúng
ta
đều
biết
chữ
tương
duyên
(interdepence),
khởi
ra,
sinh
ra
(birth,
origination,
arising)
nghĩa
là
gì.
Chỉ
khi
chúng
ta
bắt
đầu
xét
đến
nhiệm
vụ
và
nội
dung
của
thuyết
Duyên
khởi
thì
chúng
ta
mới
nhận
ra
là
giáo
lý
này
rất
sâu
sắc
và
có
ý
nghĩa. Trang
96.
Ý
nghĩa
của
thuyết
này
có
thể
được
lấy
ra
từ
những
lời
phát
biểu
riêng
của
Phật.
Ngài
thường
diển
tả
kinh
nghiệm
giác
ngộ
của
mình
bằng
một
trong
hai
cách:
lý
Tứ
Ðế
và
thuyết
Duyên
khởi.
Nói
một
cách
khác
là
muốn
chứng
đắc
sự
giác
ngộ,
ta
phải
thấy
biết
và
suy
nghĩ
đúng
đắn
ý
nghĩa
thật
sự
hai
giáo
thuyết
này. Trên
căn
bản
những
lời
phát
biểu
của
đức
Phật,
chúng
ta
có
thể
thấy
sự
liên
hệ
rất
gần
gũi
giữa
lý
Tứ
Ðế
và
thuyết
Duyên
khởi.
Hai
công
thức
này
có
chung
nhau
điểm
gì?
Ðó
là
cái
nguyên
tắc
của
nhân
và
quả,
của
hành
động
và
hậu
quả.
Từ
chương
4
đến
chương
7,
tôi
đã
lưu
ý
rằng
Tứ
diệu
Ðế
được
chia
ra
thành
hai
nhóm--hai
sự
thật
đầu
(sự
có
mặt
của
đau
khổ
và
nguyên
nhân
của
nó)
và
hai
sự
thật
sau
(sự
diệt
trừ
đau
khổ
và
con
đường
dẫn
đến
sự
diệt
trừ
nó).
Trong
cả
hai
nhóm
này,
chính
luật
nhân
và
quả
chi
phối
sự
liên
hệ
đó.
Nói
một
cách
khác,
đau
khổ
là
cái
quả
từ
cái
nhân
huân
tập,
và
sự
diệt
trừ
được
đau
khổ
là
kết
quả
có
được
từ
cái
nhân
của
con
đường
đạo
hạnh. Trang
97.
Ở
đây,
với
thuyết
Duyên
khởi,
nguyên
tắc
căn
bản
thực
tế
là
nhân
và
quả.
Với
Thuyết
này,
chúng
ta
có
sự
mô
tả
chi
tiết
hơn
về
những
gì
thực
sự
xãy
ra
trong
tiến
trình
nhân
quả.
Hãy
lấy
một
vài
thí
dụ
chứng
minh
tính
chất
của
Duyên
khởi
được
Phật
dùng.
Ngài
nói,
ngọn
lửa
trong
cây
đèn
dầu
cháy
được
nhờ
chất
dầu
và
cái
bấc:
có
dầu
và
bấc
thì
ngọn
lửa
cháy,
nhưng
nếu
một
trong
hai
không
còn,
ngọn
lửa
sẽ
ngừng
cháy.
Lấy
thêm
thí
dụ
về
cái
mầm:
tùy
thuộc
vào
hạt,
đất,
nước,
gió
và
ánh
sáng
mà
cái
mầm
nỡ
ra. Có
vô
số
thí
dụ
về
Duyên
khởi
vì
không
có
một
hiện
tượng
nào
mà
không
là
cái
quả
của
Duyên
khởi.
Tất
cả
những
hiện
tượng
này
hiện
ra
tùy
thuộc
vào
một
số
yếu
tố
nhân
quả.
Ðây
là
nguyên
tắc
rất
giản
dị
của
Duyên
khởi
(hay
Duyên
sinh). Trang
97.
Dĩ
nhiên,
chúng
ta
đặc
biệt
quan
tâm
nguyên
tắc
Duyên
khởi
vì
nó
liên
hệ
đến
vấn
đề
đau
khổ
và
tái
sinh.
Chúng
ta
quan
tâm
đến
Duyên
khởi
để
xem
nó
cắt
nghĩa
như
thế
nào
về
cái
tình
trạng
mà
ta
tự
thấy
bây
giờ
và
ở
đây.
Với
ý
này,
thật
là
điều
quan
trọng
để
nhớ
rằng
Duyên
khởi
cần
thiết
và
chủ
yếu
là
một
điều
dạy
có
liên
hệ
đến
vấn
đề
đau
khổ
và
có
liên
hệ
đến
cách
giúp
ta
tự
giải
thoát
ra
khỏi
đau
khổ.
Nó
không
phải
là
thuyết
mô
tả
về
sự
tiến
hóa
của
vũ
trụ. Trang
98.
Tôi
xin
kể
ra
12
yếu
tố
nối
kết
tạo
nên
thuyết
Duyên
khởi
(tức
Thập
nhị
nhân
duyên):
1.
vô
minh,
2.hành,
3.
thức,
4.
danh
sắc,
5.
lục
nhập,
6.
xúc,
7.
thọ,
8.
ái,
9.
thủ,
10.
hữu,
11.
sanh,
và
12.
lão,
tử. Có
hai
cách
để
ta
có
thể
hiểu
12
yếu
tố
này.
Cách
một
là
theo
thứ
tự
tam
thế
quá
khứ
thế,
hiện
tại
thế
và
vị
lai
thế.
Trong
trường
hợp
này,
vô
minh
và
hành
thuộc
về
quá
khứ
thế,
chúng
là
các
duyên
có
trách
nhiệm
cho
sự
xãy
ra
trong
hiện
tại
thế.
Tám
thành
phần
thức,
danh
sắc,
lục
nhập,
xúc,
thọ,
ái,
thủ,
hữu
thuộc
về
đời
hiện
tại
này.
Nói
ngắn
gọn,
8
thành
phần
tạo
thành
tiến
trình
tiến
hóa
trong
hiện
tại
thế.
Hai
thành
phần
cuối
cùng,
sanh
và
lão
tử
thuộc
về
vị
lai
thế. Trang
98.
Với
cách
thứ
nhứt,
chúng
ta
có
thể
thấy
12
nhân
duyên
được
phân
phối
như
thế
nào
qua
tam
thế--
2
duyên
đầu,
vô
minh
và
hành,
gây
quả
sinh
ra
trong
cuộc
đời
này
với
đặc
tính
tâm
sinh
lý
của
quá
khứ,
và
lần
lượt
những
hành
động
làm
trong
cuộc
đời
này
gây
quả
sinh
ra
trong
đời
vị
lai.
Ðấy
là
cách
giải
thích
phổ
thông
và
có
căn
cứ
của
12
nhân
duyên. Trang
98.
Có
một
cách
giải
thích
khác
cũng
có
thẩm
quyền
và
có
sự
hỗ
trợ
được
chấp
nhận
của
các
tổ
sư
và
bồ
tát.
Nó
được
gọi
là
chu
kỳ
lặp
lại
đều
đặn,
không
phân
phối
12
nhân
duyên
qua
tam
thế.
Nó
chia
12
thành
phần
ra
thành
3
loại:
1.
các
phiền
não,
2.
các
hành
động,
và
3.
các
đau
khổ. Trong
lối
giải
thích
thứ
hai
này,
‘vô
minh,
ái
và
thủ’
thuộc
nhóm
phiền
não;
‘hành
và
hữu’,
thuộc
nhóm
hành
động;
và
7
thành
phần
còn
lại
thuộc
nhóm
đau
khổ.
Với
lối
giải
thích
này,
ta
có
thể
thấy
rõ
thuyết
Tứ
diệu
Ðế,
đặc
biệt
‘tập
đế’
(nhân
đau
khổ)
được
kết
hợp
như
thế
nào
với
thuyết
nghiệp
báo
và
tái
sinh,
và
cũng
thấy
2
thuyết
quan
trọng
đó
giải
nghĩa
một
cách
hoàn
chỉnh
hơn,
tiến
trình
của
tái
sinh
và
đầu
mối
của
đau
khổ. Trang
99.
Trở
lại
thuyết
Tứ
Diệu
Ðế,
ta
đã
biết
rằng
vô
minh,
vướng
mắc
và
phiền
não
là
nguyên
nhân
của
đau
khổ.
Còn
3
thành
phần
của
thuyết
Duyên
khởi
thuộc
nhóm
phiền
não
là
vô
minh,
ái
và
thủ.
Ở
đây,
vô
minh
là
chi
căn
bản
nhất.
Vì
vô
minh
mà
chúng
ta
tham
ái,
vướng
mắc
các
lạc
thú
thuộc
giác
quan,
thuộc
sắc
và
không.
Vì
vô
minh
mà
chúng
ta
bám
thủ
các
thú
vui
thuộc
giác
quan,
các
kinh
nghiệm
vui
thú,
các
ý
tưởng
và
nhất
là
một
cái
ngã
độc
lập,
thường
hằng.
Tóm
lại,
‘vô
minh,
ái
và
thủ’
là
nguyên
nhân
của
‘hành
và
hữu’
thuộc
nhóm
hành
động. Hành
là
các
ấn
tượng,
thói
quen
mà
ta
đã
tạo
ra
thành
từng
mãng
thức,
hoặc
những
chuỗi
liên
tục
về
thức.
Những
ấn
tượng
được
thành
hình
bởi
những
hành
động
được
lặp
lại.
Chúng
ta
có
thể
chứng
minh
điều
này
với
một
thí
dụ
về
địa
chất
học.
Chúng
ta
biết
rằng
một
dòng
sông
hình
thành
đường
nước
chảy
bởi
một
quá
trình
xói
mòn
liên
tục.
Khi
mưa
rơi
xuống
trên
một
sườn
đồi,
tụ
họp
lại
thành
một
đường
nước
nhỏ,
dần
dần
tạo
thành
một
dòng
kênh
cho
chính
nó
và
trở
thành
một
dòng
nước.
Sau
đó,
dòng
kênh
của
dòng
nước
ấy
sâu
thêm
và
mở
rộng
bởi
những
dòng
nước
liên
tục:
dòng
nước
ấy
trở
thành
một
con
sông
với
bờ
sông
hẵn
hòi
và
một
đường
nước
rõ
rệt. Cũng
như
vậy,
hành
động
của
chúng
ta
trở
nên
quán
tính.
Các
quán
tính
này
trở
thành
phần
lớn
cá
tính
ta,
huân
tập
các
quán
tính
này
từ
đời
này
qua
đời
khác
mà
ta
gọi
là
hành,
hình
thái
tinh
thần,
hay
tập
khí,
hoặc
chủng
tử.
Hành
động
của
chúng
ta
trong
cuộc
đời
này
bị
tác
động
bởi
các
thói
quen
đã
được
hình
thành
qua
vô
số
cuộc
đời
trước
đây. Trang
100.
Trở
lại
với
dẫn
dụ
về
dòng
nước
và
con
sông
của
nó,
chúng
ta
có
thể
nói
rằng
các
tập
khí
hay
chủng
tử
hay
hình
thái
tinh
thần
là
cái
dòng
nước
của
một
con
sông,
trong
khi
các
hành
động
chúng
ta
làm
trong
cuộc
đời
này
là
dòng
nước
mới
chảy
qua
đường
nước
đã
bị
xói
mòn
bởi
những
hành
động
trước
đây.
Những
hành
động
chúng
ta
làm
trong
cuộc
đời
này
được
biểu
hiện
bởi
cái
tên
là
‘hữu’
(becoming).
Chúng
ta
có
những
thói
quen
phát
triển
qua
vô
số
cuộc
sống
(quá
khứ
thế),
cùng
với
những
hành
động
mới
được
tạo
ra
trong
hiện
tại
thế.
Hai
dòng
này
hợp
lại
nhau
gây
ra
kết
quả
tái
sinh
và
đau
khổ. Trang
100.
Ðể
tóm
tắt,
chúng
ta
có
những
phiền
não,
có
thể
được
mô
tả
là
sự
nhiễm
ô
của
tâm--có
tên
là,
vô
minh,
ái
và
thủ.
Những
tạp
chất
tinh
thần
này
gây
quả
hành
động--hành
động
được
tạo
ra
trong
các
cuộc
đời
trước
đây,
có
tên
là
‘hành’
hay
‘tập
khí’;
và
hành
động
được
làm
trong
cuộc
đời
hiện
tại,
có
tên
là
‘hữu’
và
nó
chắc
chắn
phải
chịu
ảnh
hưởng
rất
nhiều
vào
những
gì
đã
có
trong
những
cuộc
đời
trước. Những
nhiễm
ô
của
tâm
thức
và
của
các
hành
động
cùng
nhau
gây
ra
kết
quả
tái
sinh.
Nói
một
cách
khác,
chúng
gây
thành
thức,
thành
danh
sắc,
lục
nhập,
thành
xúc
giữa
lục
căn
và
lục
trần,
thọ,
từ
đó
có
sanh,
lão
và
tử.
Với
lối
giải
thích
này,
năm
thành
phần
của
thuyết
thập
nhị
nhân
duyên
gồm
nhóm
phiền
não
và
nhóm
hành
động--vô
minh,
ái,
thủ,
hành
và
hữu--là
nhân
của
tái
sinh
và
đau
khổ.
Bảy
thành
phần
kia--thức,
danh
sắc,
lục
nhập,
xúc,
thọ,
sanh
và
lão
và
tử--là
quả
của
phiền
não
và
hành
động. Các
phiền
não
và
các
hành
động
cùng
với
nhau
cắt
nghĩa
nguồn
gốc
đau
khổ
và
những
hoàn
cảnh
đặc
biệt
trong
đó
mỗi
chúng
ta
tìm
thấy
cho
mình
sinh
ra
trong
các
hoàn
cảnh
riêng
tư.
Trở
lại
chương
8,
tôi
đã
chứng
minh
rằng,
bất
cứ
chỗ
nào
có
phiền
não
xảy
ra
cho
tất
cả
các
sinh
vật
thì
nghiệp
báo
khác
biệt
nhau
từ
người
này
qua
người
khác.
Nói
một
cách
khác,
mặc
dầu
phần
phiền
não
là
áp
dụng
chung
cho
tất
cả
chúng
ta
là
tù
nhân
trong
vòng
luân
hồi,
nhưng
phần
hành
động
của
chúng
ta
giải
thích
cho
sự
kiện
là
có
kẻ
thì
được
sinh
ra
là
người,
kẻ
khác
là
thánh,
và
các
sinh
vật
khác
là
thú
vật.
Với
ý
nghĩa
này,
thuyết
thập
nhị
nhân
duyên
đưa
ra
một
hình
ảnh
luân
hồi
với
nhân
và
quả
của
chúng. Trang
101.
Không
có
ích
lợi
gì
khi
vẻ
ra
được
hình
ảnh
luân
hồi
mà
không
có
ý
dùng
nó
để
thay
đổi
tình
trạng
của
chúng
ta,
để
ra
khỏi
cái
vòng
sanh
và
tử.
Nhận
ra
được
vòng
luân
hồi
hay
vòng
nhân
duyên
tức
là
nắm
bắt
được
cái
mối
bắt
đầu
cho
sự
giải
thoát.
Tại
sao
như
thế?
Ngay
khi
phiền
não
và
hành
động
hiện
diện,
tái
sinh
và
đau
khổ
sẽ
xãy
ra.
Khi
chúng
ta
thấy
rằng
vô
minh,
ái,
thủ
và
hành
động
liên
tiếp
dẫn
đến
tái
sinh
và
đau
khổ,
chúng
ta
sẽ
nhận
ra
sự
cần
thiết
để
phá
vỡ
vòng
luẩn
quẩn
này. Chúng
ta
hãy
lấy
một
thí
dụ
thực
tế.
Giã
thử
bạn
đang
tìm
căn
nhà
của
một
người
quen
mà
chưa
bao
giờ
đi
thăm
trước
đây.
Lái
xe
khoảng
nửa
tiếng
đồng
hồ
mà
vẫn
chưa
tìm
được
nhà.
Giã
thử,
bất
thình
lình
bạn
nhận
ra
một
chỗ
đặc
biệt,
nó
giúp
cho
bạn
biết
rõ
ràng
rằng
bạn
đã
chạy
qua
đó
cách
đây
nửa
tiếng.
Ngay
lúc
đó
bạn
thấy
ngay
là
mình
đang
đi
vòng
vòng.
Bạn
liền
cho
xe
ngừng,
xem
lại
bản
đồ,
hoặc
hỏi
đường
từ
một
người
bộ
hành
để
tránh
việc
đi
vòng
vo
vô
ích. Ðây
là
lý
do
tại
sao
đức
Phật
nói
rằng
ai
hiểu
biết
thuyết
Duyên
khởi
thì
thấy
Pháp,
và
ai
thấy
Pháp
thì
thấy
Phật.
Ðó
cũng
là
lý
do
tại
sao
ông
nói
rằng
hiểu
biết
thuyết
Thập
nhị
nhân
duyên
là
chìa
khóa
cho
sự
giải
thoát.
Một
khi
thấy
sự
vận
hành
của
thuyết
này,
chúng
ta
có
thể
bắt
đầu
tấn
công
vào
cái
vòng
luẩn
quẩn
của
nó.
Chúng
ta
có
thể
làm
được
chuyện
này
bằng
cách
tháo
gỡ
được
những
nhiễm
ô
của
tâm
trí--vô
minh,
ái
và
thủ.
Một
khi
chúng
bị
tiêu
trừ,
các
hành
động
vô
ích
sẽ
không
còn
được
tạo
ra
nữa
và
tập
khí
sẽ
không
còn
sản
sinh
ra
nữa.
Một
khi
hành
động
ngừng,
tái
sinh
và
đau
khổ
sẽ
không
còn
hiện
diện. Trang
102.
Tôi
muốn
xin
bỏ
thêm
một
chút
thời
gian
về
một
ý
nghĩa
quan
trọng
khác
của
thuyết
Duyên
khởi.
Duyên
khởi
cũng
là
sự
diễn
tả
của
Trung
đạo.
Trong
hai
chương
3
và
4,
chúng
ta
đã
có
dịp
nói
đến
Trung
đạo
nhưng
tự
giới
hạn
mình
vào
ý
nghĩa
căn
bản
nhất
của
từ
ngữ
đó.
Chúng
ta
đã
nói
rằng
Trung
đạo
là
tránh
cực
đoan
trong
việc
tự
chìu
mình
chìm
đắm
trong
lạc
thú
của
các
giác
quan
và
cũng
tránh
cái
cực
đoan
của
sự
khổ
hạnh.
Trong
bối
cảnh
đó,
Trung
đạo
đồng
nghĩa
với
không
thái
quá. Trong
bối
cảnh
của
thuyết
Duyên
khởi,
Trung
đạo
có
môt
ý
nghĩa
khác,
nó
có
liên
hệ
đến
ý
nghĩa
căn
bản
nhất
nhưng
sâu
sắc
hơn.
Trong
bối
cảnh
này,
Trung
đạo
có
nghĩa
là
tránh
2
cực
đoan
của
thuyết
vĩnh
cửu
và
thuyết
hư
vô.
Thế
là
thế
nào?
Ngọn
lửa
trong
ngọn
đèn
dầu
sở
dĩ
có
là
tùy
thuộc
vào
chất
dầu
và
cái
bấc.
Khi
một
trong
hai
cái
này
không
có,
ngọn
lửa
sẽ
tắt.
Tức
là
ngọn
lửa
không
thường
hằng
cũng
không
độc
lập.
Cũng
giống
như
vậy,
cái
gọi
là
cá
tính
của
chúng
ta
tùy
thuộc
vào
sự
tổng
hợp
các
điều
kiện
phiền
não
và
nghiệp
báo.
Nó
không
thường
hằng
cũng
không
độc
lập. Trang
102.
Sau
khi
nhận
ra
được
tính
chất
tùy
thuộc
của
các
cá
tính
của
mình,
chúng
ta
tránh
được
cực
đoan
của
thuyết
vĩnh
cửu,
thuyết
xác
định
cho
việc
có
một
cái
ngã
độc
lập,
thường
hằng.
Cũng
vậy,
sau
khi
nhận
ra
rằng
cá
tính
này,
cuộc
đời
này,
không
phải
tình
cờ
may
rủi
mới
có
mà
là
nó
đã
bị
điều
kiện
hóa
bởi
những
nguyên
nhân
tương
ứng
thì
chúng
ta
tránh
được
cái
cực
đoan
của
thuyết
hư
vô,
một
thuyết
không
chấp
nhận
sự
liên
hệ
giữa
hành
động
và
hậu
quả. Mặc
dầu
thuyết
hư
vô
là
nguyên
nhân
chánh
của
sự
tái
sanh
vào
các
tình
trạng
đau
buồn
và
phải
được
loại
trừ
thì
thuyết
vĩnh
cửu
cũng
không
cho
phép
ta
dẫn
đến
sự
giải
thoát.
Người
nào
bám
vào
cái
cực
đoan
của
thuyết
vĩnh
cửu
sẽ
tạo
ra
được
những
hành
động
lành
mạnh
và
được
tái
sanh
trong
những
hoàn
cảnh
hạnh
phúc,
được
làm
người
và
ngay
cả
thành
thánh
nữa,
nhưng
anh
ta
không
bao
giờ
đạt
được
giải
thoát.
Nhờ
tránh
2
cực
đoan
này--qua
sự
hiểu
biết
Trung
đạo--chúng
ta
có
thể
hoàn
thành
hạnh
phúc
trong
cuộc
đời
này
và
trong
các
cuộc
đời
tương
lai
bằng
cách
thực
hiện
các
hành
động
lành
mạnh
và
tránh
các
hành
động
không
lành
mạnh,
và
sau
đó
hoàn
thành
sự
giải
thoát. Trang
103.
Ðức
Phật
xây
dựng
giáo
pháp
với
sự
vô
cùng
cẩn
thận.
Thật
vậy,
cách
ông
dạy
đôi
khi
được
so
sánh
giống
như
cử
chỉ
của
sư
tử
mẹ
với
sư
tử
con.
Khi
một
sư
tử
mẹ
mang
con
bằng
răng,
nó
phải
rất
cẩn
thận
để
sao
cho
việc
ngậm
con
bằng
răng
không
chặt
quá
cũng
không
lỏng
quá.
Kẹp
chặt
quá,
nó
sẽ
làm
đau
hay
chết
con
mình;
nếu
lỏng
quá,
con
sẽ
rơi
xuống
và
bị
thương.
Cũng
giống
như
vậy,
đức
Phật
đã
cẩn
thận
để
sao
cho
chúng
ta
tránh
được
hai
cực
đoan
Vĩnh
cửu
và
Hư
vô
(Có
và
Không). Vì
thấy
rằng
bám
thủ
vào
cái
cực
đoan
vĩnh
cửu
sẽ
buộc
ta
trong
luân
hồi,
đức
Phật
đã
cẩn
thận
dạy
ta
tránh
sự
tin
tưởng
vào
một
cái
ngã
độc
lập
và
bất
diệt;
đó
là
việc
có
được
tự
do
có
thể
bị
gây
hại
bởi
‘răng
nhọn’
của
sự
tin
tưởng
vào
một
cái
ngã,
vì
thế
ông
đã
yêu
cầu
chúng
ta
tránh
cái
cực
đoan
đó.
Cũng
vậy,
cứ
bám
thủ
vào
cái
cực
đoan
hư
vô
sẽ
dẫn
đến
tai
họa
và
tái
sanh
vào
những
hoàn
cảnh
đau
buồn,
nên
Phật
cũng
đã
cẩn
thận
dạy
cái
thực
tế
của
luật
nhân
quả,
hay
trách
nhiệm
đạo
đức.
Chúng
ta
sẽ
rơi
vào
sự
khổ
đau
nơi
các
cỏi
giới
thấp
kém
nếu
chúng
ta
bác
bỏ
luật
này,
vì
thế
ông
đã
dạy
chúng
ta
tránh
cái
cực
đoan
hư
vô.
Hai
mục
tiêu
này
được
hoàn
thành
tuyệt
hảo
qua
việc
dạy
thuyết
Duyên
khởi.
Nó
bảo
vệ
không
những
cho
sự
hiểu
biết
về
một
cá
tính
(ngã)
có
tính
cách
bị
tác
động
và
vô
thường,
mà
còn
cho
ta
sự
hiểu
biết
về
cái
thực
tế
của
luật
nhân
quả. Trong
bối
cảnh
của
thuyết
Duyên
khởi,
chúng
ta
đã
thiết
lập
được
tính
chất
bị
tác
động
và
vô
thường
của
cá
tính
(ngã)
bằng
cách
phô
bày
ra
tính
cách
tùy
thuộc
của
nó.
Trong
các
chương
sau,
chúng
ta
sẽ
đạt
tới
cái
vô
thường
và
vô
ngã
của
cá
tính
(ngã)
đó
qua
việc
xem
xét
tính
chất
phức
hợp
của
nó
cũng
như
phân
tích
nó
ra
thành
những
bộ
phận
chi
tiết.
Với
các
phương
tiện
này,
chúng
ta
sẽ
làm
sáng
tỏ
cái
sự
thật
của
vô
ngã,
mở
cửa
ngõ
vào
con
đường
giác
ngộ.
Nguồn: www.quangduc.com
Trình bày : Nhị Tường
Cập
nhật : 01-03-2002