TỰA
THIỀN TÔNG CHỈ NAM
Trẫm
thầm nghĩ: Phật không có Nam Bắc, mọi người đều có thể
tu cầu. Tánh có trí ngu, đồng sẵn giác ngộ. Vì vậy, phương
tiện dẫn dụ đám người mê, để sáng tỏ đường tắt
sanh tử, là kinh điển của đức Phật. Ðặt mực thước
cho đời, làm mô phạm cho người sau, là trọng trách của
các bậc Thánh trước (Tổ). Cho nên Lục Tổ nói: "Những
bậc Thánh trước (Tổ) cùng Ðại sư (Phật) không
khác". Nên biết giáo pháp của Phật nhờ các bậc Thánh trước
truyền bá ở đời. Nay trẫm đâu không thể lấy trách nhiệm
các bậc Thánh trước làm trách nhiệm của mình, giáo pháp
của Phật làm giáo pháp của mình.
Vả
lại, thuở trẫm còn niên thiếu, có chút ít hiểu biết vừa
nghe lời dạy của Thiền sư thì tâm tư lóng lặng, bỗng dưng
thanh tịnh, nên để tâm nơi nội giáo, tham cứu Thiền tông,
dốc lòng tìm thầy, chí thành mộ đạo. Tuy ý nói hồi hướng
đã nẩy mầm, mà cơ cảm xúc chưa thấu suốt.
Năm
mười sáu tuổi, Thái Hậu đã chán cõi đời, trẫm nằm rơm
gối đất, khóc ra máu mắt, đau đớn nát lòng; ngoài nỗi
đau buồn này, đâu rảnh nghĩ việc khác. Chỉ vài năm sau,
Thái Tổ Hoàng Ðế cũng băng hà, lòng thương mẹ chưa nguôi,
nỗi xót cha càng thống thiết, buồn thảm tràn trề khó bề
dẹp được. Trẫm nghĩ: Công cha mẹ đối với con, nuôi nấng
vỗ về không thiếu điều gì, dù con phải xương tan, thịt
nát vẫn chưa đủ đền đáp trong muôn một. Huống nữa, Thái
Tổ Hoàng đế khai cơ lập nghiệp rất đổi gian nan, trị
nước giúp đời càng thêm hệ trọng. Người đem đất nước
giao cho ta khi còn thơ ấu, khiến ta ngày đêm canh cánh không
chút thảnh thơi. Ta lòng riêng tự bảo: trên đã không cha
mẹ để nương tựa, dưới ngại chẳng xứng lòng dân mong
đợi. Phải làm sao đây? Ta suy đi nghĩ lại: chi bằng lui về
ở chốn núi rừng, tìm học Phật pháp để hiểu rõ việc
lớn sanh tử, lấy đó đền đáp công ơn cha mẹ, chẳng hay
hơn sao? Thế là chí trẫm đã quyết định.
Ðêm
mùng ba tháng tư năm Bính Thân, niên hiệu Thiên Ứng Chính
Bình thứ năm (1242), trẫm đổi y phục đi ra khỏi cửa cung
bảo tả hữu rằng: "Trẫm muốn đi dạo để ngầm nghe lời
dân, biết được chí dân, mới hiểu thấu nỗi khó khăn của
họ". Bấy giờ tả hữu theo trẫm không quá bảy tám người.
Giờ hợi đêm ấy, trẫm cởi một ngựa lặng lẽ ra đi; sang
sông thẳng về hướng đông, mới nói thực lòng cho tả hữu
biết. Tả hữu ngạc nhiên, tất cả đều khóc. Giờ mẹo
hôm sau, đến bến đò Ðại Than bên núi Phả Lại, sợ có
người biết, trẫm lấy áo che mặt qua sông, đi tắt theo đường
núi. Ðến tối vào nghỉ chùa Tăng Giác Hạnh, đợi sáng lại
đi. Leo trèo lặn lội, núi hiểm suối sâu, ngựa mõi mệt
không thể tiến lên được; trẫm bèn bỏ ngựa vin vách đá
lần bước, đến giờ mùi mới tới sườn núi Yên Tử. Sáng
hôm sau, trẫm trèo thẳng lên đỉnh núi, tham kiến vị đại
Sa môn Quốc sư Trúc Lâm. Quốc sư vừa thấy trẫm mừng rỡ,
ung dung bảo:
"Lão
tăng ở lâu nơi sơn dã, xương cứng mặt gầy, ăn rau đắng
cắn hạt dẻ, uống nước suối dạo cảnh rừng, lòng như
mây nổi theo gió đến đây. Nay Bệ hạ bỏ ngôi nhân chủ,
nghỉ đến nơi quê hèn rừng núi, chẳng hay Bệ hạ mong cầu
điều gì mà đến đây".
Trẫm
nghe nói, hai hàng nước mắt tự trào, đáp lại Sư rằng:
"Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng trên sĩ
dân không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế
vương đời trước, thịnh suy không thường, cho nên trẫm
đến núi nầy chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác".
Sư
bảo: "Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm.
Tâm lặng mà biết gọi là chơn Phật. Nay Bệ hạ nếu ngộ
tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc tìm cầu bên
ngoài".
Bấy
giờ ông chú Trần Công, người em họ mà Tiên quân gởi gấm
đứa con côi. Sau khi Tiên quân bỏ thế gian và quần thần,
trẫm phong làm Thái sư tham dự quốc chính. Nghe tin trẫm trốn
đi,ông liền sai tả hữu đi mọi nơi dò tìm tung tích rồi
cùng người trong nước lên đến núi nầy.
Gặp
trẫm, ông thống thiết nói:"Thần nhận sự ủy thác của
Tiên quân, tôn Bệ hạ làm chúa thần dân. Lòng dân trông đợi
Bệ hạ như con nhỏ mong đợi cha mẹ. Huống nữa, ngày nay
các cố lão trong triều đều là bề tôi thân thuộc, dân chúng
sĩ thứ ai cũng vui vẻ phục tùng. Cho đến đứa bé lên bảy
cũng biết Bệ hạ là cha mẹ dân. Vả Thái Tổ bỏ thần mà
đi, nắm đất trên mồ chưa khô, lời dặn dò còn vẳng bên
tai. Nay Bệ hạ trốn lánh vào núi rừng, ẩn cư để mong thỏa
chí mình. Như thần nghĩ, Bệ hạ tính kế tự tu thì có thể
được, còn quốc gia xã tắc thì sao? Chỉ để lời dạy suông
cho đời, chi bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên
hạ. Bệ hạ nếu không nghĩ lại, chúng thần cùng người
trong thiên hạ đồng chết ngay hôm nay, quyết chí không trở
về".
Trẫm
thấy Thái sư cùng các cố lão quần thần không có ý bỏ
trẫm, liền đem lời bày tỏ với Quốc sư. Quốc sư cầm
tay trẫm bảo: "Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn
của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ
làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ trở về,
Bệ hạ không về sao được. Song phần nghiên cứu nội điển,
mong Bệ hạ đừng xao lãng".
Vì
thế, trẫm cùng mọi người trở về Kinh, miễn cưỡng lên
ngôi. Khoảng hơn mười năm, những khi được rảnh rổi, trẫm
họp các vị kỳ đức để tham cứu thiền, hỏi đạo và
các kinh Ðai thừa... đều nghiên cứu qua. Trẫm thường đọc
kinh Kim Cang đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", trong
khoảng để quyển xuống ngâm nga, bỗng nhiên tự ngộ. Liền
đem sở ngộ này viết thành bài ca, để tên là "Thiền Tông
Chỉ Nam". Năm này, Quốc sư từ núi Yên Tử về kinh, trẫm
mời ở chùa Thắng Nghiêm, trông coi việc ấn bản các kinh.
Trẫm đem tập sách này trình Sư, Sư xem qua liền tán thán
rằng: "Tâm chư Phật ở trọn nơi đây, sao không nhân khắc
in các kinh, khắc in luôn để dạy kẻ hậu học".
Trẫm
nghe lời này, sai thợ viết chữ chân phương, ra lệnh khắc
bản in. Chẳng những để chỉ đường mê cho hậu thế, mà
còn muốn tiếp nối công lớn các bậc Thánh nhơn đời trước.
Vì thế tự làm lời tựa này.
TỰA
KHÓA NGHI SÁU THỜI SÁM HỐI
Tiện
lợi việc đi lại dưới sông trên bộ, là nhờ xe, thuyền;
tẩy sạch bụi dơ nơi thân tâm, là do sám hối. Muốn tẩy
sạch thân tâm mà không dùng sám hối, khác nào muốn tiện
lợi qua lại mà chẳng dùng xe, thuyền. Thế mới biết công
dụng sám hối rất là to. Cho nên kinh Ðại Tập nói: "Như
áo dơ hằng trăm năm, có thể trong một ngày giặt được
sạch sẽ. Như thế, trong trăm ngàn kiếp đã tích tụ các
nghiệp chẳng lành, do nhờ Phật lực, khéo thuận tư duy, có
thể trong một ngày hay một giờ, trọn hay tiêu diệt!"
Vả
lại, chúng sanh từ trước đến nay tánh giác thanh tịnh tròn
sáng, trong trẻo như hư không chẳng có mảy bụi. Do bọt vọng
dấy lên, cõi uế hiện thành, năng và sở nương nhau, Phật
với chúng sanh thấy hai. Căn tánh sai biệt, ngu trí phân chia,
chỉ cho một cửa, khó được ngộ nhập. Vì thế, đức Phật
chúng ta trí nguyện rộng lớn, mở cửa phương tiện, tùy
lối chỉ đường về, đúng bệnh cho thuốc. Biết huyễn cấu
của chúng sanh từ vọng mà sanh, khuyên họ một niệm kính
thành quy y sám hối. Khiến thân tâm thanh tịnh, trong sạch
như xưa. Gió yên thì sóng lặng, bụi sạch thì gương sáng.
Sao thế? Vì trước khởi tâm ác, như mây che mặt trăng, sau
sanh tâm thiện, như đuốc sáng tan bóng tối. Ôi! Công dụng
sám hối lớn lao há chẳng vậy sao?
Trẫm
nhờ quyến thuộc nhà trời, ở ngôi chí tôn, nên việc dân
gian quốc chính phiền rộn. Phồn hoa dụ dỗ bên ngoài, thị
dục mê hoặc ở trong. Miệng thì chán ngán vị ngon, thân phải
đeo mang vàng ngọc. Thấy nghe đuổi theo thinh sắc, ở ăn toàn
chốn gác đài. Lại nữa, thói đời khinh bạc, nhân pháp suy
vi, học giả mù độn, căn lành kém mỏng. Ngày thì căn trần
va chạm, lưới nghiệp kéo lôi; đêm thì mê ngủ che đậy,
dây lười trói buộc. Ngày đêm dính mắc, đâu không phải
là lỗi chuốc họa gây thù. Trẫm vì lẽ đó, ôm ấp trong
lòng, thương cảm xen lẫn, quên ăn mất ngủ. Nhân khi việc
triều rãnh rổi, xem khắp Kinh, Luận và các văn nghi lễ, tuyển
chọn pháp có được tự lợi, lợi tha dùng để chỉ dạy
cho người. Trăn trở suy đi nghĩ lại, xưa tạo nghiệp trọn
do sáu căn. Vì thế đức Phật Thích Ca khi chưa thành đạo,
trước vào núi Tuyết sáu năm tu khổ hạnh, là do sáu căn
đó vậy. Phỏng theo ý ấy, lấy sáu căn phân làm sáu thời,
mỗi thời lễ sám một căn. Chính trẫm chế nghi văn sám hối
này, gọi là "Khóa nghi sáu thời lễ Phật sám hối".
Văn
thì rườm rà, lời thì xa xôi. Nếu văn rườm rà thì người
lười sám hối, lời xa xôi thì dễ sanh nghi. Cho nên không
dùng lời phù phiếm dồn cho đầy quyển, cốt khiến người
đọc tụng vui vẻ, người nghe thấy dễ ngộ. Mới mong những
kẻ có lòng tin, ngày đêm phát tâm chí thành, theo khóa nghi
này làm lễ sám hối. Ðây chẳng phụ chí nguyện tự lợi,
lợi tha của trẫm.
Người
sáng mắt thời sau, chớ xem nghi văn này mà phát cười. Tuy
nhiên như thế:
Không
nhân ngõ tía hoa cười sớm,
Ðâu
thấy hoàng oanh đậu liễu xanh.
NGŨ
GIỚI:
VĂN GIỚI
SÁT
Phàm
các loài sanh từ trứng, thai, ẩm, hóa tính vẫn đồng, thấy
nghe hiểu biết đâu khác. Chỉ do tạo nghiệp kết oán, nên
thọ tên hiệu khác. Ngày trước vốn loài người, nay sanh
đàn giống khác nhau. Hoặc là bạn bè, hoặc là anh em. Thay
đổi áo xiêm đai mũ, biến thành mai vảy cánh lông. Vợ quên
chồng, chồng quên vợ, con trái cha, cha trái con. Ðã thấy
đổi đầu khác mặt, lôi về mổ bụng chặt chân. Luống
do tham sống sợ chết, lại không một lời kêu đau khổ. Ngươi
giết nó, nó giết ngươi, hắn ăn mày, mày ăn hắn, hằng
ngày không dứt, mãi tạo oán trái. Kiếp kiếp trả nhau, đời
đời thù nhau.
Người
quay đầu liền đến quê nhà, kẻ phóng tâm hằng chìm địa
ngục. Sách Nho dạy: "Thi ân bố đức". Kinh Ðạo dạy: "Ái
vật háo sanh"; Phật chỉ cấm sát là giữ giới, người phải
để ý tuân hành chớ phạm.
Kệ
rằng:
Cánh
lông mai vảy trọn hàm linh,
Sợ
chết tham sanh nào khác tình.
Từ
trước thánh hiền lòng chẳng nở,
Ðâu
cam thấy chết vẫn tham sinh.
VĂN GIỚI
TRỘM
Người
làm nhân gnghĩa là quân tử, kẻ làm trộm cắp là tiểu nhân.
Người quân tử ôm lòng cứu giúp kẻ cô bần, đứa tiểu
nhân thì tham tài lấy vật. Vật của người lấy làm của
mình, mặc kệ nhiều người trách cứ, chỉ biết lợi ích
cho mình. Ðâu biết giàu sang tại trời, chỉ thả ý tham cầu.
Thuốc chó, đào hầm, đục tường, khoét vách theo gót tướng
quân Sơn Dương, tập làm Khương Thượng quân tử. Nghịch
trời trái đất, dối pháp khinh hình. Khi sống thì pháp luật
trừng trị, lúc chết bị minh ty khảo tra.
Không
những đống vàng khối ngọc,dầu rằng cọng cỏ mảy lông.
Ngửi mùi hương sen trong ao mà Ðịa thần còn quở, cho vay
lấy lời Diêm vương còn phạt. Lưới trời lồng lộng, làm
thiện thì thoát, làm ác phải mang. Phép nước thênh thang,
làm việc công thì khỏi, làm việc tư thì phạm.
Kệ
rằng:
Ðục
vách đào tường ý chẳng thôi,
Trăm
mưu ngàn kế khổ mong cầu.
Ðời
này ví được của mấy người,
Nào
biết muôn phen kiếp ngựa trâu.
VĂN GIỚI
SẮC
Lưng
ong tóc mượt hay khiến tâm tánh say mê, sắc én mày ngài làm
cho hồn phiêu phách lạc. Ðưa mắt liếc chẳng phải dao mài
mà ai không đứt ruột. Lưỡi uốn tợ sáo diều, mọi người
đều phải lắng nghe. Người mê thì nghĩa thân sơ đều dứt;
kẻ tham thì đạo đức tiêu tan. Trên thì phong giáo đắm chìm,
dưới thì khuê môn tán loạn. Bất luận phàm phu học giả,
đều say áo đẹp thích điểm trang. Kỷ cương quốc gia rơi
chốn Tô đài; giới thể bị chôn vùi nơi dâm thất.
Thảy
do phóng mắt đuổi theo bên ngoài, nên không xoay đầu nhìn
lại bên trong. Cởi hết lụa là che thân chỉ bày làn da bọc
thịt. Ðộc giác gần Nữ am mà hoàn tục; chân quân xa Thán
phụ nên thăng thiên. Người chẳng theo sắc được năm thần
thông, kẻ mê sắc thì mất các giới hạnh.
Kệ
rằng:
Má
thoảng hương mai, mặt nhụy đào,
Thấy
rồi mắt dán, ý nao nao.
Thảy
đều một đãy da hôi thúi,
Thầm
cắt ruột người chẳng dụng dao.
VĂN GIỚI
VỌNG NGỮ
Tâm
là gốc thiện ác, miệng là cửa họa phúc. Nghĩ một niệm
thì hưởng ứng chẳng sai; nói một lời thì bóng theo chẳng
lệch. Quân tử trọng lời như biện; cổ nhân ngừa nói như
bình. Nói ra thì ngay thẳng công bằng; mở lời không cong queo
tà vạy. Không nói đây kia hay dỡ, chẳng bàn mình phải người
sai. Ðâu dám khua môi múa lưỡi, cần phải giữ miệng gìn
lời. Vả nghiệp của thân là nặng, song họa của miệng là
trước. Chẳng những kẻ nói là vọng ngôn, còn khiến người
nghe làm bậy.
Ðời
này bị người khinh rẻ, sau khi chết bị nghiệp kéo lôi.
Hoặc kềm sắt, kéo lưỡi cam chịu chua cay. Hoặc nước đồng
sôi rót vào miệng ôm lòng đau đớn.
Kệ
rằng:
Kề
vai cười nói khua lưỡi môi,
Cứ
mãi làm người vọng ngữ thôi.
Riêng
ý cầu tài mong người thích,
Sau
cùng khó tránh nghiệp kéo lôi.
VĂN GIỚI
RƯỢU
Người
ưa uống rượu thì đức hạnh suy kém, lời nói nhiều lầm
lỗi. Hơi nóng xông nát dạ dày, vị cay xuyên thủng gan ruột.
Rối loạn tinh thần, tâm tánh hôn mê. Chẳng nghĩ đến cha
mẹ, tội ngũ nghịch chuyên làm. Hoặc ồn náo nơi tiệm quán,
hoặc say mèm ngoài đường sá. Khi trời mắng đất, hũy Phật
chê Tăng. Miệng lãm nhãm hát ca, thân trần trụi nhảy múa.
Ðã không tiếp Phật cúng dường, mà lại theo bọn mũ đen
bất chánh. Tan thân mất mạng từ đó mà sanh, mất nước
tan nhà từ đây mà có.
Bỏ
rượu thì ngàn điềm lành điều tới, uống rượu thì trăm
họa kéo về. Ðại Võ không uống rượu nên muôn họ đều
theo. Thái Khang mê rượu nên năm con đều oán. Ðâu chỉ hàng
phong lưu phải răn, mà bậc đạt giả cũng cần phải tránh.
Bao nhiêu người rạng rỡ trên đời, lại bị tối tăm trong
rượu.
Kệ
rằng:
Men
bả một vò ủ nấu thành,
Bao
nhiêu người trí mất thông minh.
Chẳng
riêng Tăng sĩ không gìn giới,
Mất
nước, tan nhà từ đó sanh.
BỐN
NÚI:
Nguyên
là, tứ đại vốn không, ngũ ấm chẳng có. Do không khởi
vọng, vọng thành sắc, sắc tự chơn không. Vọng ấy từ
không, không hiện vọng, vọng sanh các sắc. Ðã trái không
sanh không hóa, mãi làm có hóa có sanh. Không sanh hóa thì không
hóa sanh; có hóa có sanh nên có sanh có hóa. Hoặc sanh thánh
hiền ngu trí, hoặc hóa vảy cánh lông sừng. Luôn luôn chìm
đắm nơi bến mê, mãi mãi trôi lăn trong biển khổ. Mờ mờ
mịt mịt nào biết nào hay, rối rắm lăng xăng chẳng tinh
chẳng ngộ. Trọn là buông tâm chạy đi, đều không nắm mũi
kéo về. Khiến đến qua lại sáu đường, xuống lên bốn
núi. Bốn núi là: Sanh, Già, Bệnh, Chết. Nay lần lượt trình
bày bốn núi để lại đời sau.
KỆ BỐN
NÚI
Bốn
núi cheo leo vạn khóm tùng,
Ngộ
xong chẳng có muôn vật không.
Mừng
được ba chân lừa có sẵn,
Cởi
lên thúc mạnh vượt cao phong.
NÚI THỨ
NHẤT
Núi
thứ nhất là tướng Sanh: Vì sai một niệm nên hiện đa
đoan. Gá hình hài nơi tinh huyết mẹ cha, nương khí âm dương
dưỡng nuôi thai nghén. Trong tam tài người đứng giữa, lại
hàng chí linh của muôn vật. Chẳng luận kẻ trí người ngu,
đều thuộc bào thai bao bọc; hỏi chi một người trăm họ
đều trong lò bể mà ra. Hoặc mặt trời biểu hiện, vua thánh
giáng sanh; hoặc các sao ứng điềm, tôi hiền xuất hiện.
Văn chương quét sạch ngàn quân, võ luợc chiến thắng trăm
trận. Trai cậy phong tư ném quả, gái khoe sắc đẹp nghiêng
thành. Một trận cười nghiêng nước, hai trận cười đổ
thành. Ðua danh khoe đẹp, tranh lạ đấu trân, xem ra thảy đều
luân hồi, đáo để khó trốn sanh hóa.
Tướng
Sanh của người là mùa xuân trong năm. Hanh thông đang độ
tam dương, muôn vật rực màu tươi tốt. Một trời trong sáng,
nơi nơi liễu thắm hoa cười; muôn dặm phong quang, chốn chốn
oanh kêu bướm lượn.
Kệ
rằng:
Trời
đất nấu nung vạn tượng thành,
Xưa
nay không mống cũng không manh.
Chỉ
sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền
trái không sanh nhận có sanh.
Mũi
đắm các hương, lưỡi tham vị,
Mắc
mờ chúng sắc, tiếng mê tai.
Lang
thang làm khách phong trần mãi,
Ngày
cách xa quê muôn dặm trình.
NÚI THỨ
HAI
Núi
thứ hai là tướng Già: Hình dung thay đổi, khí huyết đã
suy, dáng gầy tuổi cao, ăn uống hay sặc thường nghẹn. Tóc
xanh má đỏ đổi thành tóc bạc da mồi, ngựa trúc áo hoa
biến thành gậy cưu xe cói. Dẫu rằng mắt sáng như Ly Lâu
cũng khó phân rành màu sắc; dù cho tai thính như Sư Khoáng
cũng không nhận rõ âm thanh. Tiều tụy như cây liễu lúc thu
về, điêu linh như đóa hoa khi xuân hết. Bóng chiều vừa ngã
non tây, dòng nước sắp chảy về biển đông.
Tướng
Già của người là mùa hạ trong năm. Trời nóng đá chảy
muôn vật đều khô, nắng nóng sôi vàng trăm sông sắp cạn.
Hoa tàn liễu úa, bờ lạch trong vườn há còn lưu giữ. Bướm
lượn oanh bay, dưới lá đầu cành già sắp tới.
Kệ
rằng: