Lời
nói đầu
Lẽ
thật là không ai muốn đau khổ và mọi người đều tìm kiếm
hạnh phúc. Trong thế giới của chúng ta, con người cố gắng
làm mọi cách để phòng ngừa và làm giảm đau khổ, đồng
thời hưởng thụ hạnh phúc. Tuy nhiên, tất cả cố gắng
của con người đều chỉ hướng về phúc lợi của thân và
về mặt vật chất. Hạnh phúc, thật ra, bị điều kiện hoá
bởi thái độ của tâm thức, và chỉ có vài người thật
sự nghĩ đến việc phát triển khía cạnh tâm thức, và lại
rất ít người lại chịu thực tập thiền định một cách
miên mật.
Để
minh hoạ điểm nầy, có lẽ chúng ta nên để ý đến những
thói quen thường ngày như làm vệ sinh thân thể, sự theo đuổi
không ngừng về thức ăn, quần áo, chỗ ở, và sự tiến
bộ về mặt kỹ thuật thật là to lớn, hầu để nâng cao
đời sống vật chất ở mức căn bản, cải thiện cách thức
chuyên chở và truyền thông tin tức, để phòng ngừa, chữa
trị những ốm đau, bệnh tật. Thông thường tất cả những
cố gắng nầy chỉ để chăm sóc và nuôi dưỡng thân thể.
Phải công nhận rằng những việc nầy rất cần thiết. Tuy
nhiên, những cố gắng của con người và sự tiến bộ không
làm giảm thiểu hoặc nhổ bỏ được gốc rễ đau khổ của
già và bệnh, sự bất hạnh trong gia đình, nỗi lo lắng về
mặt kinh tế ; tóm lại, không thể nhổ bỏ tận gốc rễ
của sự bất mãn hay những ham muốn. Đau khổ về mặt nầy
không thể bị khắc phục bởi những phương thức thiên về
vật chất; chúng chỉ có thể bị khắc phục bởi một tâm
thức thiền và sự phát triển về mặt tâm linh.
Kế
đó, cần biết rõ con đường đúng đắn để thực tập,
ổn định và thanh tịnh hoá tâm thức. Con đường đúng đắn
nầy được nhắc đến trong Kinh Mahā Satipatthāna (Đại Tập
Kinh), một bài giảng nổi tiếng của đức Phật, cách đây
đã trên 2.500 năm. Đức Phật tuyên bố như sau :
«
Đây là con đường duy nhất để thanh tịnh hoá con người,
để khắc phục buồn phiền, than vãn, để diệt trừ niềm
đau và nỗi sầu khổ, để đạt đến con đường chân chính,
đạt đến nibbāna (Niết Bàn), đó là bốn nền tảng của
chính niệm. (Tứ Niệm Xứ) »
Bốn
nền tảng của chính niệm là (1) sự suy ngẫm về thân, (2)
sự suy ngẫm về cảm giác, (3) sự suy ngẫm về tâm thức,
và (4) sự suy ngẫm về đối tượng của tâm thức.
Hiển
nhiên, những người đi tìm hạnh phúc có thể đi theo con đường
nầy, với mục đích là gột rửa những nhiễm ô của tâm
thức, những nguyên nhân đã tạo nên đau khổ.
Nếu
một người được hỏi, anh ta có mong muốn khắc phục được
nỗi phiền muộn và sầu não không, tất nhiên anh ta sẽ nói,
« Vâng, tôi muốn. » Kế đó, anh ta có thể sẽ
nói, cần phải thực tập Tứ Niệm Xứ.
Nếu
một người được hỏi, nếu anh ta muốn diệt trừ nỗi đau
và phiền muộn, anh ta sẽ không ngần ngại mà trả lời một
cách khẳng định. Kế đó, anh ta nói, cần thực tập bốn
niệm xứ.
Nếu
một người được hỏi nếu anh ta muốn đi trên chính đạo,
để đạt niết-bàn, một trạng thái hoàn toàn xa rời khỏi
già, hư hoại và chết, và xa rời tất cả đau khổ, anh ta
chắc chắn sẽ trả lời một khách quả quyết rằng anh ta
đồng ý. Kế đó, có thể nói, nên thực tập bốn niệm xứ.
Làm
thế nào để một người thực tập bốn nền tảng của chính
niệm ? Trong kinh Mahā Satipatthāna Sutta ( Đại Tập Kinh), đức
Phật đã nói, « Hãy thực tập suy ngẫm về thân, suy ngẫm
về cảm giác, tâm thức và đối tượng của tâm thức. »
Nếu không có sự chỉ dẫn từ một vị thầy có đủ tư
cách, thì thật không phải dễ cho một người bình thường
thực tập những suy ngẫm nầy một cách có hệ thống, để
có thể tiến bộ, phát triển sự chú tâm và sự sáng suốt
của chính niệm.
Chính
bản thân tôi đã từng chịu đựng sự thực tập miên mật
về thiền satipatthāna (bốn niệm xứ), dưới sự chỉ dẫn
riêng của Thầy Mingun Jetavan Sayādaw ở Thaton, tôi đã từng
truyền đạt cách thức thiền nầy từ năm 1938 với sự chỉ
dẫn riêng, cũng như đã ghi lại trong sách, trong các bài giảng
cho cả ngàn du sĩ (yogis). Để chìu theo những yêu cầu
của những nhóm người trước đó, đã từng học tập với
tôi, tôi viết bảng luận thuyết về Vipassanā và thiền định
sâu sắc, trong hai bộ sách. Luận thuyết đã hoàn tất vào
năm 1994, và đã được xuất bản bảy lần. Trong tất cả
các chương, trừ Chương V, những bài bình luận, thảo luận
có sự tham khảo của các bảng kinh Pali, với những lời dẫn
giải, chú giải. Trong Chương V, tôi chọn cách viết trong một
ngôn ngữ bình thường, dễ hiểu cho học trò, chỉ dẫn làm
thế nào để họ có thể bắt đầu thực tập, và tiến hành
ra sao, từng bước một, ghi chú rõ ràng những điểm đặc
biệt nổi bật, cùng với những lời giảng trong Visuddhimagga
(Thanh Tịnh Đạo) và những bài kinh khác.
Quyển
sách hiện nay là quyển đã được dịch sang Anh ngữ với
Chương 5 đã nói ở trên. Mười bốn trang đầu của quyển
sách chính bằng tiếng Miến Điện đã được U Pe Thin, dịch
sang Anh ngữ từ năm 1954, là một học trò lâu năm của tôi,
ông ta đã dịch quyển sách sang tiếng Anh vì phúc lợi của
những người ngoại quốc đến thiền viện của chúng tôi
để thực tập. Từ trang 15 tới trang 51 của bảng gốc đã
được Myanaung U Tin, một học trò của tôi dịch sang Anh ngữ,
theo lời yêu cầu của Thầy Venerable Nyanaponika Mahāthera. Thật
là ngẫu nhiên, Thiền viện của chúng tôi có một khu gọi
là Thathana Yeiktha, diện tích đất gần hai mươi bốn mẫu,
với trên năm mươi toà nhà dành cho các thiền sư và các du
sĩ (yogis), tu sĩ, cũng như các cư sĩ nam và nữ.
Thầy
Nyanaponika Mahāthera đã đúc kết bản dịch nầy sau khi đã
ghi lại những ý kiến giá trị. Bản dịch của U Pe Thin đã
được Cô Mary McCollum, một nữ cư sĩ người Mỹ hiệu đính
và cải thiện đúng cách. Cô đã thực tập thiền satipatthāna
dưới sự hướng dẫn của ông Anagarika Munindra ở Burmese Vihāra,
Bodh-Gaya, Bihar, Ấn độ. Ông Anagarika Munindra đã từng sinh
hoạt với chúng tôi trong một thời gian dài. Ông ta đã gửi
đến chúng tôi bản hiệu đính của cô, nhờ chúng tôi đọc
kỹ và chấp thuận. Sau khi hoàn tất, quyển sách ấy được
gửi đến Thầy Nyanaponika Mahāthera. Và như vậy, quyển sách
nầy đây, là sự đóng góp và tích luỹ của hai bản dịch
trước đó, cộng với lời ngõ của tôi.
Chương
V của bản luận thuyết bằng tiếng Miến Điện, như đã
nói ở trên, được viết bằng một ngôn ngữ bình thường.
Tôi cũng muốn nhắc rằng trong những từ ngữ có tính chất
học thuyết trong sách nầy, tôi đã không sử dụng những
từ Pali, mà là giải thích tường tận về « việc phát triển
sự sáng suốt », được dịch từ bài luận thuyết bằng
tiếng Pali của tôi, đã được thầy Nyanaponika Mahāthera dịch
sang Anh ngữ. Quyển sách của ông, « Trọng tâm của Thiền
phật giáo », là một kho tàng vô giá về tài liệu cũng như
những chỉ dẫn quan trọng về Thiền định.
Tóm
lại, tôi muốn nói (1) tôi rất cảm kích sự giúp đỡ của
mọi người trong việc dịch sách và hiệu đính, cũng như
những người chịu trách nhiệm xuất bản quyển sách nầy,
(2) để thúc đẩy các bạn đọc đừng dừng lại ở sự
hiểu biết lý luận, mà phải áp dụng cái hiểu biết đó
trong sự thực tập có hệ thống và miên mẫn, và (3) tôi
muốn nói lên nguyện vọng chân thành ước muốn các vị đạt
được sự sáng suốt một cách nhanh chong và hưởng được
những ích lợi thiết thực đã được đức Phật nói đến
trong lời nói đầu của Satipatthāna Sutta (Đại Tập Kinh) .
Bhaddanta
Sobhana (Agga Mahāpandita)
Mahāsi
Sayādaw
October
1st, 1970
'Thathana
Yeiktha',
16,
Hermitage Road,
Rangoon,
Burma
Bước
chuẩn bị
Nếu
anh thật lòng mong muốn phát triển sự thiền định và đạt
sáng suốt trong đời hiện tại, anh phải thực tập, từ bỏ
hết những ý nghĩ và hành động có liên quan đến cuộc đời.
Hành động nầy là một cách để thanh tịnh hoá hạnh kiểm,
bước đầu quan trọng để tiến đến sự phát triển thiền
định một cách đúng đắn. Anh phải gìn giữ giới
luật của người cư sĩ tại gia, (hoặc tu sĩ, tuỳ vào trường
hợp), giới luật giúp cho anh có cái nhìn sáng suốt. Đối
với những cư sĩ, những giới luật bao gồm Bát giới mà
các phật tử thuần thành thường tham dự vào ngày trai giới
(uposatha), và trong những lúc thiền định 1 . Một giới
luật nữa đó là không được nói bài xích, diễu cợt, hoặc
có ác ý đối với những người đang đạt đến trạng thái
bất khả xâm phạm (states of sanctity.2). Nếu anh đã lỡ
phạm sai lầm nầy, anh nên đến trước người ấy để xin
lỗi, và gửi lời xin lỗi đến họ qua vị thiền sư của
anh. Trong quá khứ, nếu như anh đã có nói những lời xúc
phạm đến một vị đáng kính, và bây giờ người đã không
còn nữa, hoặc đã chết, anh cũng nên tỏ rõ lỗi nầy và
nhờ vị thiền sư giúp đỡ hoặc anh có thể duyệt xét lại
nội tâm của mình.
Các
vị thầy phật giáo xưa kia thường hay khuyên chúng ta nên
giao phó chính bản thân mình cho đức Phật, vị đã giác ngộ,
trong khi thực tập thiền định, anh có thể sẽ bị sửng
sốt khi nhận thấy tâm thức của anh không hoàn thiện hoặc
có những ảo ảnh đáng sợ trong khi thiền định. Lúc nầy,
anh hãy nương theo sự chỉ dẫn của vị thiền sư, bởi vì
chỉ có thầy mới có thể nói rõ với anh việc anh cần làm
khi thiền định và cho anh lời khuyên thích hợp nhất. Có
rất nhiều lợi ích khi đặt hẳn niềm tin vào bậc giác ngộ,
đức Phật, và thực tập dưới sự chỉ dẫn của một vị
thầy. Mục đích của sự thực tập là lợi ích cao tột để
buông bỏ tham, giận và si mê, chúng là những gốc rễ của
xấu ác và đau khổ. Sự thực tập miên mật trong quá trình
đạt sáng suốt cần được hoàn thành một cách mỹ mãn.
Cách thực tập thiền định dựa trên căn bản của chính
niệm (satipatthāna), đã được các chư Phật và thánh chúng
thực tập và thành công. Các vị cũng nên mừng vì đã cơ
hội để thực tập giống như vậy.
Lúc
nầy cũng là lúc quan trọng để anh có thể bắt đầu sự
thực tập của mình, dù ngắn ngủi, dựa vào « bốn sự bảo
hộ » mà bậc giác ngộ, đức Phật, đã ban tặng cho
anh để suy ngẫm. Việc nầy rất tốt cho phúc lạc tinh thần
của anh. Những chủ thể của bốn suy ngẫm bảo hộ là :
đức Phật, lòng từ bi, sự chán ghét thân thể, và sự chết.
Đầu tiên, hãy dâng bản thân anh cho đức Phật bằng cách
biết đánh giá chín phẩm chất tốt lành nhất như sau :
Thật
vậy, đức Phật là một vị thánh thiện, hoàn toàn giác ngộ,
hoàn hảo trong sự hiểu biết và hạnh kiểm, một người
phúc lạc, nổi tiếng, một vị lãnh đạo không ai sánh bằng,
bậc đạo sư của trời và người, bậc tỉnh thức, giác
ngộ.
Điều
hai, hãy suy ngẫm và ban phát lòng từ bi của anh đến các
chúng sinh, và hãy xem anh và các chúng sinh ấy là một, không
phân biệt, như vậy : Nguyện sao cho tôi thoát khỏi hận thù,
bệnh hoạn và muộn phiền. Cũng như tôi, nguyện cho cha mẹ,
thầy cô, những chúng sanh thân thuộc, xa lạ và không quen
biết, được xa lìa sự thù hằn, bệnh hoạn và phiền muộn.
Nguyện cho họ thoát khỏi đau khổ.
Điều
ba, suy ngẫm về tính chất tự nhiên ô uế của thân thể,
sẽ giúp cho anh giảm đi sự bám víu không tốt lành mà đa
số mọi người đều nuông chìu, tham đắm. Suy ngẫm về những
thứ bất tịnh, như bao tử, ruột non ruột già, đàm, mủ,
máu3. Luôn suy ngẫm về những thứ bất tịnh nầy sẽ làm
giảm đi sự yêu mến bám víu vào thân thể.
Sự
bảo hộ thứ tư về mặt lợi ích tinh thần là suy ngẫm về
hiện tượng của cái chết gần kề. Các bài giảng phật
giáo nhấn mạnh rằng đời sống là không chắc chắn, nhưng
sự chết là một điều chắc chắn ; cuộc sống quý giá nhưng
sự chết thì hiển nhiên. Mục đích của sự sống là sự
chết. Có sanh, bệnh, khổ, già, và rồi chết. Tất cả những
khái niệm nầy là quá trình của sự hiện hữu.
Để
bắt đầu thực tập, hãy ngồi thẳng theo tư thế kiết già.
Anh sẽ cảm thấy thoải mái hơn nếu hai chân không khoá vào
nhau nhưng đặt bằng trên sàn, đôi chân không chận lên nhau.
Nếu anh thấy ngồi trền sàn không thoải mái khi thiền định,
thì anh có thể tìm một cách ngồi khác sao cho thoải mái.
Bây giờ bắt đầu với mỗi bài thực tập sau đây.
Bài
tập I
Hãy
giữ tâm thức (không phải cặp mắt) ở phần bụng. Anh sẽ
biết khi nào có sự chuyển động của bụng lên cao hay xuống
thấp. Nếu những chuyển động nầy không rõ ràng cho anh từ
lúc bắt đầu, anh hãy để hai bàn tay lên bụng để cảm
nhận sự lên cao, xuống thấp của bụng. Sau một thời gian
ngắn với sự chuyển động lên cao và hơi thở ra vào sẽ
trở nên rõ ràng. Kế đó, hãy ghi nhớ trong tâm thức sự
chuyển động lên cao nầy, cũng như sự chuyển động xuống
thấp. Ghi nhớ bằng tâm thức mỗi một sự chuyển động
khi nó xuất hiện.
Từ
sự thực tập nầy, anh học được sự chuyển động lên
xuống của bụng. Anh không lo lắng về hình dạng của bụng.
Anh chỉ nhận biết cảm thọ của thân đối với lực ép
khi bụng phồng lên xẹp xuống. Như vậy, đừng dừng lại
ở hình dạng của bụng mà hãy tiếp tục với việc thực
tập. Đối với những người sơ cơ, cách nầy rất hữu hiệu
để phát triển những khả năng về sự chú ý, chú tâm của
tinh thần và suy ngẫm sáng suốt. Khi việc thực tập tiến
triển, mỗi một chuyển động sẽ rõ ràng hơn. Khả năng
biết trước mỗi bước kế tiếp của tiến trình về thân
cũng như tâm, để đạt đến trạng thái phát triển hoàn
toàn về sáu giác quan thì cần phải có sự thiền định sáng
suốt. Vì anh chỉ là một người sơ cơ nên sự chú tâm và
khả năng chính niệm rất yếu, anh có thể sẽ thấy khó khăn
khi để tâm thức theo dõi mỗi sự chuyển động lên xuống
của bụng. Thấy được sự khó khăn nầy, anh có thể cho
rằng, «Tôi không biết kềm giữ tâm thức theo những chuyển
động. » Hãy chỉ nhớ đây là một quá trình học tập.
Sự chuyển động lên xuống của bụng lúc nào cũng hiện
diện, và như vậy, cũng không cần thiết phải tìm kiếm chúng.
Thật ra, việc nầy khá dễ đối với người sơ cơ khi họ
chỉ cần nhớ rõ sự chuyển động lên xuống giản dị nầy.
Hãy
tiếp tục với thực tập nầy trong chính niệm hoàn toàn,
để ý sự chuyển động lên xuống của bụng. Đừng bao giờ
lặp đi lặp lại, lên, xuống, và đừng nghĩ đến lên xuống
là những chữ. Chỉ cần biết rõ quá trình hiện tại với
sự chuyển động lên xuống của bụng. Đừng để thở quá
nhanh hay quá sâu với chủ yếu chỉ làm cho sự chuyển động
của bụng rõ ràng, vì cách nầy sẽ làm cho mau mệt và sẽ
phản tác dụng đối với cách thực tập nầy. Hãy hoàn toàn
tỉnh giác với sự chuyển động lên và xuống như khi chúng
xuất hiện trong quá trình hít ra thở vào một cách bình thường.
Bài
thực tập II
Khi
anh đang theo dõi sự chuyển động của bụng, những hoạt
động khác của tâm thức cũng xuất hiện giữa những chuyển
động lên xuống nầy. Các ý nghĩ hoặc những hoạt động
tinh thần, như dự định, ý kiến, sự tưởng tượng thường
hay xuất hiện giữa những ghi nhận về sự chuyển động
của bụng khi lên cao xuống thấp. Không thể không để ý
đến chúng. Một ghi nhận tâm thức cũng nên được ghi lại
đúng với sự xuất hiện của nó.
Nếu
anh tưởng tượng một vật gì, anh phải biết rằng anh đang
tưởng tượng việc đó và ghi lại nơi tâm thức, tưởng
tượng. Nếu anh chỉ đơn giản nghĩ đến một việc gì đó,
thì ghi nhớ - suy nghĩ. Nếu anh suy ngẫm, thì ghi nhớ - suy
ngẫm. Nếu anh có ý định làm việc gì, thì ghi nhớ ý định
đó. Khi tâm thức lang thang khỏi đối tượng thiền định
thì sự lên xuống nơi bụng không được tập trung, nhưng
vẫn được ghi nhận. Nếu anh tưởng tượng phải đi đến
một nơi nào đó, ghi nhớ là phải đi. Khi anh đến, cứ đến.
Khi ấy trong ý tưởng, anh gặp một người, ghi nhận gặp
mặt người ấy. Nếu anh phải nói chuyện với cô hay anh ấy,
hãy cứ nói. Nếu anh tưởng tượng bàn cãi với người đó,
hãy bàn cãi. Nếu anh thấy màu sắc hay ánh sáng, chỉ cần
ghi nhận là anh nhận thấy chúng. Một hình ảnh từ tâm thức
cũng cần được ghi nhận mỗi khi nó xuất hiện và biến
mất. Sau khi nó biến mất thì anh hãy tiếp tục với Bài thực
tập I, bằng cách chú tâm vào mỗi chuyển động của bụng
khi lên cao xuống thấp. Tiến bước một cách cẩn thận, không
giãi đãi. Nếu anh có ý định nuốt nước miếng khi nói,
thì hãy ghi nhận ý định ấy. Trong khi anh nuốt nước miếng,
hãy nuốt nước miếng. Nếu anh phải khạc nhổ, hãy khạc
nhổ. Sau đó, anh quay lại bài thực tập chuyển động của
bụng lên cao, xuống thấp.