|
.
THIỀN
CHẤT
LIỆU NUÔI DƯỠNG, TRỊ LIỆU & CHUYỂN HÓA
Thích
Nhất Hạnh
|
|
Thiền,
nói cho đủ là thiền na (tiếng phạn là dhyana), là phần thực
tập nòng cốt của đạo Bụt. Thiền có mục đích giúp người
hành giả đạt tới một cái thấy sâu sắc về thực tại,
cái thấy này có khả năng giải phóng cho mình ra khỏi sợ
hãi, lo âu, phiền muộn, chế tác chất liệu trí tuệ và từ
bi, nâng cao phẩm chất của sự sống, đem lại cho mình và
cho kẻ khác nhiều thảnh thơi và an lạc. Bản chất của thiền
là niệm, định và tuệ, ba nguồn năng lượng được chế
tác trong khi thực tập. Ta thực tập thiền không phải chỉ
trong tư thế ngồi (thiền ngồi, tiếng Hán Việt: tọa thiền)
mà còn trong các tư thế khác như tư thế đi (thiền đi, tiếng
Hán Việt: hành thiền) tư thế đứng, tư thế nằm, trong những
lúc làm việc như giặt áo, bổ củi, gánh nước, tưới rau
hoặc lái xe. Bất cứ trong tư thế nào, bất cứ đang làm
gì và ở đâu mà trong thân tâm mình có được ba loại năng
lượng ấy là mình đang thực tập thiền. Sự thực tập này,
nếu được chỉ dẫn đúng mức, có thể đem lại sự thoải
mái và an lạc ngay trong lúc thực tập. Thực tập thiền có
tác dụng nuôi dưỡng và trị liệu cho cả thân và tâm, đem
lại nguồn vui sống cho người thực tập và cho những người
xung quanh. Không phải chỉ đi vào chùa hoặc thiền viện mới
thực tập được thiền. Sống trong xã hội, đi làm, chăm
sóc gia đình, ta cũng có thể tập thiền được.
Niệm
:
Niệm
là nguồn năng lượng giúp ta ý thức được những gì đang
xảy ra trong giây phút hiện tại, trong thân, tâm ta và trong
hoàn cảnh. Tiếng phạn là smrti . Nói cho đầy đủ là chánh
niệm ( samyaksmrti ). Những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện
tại trong lĩnh vực thân, tâm và hoàn cảnh thì nhiều lắm,
ta không thể nhận diện được tất cả một lượt. Nhưng
ta có thể nhận diện những gì nổi bật nhất, hoặc nhận
diện những gì mà ta cần nhận diện nhất. Nếu ta để ý
tới hơi thở vào và hơi thở ra và nhận diện được đấy
là hơi thở vào hoặc hơi thở ra, đó gọi là phép niệm hơi
thở . Nếu ta để ý tới bước chân và nhận diện được
từng bước chân ta đặt lên sàn nhà hoặc mặt đất, đó
gọi là phép niệm bước chân . Ta có thể gọi đó là chánh
niệm về hơi thở hoặc chánh niệm về bước chân. Niệm
bao giờ cũng là niệm một cái gì, nghĩa là niệm luôn luôn
có đối tượng của niệm. Nếu ta đang giận mà ta có ý thức
được là ta đang giận, đó gọi là niệm cơn giận . Trong
lúc ta thực tập như thế, có hai loại năng lượng đang biểu
hiện trong ta: năng lượng đầu là cái giận, năng lượng
thứ hai là chánh niệm do ta chế tác bằng bước chân hoặc
bằng hơi thở chánh niệm. Năng lượng thứ hai nhận diện
và ôm ấp năng lượng thứ nhất. Nếu sự thực tập kéo
dài năm bảy phút thì năng lượng chánh niệm sẽ đi vào trong
năng lượng giận hờn, và sẽ có sự thuyên giảm và chuyển
hóa. Năng lượng niệm mang theo nó năng lượng định, (chú
tâm) và năng lượng này có thể làm phát sinh năng lượng
tuệ (tuệ giác) có thể chuyển hóa được cơn giận thành
năng lượng của hiểu biết, chấp nhận, xót thương và hòa
giải.
Trong
đời sống hàng ngày tâm ta thường có khuynh hướng nhớ tưởng
về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Thân ta có mặt nhưng
tâm ta không có mặt. Chánh niệm là năng lượng giúp ta đưa
tâm về lại với thân để ta có mặt đích thực trong giờ
phút hiện tại. Có mặt như thế để có thể tiếp xúc với
những nhiệm mầu của sự sống trong ta và chung quanh ta. Theo
tinh thần thiền, sự sống chỉ có mặt đích thực trong giây
phút hiện tại. Bụt dạy: "Quá khứ đã qua, tương lai chưa
tới, sự sống chỉ có thể được tiếp xúc trong giây phút
hiện tại" (Kinh
Bhaddekaratta, Trung Bộ 131). Tiếp xúc được với những
gì nhiệm mầu có mặt trong giây phút hiện tại là để được
nuôi dưỡng và trị liệu. Nếu năng lượng chánh niệm đã
trở nên vững vàng, ta có thể sử dụng nó để nhận diện
và ôm ấp những nỗi khổ niềm đau của ta (như giận thù,
tuyệt vọng, tham đắm, bạo động, ghen tuông, v.v..) để có
thể chuyển hóa chúng từ từ. An trú được trong hiện tại
có thể đưa đến sự trị liệu mầu nhiệm: một phen an trú
được trong hiện tại là ta có thể vượt thoát ra ngoài những
nanh vuốt của sự tiếc thương và vương vấn về quá khứ
hoặc những lo lắng và sợ hãi về tương lai, những năng
lượng tiêu cực thường đưa tới các chứng bệnh tâm thần.
Có
bốn lĩnh vực làm đối tượng cho sự tu tập chánh niệm:
thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý (danh từ
chuyên môn là thân, thọ, tâm, pháp, tứ niệm xứ ) (Kinh
Niệm Xứ, Trung A Hàm 98).
Năng
lượng chánh niệm khi nhận diện thân thể (body) giúp ta trở
về thân thể với niềm ưu ái: trong khi theo dõi phép quán
niệm hơi thở ta chiếu cố tới thân thể ta, giúp cho thân
thể được buông thư (danh từ chuyên môn: an tịnh thân hành),
phép thực tập này rất hữu hiệu để đối phó với sự
căng thẳng của thần kinh và của cơ thể (stress). Ta có thể
thực tập phép an tịnh thân hành trong tư thế nằm cũng như
tư thế ngồi. Sự thực tập này giúp cho cơ thể tự trị
liệu lấy một cách tự nhiên (Kinh
Quán Niệm Hơi Thở, Trung Bộ, 118). Trong trường hợp
ta đang chữa trị bằng thuốc men thì phép an tịnh thân hành
này có thể giúp cho ta bình phục mau chóng hơn, ít nhất là
ba lần.
Thực
tập phép niệm thân ta cũng sẽ biết ăn uống và tiêu thụ
trong chánh niệm để đừng đưa vào cơ thể những thức ăn
thức uống có độc tố gây nên tật bệnh. Thực tập niệm
thân còn giúp ta đi, đứng, hành xử và làm việc một cách
thảnh thơi và nâng cao phẩm chất của sự sống hàng ngày.
Sự
thực tập chánh niệm hướng về cảm thọ (feelings) giúp ta
nhận diện những cảm thọ đang có mặt: cảm thọ dễ chịu
(lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khổ thọ) và cảm thọ trung
tính (xả thọ). Nếu đó là một cảm thọ dễ chịu, ta biết
được là cảm thọ đó phát xuất từ đâu và sẽ có tác
dụng lâu dài như thế nào vào thân tâm, tác dụng nuôi dưỡng
hoặc tàn phá. Nếu đó là một cảm thọ khó chịu, ta cũng
biết được là nó đã phát xuất từ đâu, và năng lượng
chánh niệm sẽ làm dịu lại cảm thọ đó và cuối cùng với
năng lượng định và tuệ ta có thể chuyển hóa nó. Nếu
cảm thọ ấy là trung tính thì với chánh niệm nó sẽ trở
thành một cảm thọ dễ chịu. Ví dụ: Khi nhức răng, ta có
khổ thọ. Ta nghĩ nếu hết nhức răng ta sẽ có lạc thọ.
Nhưng thường thường trong giờ phút không nhức răng mà ta
chỉ có xả thọ. Ý thức về điều này, sẽ giúp ta chuyển
xả thọ thành lạc thọ (sensation du bien-être, the feeling of
well-being).
Thực
tập chánh niệm hướng về tâm ý giúp ta nhận diện được
tất cả các hiện tượng tâm ý thường phát hiện trong tâm
thức như vui, buồn, thương, ghét... Theo tâm lý học đạo
Bụt, ta có 51 loại hiện tượng tâm ý (gọi là tâm hành,
cittasamskara), gồm có những tâm ý tích cực như thương mến,
bao dung, những tâm ý tiêu cực như giận hờn, tuyệt vọng,
và những tâm ý bất định như tư duy, hối tiếc.
Nhận
diện là để tìm tới cội nguồn của những tâm hành ấy
để biết rõ bản chất chúng và để chuyển hóa chúng. Ví
dụ: chứng trầm cảm (depression). Nhận diện trầm cảm với
năng lượng chánh niệm ta có cơ hội nhìn thấu bản chất
và cội nguồn của nó để biết được những nguyên do xa
gần đã làm cho nó có mặt. Với năng lượng của niệm, định
và tuệ ta có thể khám phá ra được bản chất của khối
trầm cảm. Dùng chánh niệm để chăm sóc trầm cảm, để
đưa tâm ý tiếp xúc với những hiện tượng tươi mát có
hiệu năng nuôi dưỡng và trị liệu, ta có thể làm thư nhẹ
chứng trầm cảm. Dùng chánh niệm để đừng sử dụng, tiếp
xúc và tiêu thụ những hình ảnh, âm thanh và ý tưởng có
công dụng đưa tới những sự căng thẳng, lo lắng và buồn
phiền, không cho chứng trầm cảm được tiếp tục nuôi dưỡng
bởi những độc tố đó, ta có thể chuyển hóa được trầm
cảm. Hiện trên trế giới, nhất là ở Tây phương, đã có
nhiều nơi áp dụng phép thực tập chánh niệm để đối trị
các chứng đau nhức, trầm cảm và giải tỏa tình trạng căng
thẳng trong thân tâm. Tại Trung Tâm Y học trường Đại Học
Massachusetts chẳng hạn, có giáo sư Jon Kabat-Zinn, một giáo
sư y khoa giỏi về thiền chánh niệm, đang điều khiển một
chương trình trị liệu gọi là The Program of the Stress Reduction
Clinic, chữa trị cho các chứng đau nhức, stress và tật bệnh
khá hữu hiệu. Chương trình này sử dụng phép thiền chánh
niệm. Tại các phân khoa Y Học các trường đại học lớn
như Harvard, UCLA, v.v.. cũng có những cơ sở nghiên cứu và
áp dụng thiền tập vào sự chữa trị tâm bệnh và thân bệnh.
Tại
trường Đại Học Y Khoa Harvard có Viện Tâm/Thân Y Khoa (Mind/Body
Medical Institute) do giáo sư Herbert Benson sáng lập và điều
hành, cũng đang nghiên cứu, truyền dạy và áp dụng thiền
trong việc chữa trị. Viện này đã liên tục hoạt động
từ 35 năm nay. Giáo sư Benson báo cáo: Trong viện chúng tôi
có nhiều nhà khoa học, y học, tâm lý học, giáo dục học
và y tá đã từng được đào tạo tới mức khá cao: các vị
ấy sau khi hướng dẫn những cuộc nghiên cứu tìm tòi và
thực nghiệm trong nhiều lĩnh vực khác nhau đã công nhận
rằng thiền tập có thể đem lại được rất nhiều mặt
trị liệu. Chúng tôi đã phát triển được những chương
trình y tế có thể đem tới những phương thức chữa trị
có hiệu năng làm thuyên giảm những triệu chứng bệnh hoạn
do sự căng thẳng tâm trí tạo ra. Trên 30 năm qua, các phòng
thí nghiệm của trường Đại Học Y Khoa Harvard đã nghiên
cứu một cách có hệ thống những lợi ích của sự hỗ tương
ảnh hưởng giữa thân và tâm. Những cuộc nghiên cứu ấy
đã chứng nghiệm rằng mỗi khi ta lặp lại liên tiếp nhiều
lần một câu kinh, một câu thiền ngữ hay một âm thanh (linh
chú, dharani) để cho trạng thái tán loạn của tâm ý không
thể xâm nhập thì trong những lúc ấy sẽ có những biến
chuyển sinh lý thuận lợi xẩy ra: những biến chuyển này
đi ngược nhiều với những biến chuyển đã từng mang lại
sự căng thẳng tâm trí. Những cuộc nghiên cứu ấy đã chứng
minh rằng các biến chuyển do thiền tập đem lại rất có
lợi lạc bởi vì chúng có hiệu năng giúp cho sự chữa trị
những triệu chứng như huyết áp cao, nhịp đập trái tim không
đều, các chứng đau nhức kinh niên, chứng mất ngủ, chứng
đánh mất khả năng sinh dục, những triệu chứng của bịnh
ung thư và còn nhiều triệu chứng khác nữa.
Thực
tập chánh niệm hướng về đối tượng tâm ý (đối tượng
tâm ý: objects of mind) nghĩa là tất cả những đối tượng
của tri giác ta: núi, sông, cây, cỏ, người, vật, xã hội,
v.v..) ta có cơ hội nhìn sâu để thấy được tự tính vô
thường và liên hệ sinh khởi và tồn tại của mọi hiện
tượng. Khi năng lượng của niệm, định và tuệ đã hùng
hậu, ta đạt tới một cái thấy sâu sắc về thực tại và
ta đạt tới tự do lớn, không còn vướng mắc vào sự sợ
hãi, thèm khát, hận thù và tuyệt vọng. Bụt và các vị hiền
thánh đã đạt tới cái thấy ấy cho nên họ có tự do lớn,
gọi là giải thoát. Thực tập thiền, chúng ta cũng đạt được
tới tự do, và dù tự do của ta tuy chưa lớn, nhưng chúng
ta cũng đã tháo gỡ được rất nhiều tri giác sai lầm và
thành kiến, do đó ta không còn đau khổ nhiều như trước
mà lại có thể có nhiều an lạc trong sự sống hiện tại.
Niệm
(smrti), Định (samadhi) và Tuệ (prajna) là những năng lượng
chế tác ra do sự thực tập thiền. Thiền học đã có mặt
tại Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ ba với thiền sư Tăng
Hội (Thân phụ thầy là người nước Khương Cư (Sogdiane,
Bắc Ấn Độ) qua Giao Châu buôn bán, và thân mẫu thầy là
người Việt). Thiền sư Tăng Hội được đào tạo tại Giao
Châu và đến năm 255 đã sang Bành Thành (Nam Kinh bây giờ),
kinh đô nước Đông Ngô, để truyền bá thiền học. Ông đến
nước Ngô trước ngày thầy Bồ Đề Đạt Ma tới nước Lương
gần 300 năm. Nước ta từ xưa đến nay đã từng có nhiều
vị thiền sư nổi tiếng (xem sách Việt
Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, nhà xuất bản Văn
Học, Hà Nội.) Ngoài những thiền sư xuất gia ta cũng
lại đã có những thiền sư cư sĩ cự phách như Trần Cảnh
(Trần Thái Tông, tác giả sách Khóa
Hư Lục) và Tuệ
Trung Thượng Sĩ (Trần Quốc Tung, anh cả của tướng
Trần Hưng Đạo) v.v.. Thiền đã là một viên đá nền tảng
cho nền văn minh Việt Nam. Văn chương, triết lý và nếp sống
đạo đức tâm linh người Việt chứa đựng rất nhiều yếu
tố thiền. Thực tập thiền giúp ta xóa bỏ thái độ cố
chấp, giáo điều, trở nên bao dung, độ lượng, biết hiểu,
biết thương sâu sắc hơn và chuyển hóa được nhiều đau
khổ trong tâm như thèm khát, vướng mắc, kỳ thị, hận thù,
nhỏ nhen, ích kỷ, sợ hãi, tuyệt vọng... Người Tây phương
từ cuối thế kỷ 20 đã bắt đầu chú ý tới thiền và rất
đông người, nhất là giới trẻ và giới trí thức, đã tìm
tới để học hỏi và thực tập thiền. Những tiện nghi vật
chất không đủ để làm ra hạnh phúc. Những sầu khổ ưu
tư và thắc mắc của ta chỉ có thể được giải đáp bằng
một đời sống tâm linh. Đạo Bụt và sự thực tập thiền
hiện đang đáp ứng cho đông đảo quần chúng về những nhu
yếu đó. Đạo Bụt có khả năng đi đôi với tinh thần khoa
học, hợp tác với khoa học trong lĩnh vực khám phá những
sự thực tâm linh, sinh học và vật lý học. Đạo Bụt rất
chuộng thực nghiệm và Bụt Thích Ca thường khuyên dạy đệ
tử không nên mất thì giờ luận thuyết về những chuyện
siêu hình.
Các
sách nên đọc: Sen Búp Từng Cánh Hé (thiền tập có hướng
dẫn) Phép
Lạ Của Sự Tỉnh Thức, Con Đường Chuyển Hóa, Từng
Bước Chân An Lạc, Kinh
Quán Niệm Hơi Thở, Thiền
Hành Yếu Chỉ, Trái Tim Của Bụt, Đường
Xưa Mây Trắng (nhà xuất bản Lá Bối, địa chỉ: 1037
E. Taylor, San Jose, CA 95112, Hoa Kỳ.)
Kết
Sử:
Kết
sử (phạn: samyojana) là những gút thắt hoặc những khối
đam mê, đè nén, sợ hãi, lo lắng, v.v.. đã kết tụ lại
trong chiều sâu tâm thức (đạo Bụt gọi là tàng thức), có
khả năng trói buộc và sai sử ta làm, nói và nghĩ những điều
ta thật sự không muốn làm, nói và nghĩ. Kết sử được
gieo trồng và nuôi lớn bằng nếp sống không chánh niệm hàng
ngày. Chánh niệm có khả năng nhận diện chúng mỗi khi chúng
phát hiện trên bề mặt của tâm thức (đạo Bụt gọi là
ý thức). Những kết sử này đã được hình thành trong quá
khứ, có khi dưới dạng thói quen (tập khí) được cha mẹ
trao truyền lại trong gia sản di truyền. Ta không cần đi về
quá khứ để tìm kiếm, không cần phải đào bới trong ký
ức (như trong phân tâm liệu pháp) để tìm ra nguyên do của
những rối nhiễu về tâm trí. Năng lượng chánh niệm có
khả năng nhận diện những kết sử khi chúng phát hiện và
nhìn sâu vào chúng, ta đã có thể thấy được cội nguồn
của những rối nhiễu kia. Thiền pháp chánh niệm chú trọng
tới giây phút hiện tại, thấy rằng nhìn sâu vào hiện tại
ta có thể thấy được cả quá khứ và tương lai. Mười loại
kết sử chính là: đam mê (tham), thù hận (sân), tri giác lầm
lạc (si), tự cho mình là hơn người, kém người hay bằng
người (mạn), nghi ngờ (nghi), cho rằng hình hài này là ta
(thân kiến), nhận thức nhị nguyên (biên kiến), có những
cái thấy sai lầm (tà kiến), cố chấp, không có khả năng
buông bỏ nhận thức hiện tại để có thể vượt tới một
nhận thức cao hơn (kiến thủ), và mắc kẹt vào các tư tưởng
mê tín, dị đoan và hình thái nghi lễ (giới cấm thủ kiến).
Sức khỏe và hạnh phúc của ta tùy thuộc rất nhiều tới
sự chuyển hóa những kết sử nói trên.
Mạn:
Thiền
tập giúp ta thấy được tính tương quan tương duyên của
vạn vật: không có hiện tượng nào (người hay vật) có thể
tự mình sinh khởi và tồn tại độc lập. Cái này phải nương
vào cái kia mà sinh khởi và tồn tại. Đó là cái thấy duyên
sinh, có khi gọi là tương tức hoặc vô ngã . Vô ngã nghĩa
là không có một thực tại biệt lập và vĩnh hằng nào nằm
trong lòng sự vật. Tất cả đều chuyển biến (vô thường)
hàng giờ hàng phút. Cha và con chẳng hạn không phải là hai
thực tại biệt lập: cha có trong con và con có trong cha, con
là sự tiếp nối của cha về tương lai, cha là sự tiếp nối
của con về nguồn cội. Hạnh phúc của con có liên hệ tới
hạnh phúc của cha; nếu cha không có hạnh phúc thì hạnh phúc
của con cũng không thể nào toàn vẹn. Vì cái này liên hệ
tới cái kia, cái này nằm trong cái kia, không có cái kia thì
cái này không có (thử hữu cố bỉ hữu, thử vô cố bỉ
vô, kinh Tạp A Hàm) cho nên bản chất của vạn hữu là vô
ngã. Người có tuệ giác không thấy có những cái ta riêng
biệt và độc lập. Trong giới tâm lý trị liệu, có mặc
cảm mình thua kém người (low self-esteem) là một chứng bệnh.
Trong thiền học, có mặc cảm hơn người hay có mặc cảm
bằng người cũng vẫn còn là bệnh. Bởi vì cả ba thứ mặc
cảm đều được xây dựng trên ý niệm về một cái ta riêng
biệt. Cả ba thứ mặc cảm đều được gọi là mạn (ưu
mạn, liệt mạn, đẳng mạn). (Kinh
Tam Di Đề, Tạp A Hàm, 1078). Những khổ đau do giận
hờn, ganh tỵ, thù hận, tủi hổ, v.v.. gây ra chỉ có thể
được hoàn toàn chuyển hóa khi ta đạt tới cái thấy vô
ngã. Đây
là nền tảng sự thực tập trị liệu của thiền.
Tàng
thức:
Thiền
sư Thường Chiếu (đời Lý) dạy rằng nếu biết được đường
lối vận hành của tâm thì sự thực tập thiền sẽ trở
nên dễ dàng. Tâm lý học đạo Bụt rất phong phú. Duy Thức
Tông của đạo Bụt nói tới tám thức: năm thức cảm giác,
ý thức, mạt na thức và tàng thức. Mạt na là năng lượng
bám víu vào ý tưởng có một cái ta riêng biệt độc lập
và thường tại, đối lập với những cái không ta. Tàng thức
(alaya) là phần sâu thẳm nhất của tâm thức, chứa đựng
tất cả những hạt giống (chủng tử, Phạn: bija) của tất
cả các tâm hành như buồn, vui, giận ghét, v.v.. Những hạt
giống này khi được tưới tẩm hoặc tiếp xúc thì phát hiện
lên ý thức thành những vùng năng lượng. Tàng thức giống
như một mảnh vườn chứa đủ các loại hạt giống, còn
ý thức thì giống nhưngười làm vườn.
Trong
công phu thiền tập, ý thức làm việc nhưng tàng thức cũng
làm việc âm thầm ngày đêm. Vô thức của tâm lý học Tây
phương chỉ là một phần của tàng thức. Nhận diện và chuyển
hóa những kết sử nằm sâu trong tàng thức đưa tới sự
giải thoát và trị liệu. Đó gọi là chuyển y (asrayaparavritti)
nghĩa là sự chuyển hóa được thực hiện ngay ở cơ sở
hạ tầng của tâm thức.
Sự
lưu thông của tâm hành:
Khi
những ước muốn, sợ hãi hoặc uất ức bị dồn nén, sự
lưu thông của các tâm hành có thể bị tắc nghẽn và nhiều
biến chứng có thể xảy ra trong lĩnh vực thân và tâm. Tuy
bị dồn nén, chúng vẫn có tác dụng sai sử và ràng buộc
ta, vì vậy chúng là những khối kết sử quan trọng. Ta có
thói quen lẩn tránh chúng, làm như chúng không có mặt, và
vì vậy để cho chúng không có cơ hội trồi lên hoặc phát
hiện trên ý thức. Ta đi tìm sự quên lãng trong tiêu thụ.
Ta không muốn trở về với ta, vì ta có cảm tưởng khi trở
về với ta, ta sẽ phải đối diện với những nỗi khổ đau
và những niềm thất vọng ấy. Ta muốn cho ý thức (phòng
khách) được chiếm cứ để các nỗi khổ niềm đau (nằm
dưới nhà kho) trong ta không có chỗ phát hiện. Vì vậy ta
xem truyền hình, nghe truyền thanh, xem sách, đọc báo, nói chuyện,
đánh cờ, bài bạc, uống rượu, v.v.. để tìm lãng quên.
Có thể ta không ý thức rằng ta tiêu thụ, và giải trí như
thế chỉ là để cho ý thức bên trên luôn luôn bận rộn
và để cho các kết sử bên dưới không có dịp trào lên.
Đó là sự dồn nén; sự dồn nén này tạo ra tình trạng thiếu
lưu thông của các tâm hành. Cũng như khi máu huyết không được
lưu thông thì nhiều triệu chứng bệnh hoạn xuất hiện nơi
cơ thể, khi các tâm hành bị dồn nén không lưu thông thì
các triệu chứng tâm bệnh (và cả thân bệnh nữa) cũng bắt
đầu xuất hiện. Vì vậy ta phải can đảm chấm dứt sự
dồn nén, để các tâm hànhước muốn, sợ hãi hoặc uất
ức được dịp phát hiện, nhận diện và chuyển hóa. Nếu
không thực tập thiền, nếu không có năng lượng của chánh
niệm thì ta không đủ sức làm việc này. Cho nên chế tác
chánh niệm bằng thiền tập hàng ngày giúp ta nhận diện,
ôm ấp và chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau của
ta. Nếu không có năng lượng chánh niệm thì ta không có khả
năng đối diện và xử lý chúng, và ta sẽ bị chúng làm cho
tràn ngập. Mỗi lần nhận diện và ôm ấp (chứ không phải
đè nén hoặc đàn áp) thì những năng lượng tiêu cực kia
sẽ yếu bớt đi một chút, và dăm bảy phút sau đó (có khi
lâu hơn) chúng sẽ trở về tàng thức dưới dạng những hạt
giống. Lần sau phát hiện, chúng cũng sẽ được nhận diện
ôm ấp như thế và cũng sẽ trở về tàng thức. Như vậy,
ta không còn sợ hãi chúng, đàn áp chúng, dồn ép chúng như
thế và tình trạng lưu thông của tâm ý sẽ được thiết
lập trở lại, và những biến chứng tâm lý về cơ thể kia
sẽ không còn.
Mũi
tên thứ hai:
Chánh
niệm trước hết là khả năng nhận diện đơn thuần (mere
recognition) về sự có mặt của một đối tượng, không phê
phán, không xét xử, không tham đắm vào đối tượng ấy,
cũng không chán ghét xua đuổi đối tượng ấy, và nhất là
không xem thường hoặc không quan trọng hóa nó. Ví dụ: ta
có một vùng đau nhức trong cơ thể. Ta chỉ nhận diện sự
đau nhức ấy. Với năng lượng của định và tuệ ta có thể
thấy và hiểu được tầm quan trọng và nguyên do đích thực
của vùng đau nhức ấy, và sự chữa trị sẽ được căn
cứ trên tuệ giác mà niệm và định đem lại. Nếu ta lo lắng
nhiều quá, nếu ta tưởng tượng nhiều quá, thì những lo
lắng và những tưởng tượng ấy sẽ làm ta căng thẳng, và
sự đau nhức sẽ tăng lên. Nó không phải là ung thư mà ta
tưởng tượng nó là ung thư và ta có thể lo lắng và sầu
não đến mất ngủ. Khổ đau vì thế tăng lên gấp bội và
sẽ đưa tới một tình trạng nghiêm trọng hơn. Trong
kinh Tạp A Hàm Bụt đưa ra ví dụ về mũi tên: nếu
một mũi tên thứ hai bay tới và cắm đúng ngay vào vết thương
gây ra do mũi tên đầu thì sự đau nhức sẽ không nhân thành
hai mà sẽ nhân thành mười. Vì thế ta đừng để cho một
mũi tên thứ hai hay một mũi tên thứ ba (tưởng tượng và
lo lắng) bay đến.
Tai
họa của dục:
Theo
thiền quán, hạnh phúc chân thực là sự có mặt trong giây
phút hiện tại, khả năng tiếp xúc được với những mầu
nhiệm của sự sống có mặt trong giây phút ấy và khả năng
hiểu biết, thương yêu chăm sóc và làm hạnh phúc cho những
người chung quanh. Đeo đuổi theo những đối tượng của dục
như tiền tài, danh vọng, quyền hành và sắc dục, người
ta đã không tạo dựng được hạnh phúc chân thật mà còn
tạo ra nhiều khổ đau cho bản thân và cho kẻ khác.
Con
người đầy dẫy ham muốn và ngày đêm chạy theo dục là
con người không có tự do; không có tự do thì không có thảnh
thơi, không có hạnh phúc. Ít ham muốn (thiểu dục), bằng
lòng với một nếp sống giản dị và lành mạnh (tri túc)
để có thì giờ sống sâu sắc từng phút giây của sự sống
hàng ngày và chăm sóc thương yêu cho những người thân, đó
là bí quyết của hạnh phúc chân thật. Trong xã hội bây giờ,
quá nhiều người đang đi tìm hạnh phúc trong đường hướng
của dục, vì vậy chất lượng của khổ đau và tuyệt vọng
đã tăng trưởng rất nhiều. Kinh Ở Rừng (Samyutta Nikaya 194)
nói tới dục như một chiếc bẫy. Bị sập vào bẫy dục,
người ta sầu khổ mất hết tự do, và không thể nào có
được hạnh phúc chân thật. Sợ hãi và lo lắng cũng đóng
một vai trò quan trọng trong sự tạo tác khổ đau. Nếu ta
có đủ tuệ giác để chấp nhận một nếp sống thiểu dục
và tri túc thì ta sẽ không cần phải lo lắng và sợ hãi nữa.
Chỉ vì nghĩ rằng ngày mai ta có thể mất công ăn việc làm
và sẽ không thể có được lương bổng hàng tháng như bây
giờ nên ta thường trực sống trong sự lo lắng phập phồng.
Do đó con đường tiêu thụ ít và có hạnh phúc nhiều, được
xem như là con đường thoát duy nhất của nền văn minh hiện
tại .
|