.
Con
đường
hạnh
phúc
Viên
Minh
&
Trần
Minh
Tài
--- o0o ---
Tam
Chướng
và
cách
đối
trị
Chúng
ta
thường
nghe
người
Phật
tử
phát
nguyện
rằng:
"Nguyện
tiêu
tam
chướng
trừ
phiền
não,
nguyện
đắc
trí
tuệ
chơn
minh
liễu
....
"
Như
vậy
Tam
Chướng
là
gì?
Phiền
não
là
gì?
Và
trí
tuệ
có
tác
dụng
thế
nào?
Tam
Chướng
được
dịch
từ
chữ
Pali:
Tayo
kincana.
Ba
điều
ấy
là
Tham,
Sân,
và
Si.
Tam
Chướng
đôi
khi
còn
được
gọi
là
ba
bất
thiện
căn.
Chính
ba
điều
chướng
ngại
này
là
nguyên
nhân
của
tất
cả
mọi
khổ
đau
và
khiến
cho
chúng
sanh
chìm
đắm
trong
vòng
luân
hồi
sanh
tử.
Kết
quả
gây
ra
bởi
Tam
Chướng
gọi
là
Phiền
não.
Chỉ
có
trí
tuệ
thấu
triệt
được
chân
tướng
của
vạn
hữu
mới
có
thể
tiêu
diệt
được
tam
chướng
và
khử
trừ
được
phiền
não.
Tham
Sân
Si
hiện
hành
trong
mỗi
chúng
sanh
dưới
hai
hình
thức:
Thô
tướng
và
Vi
tế.
Vậy
chúng
ta
hãy
lần
lượt
phân
tích
từng
hình
thức
của
mỗi
bất
thiện
căn
và
cách
diệt
trừ.
1-
Trước
hết
là
Tham
chướng.
Dưới
hình
thức
thô
tướng,
tham
biểu
lộ
ra
ngoài
bằng
nhiều
cử
chỉ
hay
thái
độ
khác
nhau,
khiến
cho
người
khác
có
thể
thấy
được,
như
hành
động
trộm
cắp,
rượu
chè,
tà
hạnh.
Dưới
hình
thức
vi
tế,
tham
trở
thành
một
tiềm
thức
ngủ
ngầm
trong
tâm
khảm
của
mọi
chúng
sinh,
thường
được
gọi
là
thùy
miên.
Chúng
ta
khó
có
thể
nhận
biết
được
tiềm
năng
vi
tế
của
tham
tâm.
Nhưng
chính
vì
thế
mà
nó
đã
tạo
ra
những
ảnh
hưởng
cho
tiến
trình
giải
thoát.
Muốn
diệt
trừ
thô
tướng
của
tham
tâm,
người
Phật
tử
phải
trì
giới
và
bố
thí.
Khi
giữ
giới
không
trộm
cắp,
không
tà
hạnh...
chúng
ta
đã
ngăn
ngừa
không
để
cho
tham
tâm
bộc
khởi
ra
ngoài
bằng
cử
chỉ
hay
thái
độ
thô
thiển.
Tích
cực
hơn,
chúng
ta
tập
bố
thí
để
phát
triển
tâm
quảng
đại
hy
sinh.
Nhờ
đó
mà
thay
vì
tham
lam
vơ
vét
của
cải
kẻ
khác,
chúng
ta
lại
giúp
đỡ,
ban
bố
cho
mọi
người.
Chúng
ta
có
thể
trộm
cắp
để
bố
thí
được
không?
Điều
đó
quả
thật
không
đáng
khuyến
khích;
vì
lòng
vị
tha
quảng
đại
không
thể
phát
triển
đến
chỗ
toàn
thiện
bằng
chính
tâm
tham
lam,
ích
kỷ.
Vì
vậy
trong
khi
bố
thí
và
trì
giới,
chúng
ta
phải
có
một
ý
tưởng
rõ
rệt
là
mong
sao
cho
tham
ái
sớm
được
diệt
trừ.
Đối
với
Tham
vi
tế,
chúng
ta
phải
dùng
thiền
định
để
chế
phục
và
trí
tuệ
để
đoạn
diệt.
2-
Thứ
hai
là
Sân
chướng.
Dưới
hình
thức
thô
tướng,
sân
bộc
lộ
ra
ngoài
bằng
những
hành
động
,
lời
nói
hay
sắc
diện
của
mỗi
người
khiến
cho
kẻ
khác
có
thể
thấy
được,
như
nét
mặt
xám
lại,
tim
đập
mạnh
gấp,
bắp
thịt
co
lại
và
hiếu
động;
vì
thế
mà
lúc
nóng
giận
thường
hay
cãi
vã,
đánh
đập,
phá
phách...
Sân
vi
tế
phát
hiện
dưới
hình
thức
tiềm
năng,
khó
nhận
biết
được.
Đôi
lúc
vì
không
biết
nguyên
cớ
gì
chúng
ta
cảm
thấy
chán
nản
buồn
bực
mà
không
hiểu
tại
sao.
Những
tình
cảm
này
xuất
hiện
yếu
ớt
đến
nỗi
chúng
ta
chỉ
có
thể
cảm
nhận
được
một
cách
mơ
hồ
hay
có
khi
không
thể
nhận
biết
được.
Tuy
nhiên,
đó
là
hình
thức
vi
tế
của
sân
tâm
mà
ít
nhất
chúng
ta
phải
đắc
quả
A
La
Hán
mới
có
thể
diệt
trừ
được.
Muốn
đối
trị
thô
tướng
của
sân
tâm,
ta
phải
giữ
giới,
nhất
là
giới
không
sát
sanh
và
không
ác
ngữ,
tập
tính
nhẫn
nhục
và
từ
bi.
Nhẫn
nhục
không
phải
là
sự
nhịn
nhục
vì
một
áp
lực
từ
bên
ngoài,
mà
là
một
thái
độ
tri
thức
phát
xuất
từ
nơi
tâm
để
cố
gắng
giữ
bình
tĩnh,
thản
nhiên
trước
những
lời
thách
đố,
chỉ
trích
mắng
nhiếc,
hay
đánh
đập
của
kẻ
khác.
Mặt
khác,
ta
phải
phát
triển
lòng
từ
bi.
Đức
Phật
đã
dạy
cho
chúng
ta
một
chân
lý
không
thể
chối
cãi
được
là:
"Sân
hận
không
bao
giờ
dập
tắt
được
sân
hận,
chỉ
có
lòng
từ
bi
mới
chiến
thắng
được
hận
thù".
Đối
với
Sân
vi
tế,
chúng
ta
phải
dùng
đến
phương
pháp
thiền
định
với
đề
mục
tâm
từ,
tức
là
ban
rải
tâm
trong
lành,
hiền
hòa,
đến
kẻ
khác,
nguyện
cho
kẻ
khác
được
an
vui,
ngay
những
kẻ
thù
nghịch
với
chúng
ta
cũng
được
hạnh
phúc.
Rốt
ráo
hơn,
ta
phải
dùng
đến
pháp
quán
tâm,
phương
pháp
nội
quán
của
Phật
giáo
để
phân
tích
những
hoạt
động
sâu
kín
nhất
của
tâm
giới,
vạch
trần
những
sân
niệm
vi
tế
nhất
để
loại
trừ.
3-
Cuối
cùng
là
Si
chướng.
Dưới
hình
thức
thô
tướng,
si
hiển
hiện
qua
hành
động
và
lời
nói
của
những
kẻ
ngu
ngốc.
Những
người
này
thường
bảo
thủ
ý
kiến
của
mình,
bướng
bỉnh,
thành
kiến,
cố
chấp,
lãnh
hội
chậm,
và
có
vẻ
mặt
đần
độn
si
mê.
Ý
kiến
của
họ
thường
là
tà
kiến,
nghĩa
là
phản
lại
với
chân
lý.
Dưới
hình
thức
vi
tế,
si
mê
là
chưa
thực
sự
nhận
chân
được
thực
tướng
của
vạn
hữu.
Si
mê
thường
hiện
hữu
dưới
hình
thức
vi
tế
có
gốc
rễ
sâu
thẳm
trong
kiếp
trầm
luân.
Nó
vừa
là
động
lực
vừa
là
hậu
thuẫn
cho
tham
và
sân.
Lòng
tham
ái
bám
víu
trong
dục
lạc,
lòng
tham
ái
muốn
được
hiện
hữu
và
lòng
tham
ái
cho
rằng
"chết
là
hết"
đều
là
hiện
thân
của
vô
minh
trong
cõi
luân
hồi
sinh
tử.
Phương
pháp
đối
trị
thô
tướng
của
si
tâm
là
cải
thiện
kiến
thức
bằng
cách
học
hỏi,
rèn
luyện
tri
thức
bằng
cách
suy
tư.
Một
người
nhờ
biết
học
hỏi,
biết
lắng
nghe,
biết
suy
tư
về
đạo
lý
có
thể
cải
thiện
tri
kiến
của
mình
để
loại
dần
những
thô
tương
của
si
tâm.
Đối
với
Si
vi
tế,
chúng
ta
phải
dùng
đến
phương
pháp
phát
triển
trí
tuệ
bằng
cách
hành
trì.
Hành
trì
ở
đây
ám
chỉ
hai
phương
diện
của
Thiền
định
là
"Chỉ"
và
"Quán"
.
"Chỉ"
giúp
cho
tâm
thanh
tịnh
mở
đường
cho
"Quán",
phát
huy
trí
tuệ
tối
thắng
trực
nhận
chân
lý.
Tham,
Sân,
Si
đúng
như
tên
gọi
của
nó:
Tam
Chướng,
đã
ngăn
trở
chúng
sanh
trên
tiến
trình
giải
thoát.
Muốn
diệt
tận
ba
bất
thiện
căn
này,
người
Phật
Tử
phải
luôn
luôn
cố
gắng
kiên
trì
không
bao
giờ
lùi
bước.
Một
phi
thuyền
không
gian
muốn
lên
đến
mặt
trăng
phải
trải
qua
một
hành
trình
xa
xăm
và
hiểm
trở,
nếu
các
phi
hành
gia
không
khéo
léo
điều
khiển,
các
nhà
bác
học
tính
sai
một
ly
một
khắc
thì
không
những
phi
thuyền
không
đi
tới
đích,
các
nhà
khoa
học
không
đạt
tới
mục
tiêu
mà
các
phi
hành
gia
còn
bị
nguy
hiểm
tới
tính
mạng.
Tuy
thế
cũng
chưa
nguy
hiểm
và
khó
khăn
bằng
những
người
đi
từ
bờ
mê
đến
bến
giác.
Họ
phải
vượt
qua
một
hành
trình
lâu
dài
không
tính
được
bằng
năm,
bằng
tháng,
và
phải
đối
diện
với
một
thứ
sóng
gió
bão
bùng,
luôn
luôn
nội
tại
trong
chính
bản
thân
họ.
Vì
vậy,
nếu
họ
không
bền
chí,
tinh
cần,
nếu
thuyền
Giới-Định-Huệ
của
họ
không
bền
vững,
kiên
cố,
thì
làm
thế
nào
vượt
qua
được
bể
khổ
trầm
luân?
Chông
gai
thường
làm
chùn
bước
những
người
thiếu
quyết
tâm
nhưng
nó
là
chất
liệu
nung
đúc
tinh
thần
những
kẻ
kiên
trì,
ví
như
bùn
nhơ
làm
cho
hương
sen
thêm
tinh
khiết,
sỏi
đá
làm
cho
vị
nho
thêm
ngọt
ngào.
Đừng
than
rằng:"Bông
hồng
kia
sao
quá
nhiều
gai,
chỉ
sợ
trên
những
gai
kia
không
có
được
đóa
hồng.
Nếu
biết
chắc
rằng
cuối
nẻo
đường
tu
đang
có
một
đóa
hoa
Vô
Ưu
thắm
tươi
trí
tuệ,
tỏa
ngát
hương
từ,
sẵn
sàng
chờ
đón;
thì
ngại
ngùng
chi,
chúng
ta
không
vội
vã
rút
ngắn
quãng
đừơng
để
sớm
đượ
c
đón
nhận
đóa
ưu
đàm
tuyệt
thế?
".
Tóm
lại,
muốn
tiêu
trừ
nghiệp
chướng
và
phiền
não,
muốn
có
được
trí
tuệ
chơn
minh
liễu,
chúng
ta
phải
tinh
tấn,
kiên
trì
hành
theo
Giới-Định-Huệ,
con
đường
duy
nhất
đưa
chúng
sanh
từ
bờ
mê
đến
bến
giác.
--- o0o ---
|
Mục lục | |
Phần
kế |
--- o0o ---
Trình bày
: Nhị Tường
Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng
phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 01/2002)
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục