|
c
BỐN SỰ THẬT
NHIỆM MẦU
Joseph
Goldstein
Nguyễn
Duy Nhiên dịch
Khổ
Đế
Trong
thời gian giáo lý của đức Phật đươ.c truyền bá khắp
nơi trên Á Châu và thế giới, có nhiều trường phái với
nhiều lối giải thích về Phật pháp khác nhau đươ.c sinh
lên. Mỗi trường phái chú trọng vào một điểm riêng, có
một hệ thống thần học riêng và những phương tiện khéo
léo riêng biệt. Mặc dù các truyền thống khác nhau ấy có
thể không đồng ý về một số điểm trong giáo lý đức
Phật, nhưng có một công thức giáo pháp chung mà bao giờ cũng
vẫn là trọng tâm của mọi truyền thống, đó là : Tứ Diệu
Đế hay là Bốn Sự. Thật Mầu Nhiệm.Đức Phật diễn tả
sự thật đầu tiên trong Tứ Diệu Đế là Khổ đế, sư.
thật về khổ đau. Chữ dukkha trong tiếng Pali có một nghĩa
rất rộng, nó bao gồm khổ đau, bất an và sư. bất mãn. Đức
Phật sau khi giác ngộ, ngài đã đối diện với sư. thật
về khổ đau trong cuộc đời một cách không sợ hãi, không
tư. thán. Ngài đã nhận diện những vấn đề của khổ đau
hết sức rõ ràng : nỗi đau đớn của sanh, lão, bịnh, tư?,
nỗi sầu lo, thất vọng, ưu tư, buồn khổ vì xa lìa người
mình yêu, vì gần gũi người mình không ưu thích, vì không
có đươ.c điều mình muốn - tất cả những cái ấy đều
là dukkha. Khi ta quán chiếu tư. tánh duyên khởi của mọi hiện
tươ.ng trên một cách sâu xa và tinh tế, chúng ta sẽ bắt
đầu thấy đươ.c bản chất khổ đau cố hữu của chúng.Chúng
ta ai cũng biết rằng những cảm thọ đau đớn trong tâm và
thân là khổ đau. Nhưng chúng ta cũng có thể kinh nghiệm đươ.c
khổ đau ấy, khi ta ý thức đươ.c sư. ngắn ngủi tạm thời
của mọi hiện tượng. Không có bất cứ một kinh nghiệm
nào, cho dầu tuyệt vời đến đâu, lại có thể đem đến
cho ta một sư. thoảmãn sâu xa và trường cửu, vì chúng lúc
nào cũng thay đổi. Sư. lưu chuyển không ngừng của các hiện
tươ.ng thường gợi tôi liên tưởng đến một dòng nước
đổ xuống từ một ghềnh thác cao. Dòng nước rơi xuống,
tan tác, bất tận - ào ào - không bao giờ ngừng nghỉ . Đó
cũng là tư. tánh của mọi hiện tươ.ng.Thêm vào đó, đức
Phật đã diễn tả về một loại khổ đau thứ ba rất chi
tiết trong một bài pháp nói về lửa : "Mắt đang bị lửa
thiêu đốt, tai đang bị lửa thiêu đốt... thân... tâm... đang
bị lửa nào thiêu đốt? Lửa của tham lam, lửa của sân hận
và lửa của si mê. "Chúng ta khó có thể nào cởi mở đươ.c
đối với sư. thật khổ đau, vì lúc nào ta cũng đi trốn
tránh chúng, đi tìm ẩn náo trong cuộc sống hằng ngày. Chúng
ta thường đi tìm hạnh phúc và nương tựa vào những gì đem
lại cho mình khoái lạc, những gì mà chính chúng cũng chỉ
là tạm bơ., nhất thời. Tất cả cũng chỉ vì phần đông
chúng ta không biết thực tập phương pháp dừng lại, cởi
mở ra với sư. sống chung quanh mình, để có thể cảm nhận
đươ.c những gì thật sự đang xãy ra. Có một điều hơi
mâu thuẩn, nhưng cũng rất là nhiệm mầu, về khổ đau là
khi ta càng cởi mở càng tìm hiểu nó, thì tâm ta sẽ lại
càng trở nên nhẹ nhàng và tư. do hơn. Vì khi ta không còn
chối bỏ hay trốn tránh sư. thật nữa, tâm ta sẽ trở nên
bao la hơn, cởi mở và an lạc hơn. Chúng ta cũng sẽ không
còn bị sai sử bởi lòng tham dục hoặc những đam mê của
mình, vì ta có thể nhìn thấy được rõ ràng tự tánh của
mọi vật như là chúng hiệnhữu.Nhưng nếu chỉ nhìn thấy
và hiểu đươ.c khổ đau trong cuộc đời này thôi cũng vẫn
chưa đủ . Chân đế thứ hai, Tập đế, nhận diện đươ.c
nguyên nhân của khổ đau. Khổ đau bắt nguồn từ đâu?
Tập
Đế
Danh
từ kilesa trong tiếng Pali có nghĩa là cảm xúc khổ thọ, tức
là những nổi thống khổ trong tâm như là tham lam, ghen tức,
thù hằn, sân hận, sơ. hãi. Những trạng thái tương tư. như
thế dày xéo tâm ta, chúng làm cho ta điêu đứng và tạo nên
trăm ngàn khổ đau.Kilesa có thể biểu hiện trên nhiều bình
diện khác nhau. Đôi khi chúng có năng lươ.ng đủ mạnh để
biến thành những hành động vô cùng bất thiện như là :
Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, tư. hủy hoại mình và làm hại
người khác. Ta có thể thấy đươ.c năng lươ.ng của kilesa
biểu lộ thật rõ rệt, mỗi khi ta quan sát những gì đang
xảy ra khắp nơi trên thế giới : giết chóc, hảm hiếp, tra
tấn, đói khát, thù hận. Những khổ đau này có gốc rễ
nằm trong tâm của mọi người, trong đó có cả bạn và tôi.Chúng
ta có thể làm vơi bớt đi phần nào những khổ đau trên cuộc
đời này bằng cách giữ một giới hạnh trong sạch. Đức
Phật có dạy cho chúng ta về Ngũ Giới như là một phương
pháp bảo vệ, giữ cho ta khỏi phạm vào những việc làm bất
thiện. Ngũ giới ấy là : không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, và không dùng những chất say.
Bạn hãy tươ?ng tươ.ng xem cuộc đời này đẹp biết bao nhiêu
nếu ai cũng chỉ cần giữ một giới thôi - không giết hại
người khác.Ỡ một mức độ thấp hơn, thì kilesa là những
tâm thức bất thiện nào có khả năng tạo nên những lời
nói hoặc tư tươ?ng mà ảnh hươ?ng của chúng hơi yếu hơn
một chút. Và mức độ sâu kín hơn hết của kilesa, còn đươ.c
gọi là những bất thiện ẩn tàng, hay những-hướng-khổ-đau
tiềm tàng. Những khổ đau ấy hiện không có mặt trong giờ
phút hiện tại, nhưng chúng có một tiềm năng khởi dậy nếu
gặp hoàn cảnh thích hơ.p. Ví dụ như khi một người bị
đặt vào những trường hợp khẩn trương, họ thường có
những hành vi bất thiện mà thường ngày người ấy sẽ không
bao giờ dám làm. Đó cũng chính là ở tiềm năng ấy.Đức
Phật cũng có nhấn mạnh đến một loại tâm bất thiện đặc
biệt, mà ta cần phải nhổ bỏ tận gốc, nếu ta muốn tận
diệt nguyên nhân của khổ đau. Loại kilesa này, đươ.c xem
như là nguy hiểm nhất, đó là niềm tin cho rằng mình có một
cái "Tôi" thường hằng, bất biến. Ngày nào tâm ta vẫn còn
bị ô nhiễm bởi tà kiến ấy, với quan niệm sai lầm ấy,
nó sẽ lôi kéo ta vào biết bao nhiêu những việc làm bất
thiện khác nữa! Và khi chúng ta có một ý niệm sai lầm về
một cái "Tôi", ta sẽ cố gắng bảo vệ nó, thoả mãn nó,
rồi biết bao nhiêu hành động của mình chung qui cũng chỉ
để phục vụ cho ý niệm sai lầm này mà thôi. Nhà văn Wei
Wu Wei có diễn tả cái tâm bất thiện ấy một cách thật
gọn gàng và chính xác : "Nó cũng giống như một con chó ngồi
sủa một cái cây, nhưng chỉ có điều là không có cây nào
ở nơi đó cả !"Thiền tập có khả năng thanh lọc tâm ta
sạch hết những bơ.n nhơ của kilesa, những gì đã từng gây
nên biết bao khổ đau trong cuộc đời, mà chúng cũng là nền
tảng cho cái nhìn sai lầm về sư. sống của ta. Nhờ năng
lư.c của một ý thức tỉnh giác, ta sẽ có thể cảm nhận
đươ.c, nếm được mùi vị của vô ngã - sự vắng mặt của
một cái Tôi. Và ta sẽ hiểu đươ.c nó, không bằng lý thuyết
hay qua ý niệm, nhưng bằng một kinh nghiệm trư.c tiếp ở
ngay giờ phút hiện tại này.Thật ra tuệ giác giải thoát
ấy không có gì là mới lạ cả. Nó đã có từ thời đức
Phật và vô số những đức Phật trước đó nữa. Sư. hiểu
biết này cũng chính là tư. tánh của Phật pháp. Nó đã đươ.c
diễn tả qua tuệ giác của biết bao người thuộc nhiều nền
văn hoá khác nhau. Một dũng sĩ Nhật vào thế kỷ thứ 14 có
viết :
Tôi
không có mẹ cha,
Tôi
lấy trời đất làm cha mẹ .
Tôi
không nơi cư ngụ ,
Tôi
lấy sư. tỉnh giác làm nhà.
Tôi
không có tử sanh,
Tôi
lấy sư. ra vào của hơi thở làm lẽ sống chết.
Tôi
không có thần thông,
Tôi
lấy sư. chân thật làm phép lạ
Tôi
không có bạn bè,
Tôi
lấy tâm mình làm bằng hữu.
Tôi
không có kẻ thù,
Tôi
lấy thất niệm làm địch thủ .
Tôi
không có áo giáp,
Tôi
lấy từ tâm làm sư. bảo vệ .
Tôi
không có lâu đài,
Tôi
lấy tâm bất động làm thành trì bao bọc.
Tôi
không mang đao kiếm,
Nhưng
tôi chỉ cần một lưỡi gươm vô ngã mà thôi!
Diệt
Đế
Chúng
ta đều là những dũng sĩ, lấy vô ngã làm thanh gươm trí
tuệ . Thanh gươm báu ấy có khả năng chém xuyên qua những
si mê và đâm thủng đươ.c tấm màn vô minh mờ mịt.Chân
lý thứ nhất là Khổ đế, dạy cho ta về sư. thật khổ đau
và những mức độ khác nhau của chúng. Người hành giả hiểu
đươ.c chân lý thứ hai, tức Tập đế, sẽ nhận thức đươ.c
các nguyên nhân của khổ đau và tập buông bỏ chúng. Họ
sẽ làm lung lay và bứng nhổ hết những gốc rễ của phiền
não trong tâm, nhất là ý niệm về cái Ngã.Chân lý thứ ba
của Tứ Diệ Đế, dạy rằng có một con đường có thể
chấm dứt khổ đau, để trút bỏ đươ.c gánh nặng trên vai
mình. Trong sư. tu tập, thỉnh thoảng ta cũng có thể thoáng
thấy đươ.c sư. chấm dứt khổ đau ấy. Chúng ta có thể
nếm đươ.c vị giải thoát nầy trong một khoảnh khắc, khi
một kilesa vừa biến mất. Trong những khi ta đang bị vướng
mắc vào những tình cảm phiền muộn, ta sẽ cảm thấy bó
buộc, nóng nảy, nhỏ nhen; và vừa khi ta buông bỏ chúng, tức
thì tâm ta sẽ đươ.c tự tại ngay. Ngay trong chính giây phút
ấy, ta nếm đươ.c mùi vị của giải thoát, mùi vị của
sư. chấm dứt khổ đau. Sư. tư. do ấy là thật, vì nó là
kinh nghiệm của chính ta chứ không phải chỉ là một ý niệm
đẹp mơ hồ nào đó. Cũng vậy, mỗi khi bạn có thể ý thức
đươ.c sư. có mặt của một tư tưởng, thay vì bị nó lôi
cuốn theo, tức là bạn đã kinh nghiệm đươ.c sư. bừng mở
của tâm mình rồi đó.Một kinh nghiệm tương tơ. với sư.
buông bỏ này là như khi ta đi xem hát. Khi ở trong rạp ta sẽ
bị cuốn phim hấp dẫn thu hút vào cốt truyện, và khi xem
xong ta bước ra ngoài. Ta có một cảm giác rằng thư.c tại
đã đột ngột thay đổi, một kinh nghiệm thức tỉnh nhỏ
bé :" , thì ra đó chỉ là một chuyện phim!" Nhưng còn cuốn
phim trong tâm của ta thì sao, bao giờ ta mới chịu bước ra
ngoài? Mỗi giây phút khi ta tỉnh giác và ý thức đươ.c những
gì đang xãy ra, sẽ là những giây phút giác ngộ trong đời
mình. "À, đúng rồi, đó chỉ là một tư tưởng mà thôi.
Chẳng phải là một chuyện gì ghê gớm như mình nghĩ!" Trong
giây phút ấy tất cả sẽ bừng mở. Chúng ta cũng có thể
kinh nghiệm đươ.c sư. chấm dứt của khổ đau bằng một
cách khác, khi ta đạt đến trình độ gọi là "bình thản
trước mọi sư. thành tựu." Một tâm tĩnh lặng thì bao giờ
cũng sẽ vững vàng và quân bình trước bất cứ những việc
gì xãy đến. Chúng ta sẽ cảm thấy thư thái và cởi mở
trước sư. tha(ng trầm của mọi vật. Một tâm trầm tĩnh
thì sẽ không bao giờ phản ứng một cách quá khích. Trạng
thái này cũng gần giống như tâm của một người đã hoàn
toàn giác ngộ . Vì thế, mặc dầu ta chưa thật sự bước
ra khỏi cuộc đời, chưa được giải thoát viên mãn, nhưng
ta cũng vẫn có thể kinh nghiệm được chốn an lạc nầy.Chúng
ta có thể kinh nghiệm đươ.c sư. chấm dứt khổ đau bằng
cách quán chiếu những hiện tương duyên sinh - nhận thức
đươ.c sự vô minh, vô duyên khơ?i của chúng.
Đạo
Đế
Chân
lý thứ tư của Tứ Diệu Đế là Đạo Đế, hoàn tất con
đường đi đến sư. giải thoát. Con đường tu tập của đức
Phật dạy rất là trư.c tiếp và rõ ràng, mặc dù nó đòi
hỏi một sư. phó thác và một sư. kiên gan, bền chí phi thường.
Con đường tu tập ấy bao gồm sư. đào luyện trong ba lãnh
vư.c. Thứ nhất là trau giồi về giới luật, không sát hạị
Nếu sư. tu tập của ta không đươ.c đặt trên nền tảng
của một thiện chí đối với mình và tha nhân, thì việc
ấy cũng giống như là chèo thuyền qua sông mà trong khi con
thuyền vẫn còn
cột
chặt vào bến. Sự cố gắng của ta, cho dù có bền chí đến
đâu, cũng sẽ không mang đến một quả trái nào. Chúng ta
cần phải tu tập và tôi luyện khả năng sống chân thật
và thanh liêm của mình.Việc thứ hai chúng ta cần trau dồi
là phát triển na(ng lư.c, định lư.c, và sư. tỉnh giác. Đây
là những công cụ của thiền quán và của sư. sống, có khả
năng làm cho ta tỉnh thức. Không có những yếu tố ấy, chúng
ta cả đời sẽ chỉ hành động theo những tập quán, thói
quen tích tụ lâu đời, lâu kiếp của mình mà thôi! Hai sư.
trau luyện ấy sẽ làm nền tảng cho sư. phát sinh của tuệ
giác. Tuệ giác để nhìn thấy đươ.c sư. vô thường một
cách rõ ràng, thấy đươ.c tính chất bị điều kiện chi phối
của mọi hiện tươ.ng, biết đươ.c rằng bất cứ việc gì
hễ có sanh thì phải có diệt. Khi chúng ta quán chiếu chúng
một cách thẩm thấu, chúng ta sẽ không còn bám víu nữa,
và khi ta đã không còn bám víu nữa thì mọi khổ đau tự
nhiên sẽ chấm dứt.
(Hết)
Joseph
Goldstein
Nguyễn
Duy Nhiên dịch
WP: Trí Đạt
|